Skip Ribbon Commands
Skip to main content

Skip Navigation LinksAN GIANG PHÁT TRIỂN

Chào mừng quý vị đến với Cổng thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh An Giang!
 
AN GIANG PHÁT TRIỂN
Thành kính tưởng nhớ Bác! (19/05/2024 11:25:00)
 
 
 
 
 
  
Phân loại
  
  
  
  
  
Tóm tắt
  
  
  
  
Nội dung
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sống mãi trong tim người dân Vĩnh PhúAn Giang 190 nămBài viếtPhương LanTổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sống mãi trong tim người dân Vĩnh Phú/SiteAssets/TBT-NPT-voi-dan-VinhPhu-1.jpg
25/07/2024 2:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Với người dân xã Vĩnh Phú, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một nhân cách lớn của dân tộc, một nhà lãnh đạo kiệt xuất, và cũng là một con người giản dị, khiêm nhường, vô cùng gần gũi.

 TBT-NPT-voi-dan-VinhPhu-1.jpg

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gần gũi với người dân Vĩnh Phú. Ảnh: địa phương cung cấp.

"Dưới làn áo mỏng này, là một trái tim…"

Năm 2011, trong chuyến làm việc tại tỉnh An Giang, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã về thăm và kiểm tra tình hình phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở xã Vĩnh Phú. Từ ngày đó, hình ảnh "ông cụ mắt sáng ngời, áo nâu túi vải" về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn in đậm trong tâm trí người dân Vĩnh Phú. Đặc biệt, trong ký ức các cụ cao niên - những người đã từng vinh dự được Bác thăm hỏi, trò chuyện, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn là người lãnh đạo giản dị, đáng kính, gần dân, hiểu dân và nghe dân. Khí chất cao quý ấy toát ra từ ánh mắt cương nghị, khuôn mặt hiền từ, và cả phong thái nữa… Từ khi hay tin Tổng Bí thư từ trần, bà con vùng quê Vĩnh Phú khôn nguôi thương nhớ.

Một buổi chiều mưa rả rích, chúng tôi được chính quyền địa phương xã Vĩnh Phú dẫn đến thăm ông Thạch Văn Thơ (74 tuổi, ngụ ấp Trung Phú 1, xã Vĩnh Phú). Ông Thơ là người từng rất vinh dự được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến thăm, tặng quà và có những phút giây trò chuyện rất thân tình. Ở tuổi xế chiều, những căn bệnh tuổi già cũng thi nhau kéo đến, khiến sức khỏe ông Thơ giảm sút rất nhiều. Khi được hỏi về những hồi ức với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cách đây 13 năm, ông Thơ cố nén cảm xúc nhưng làm sao giấu đi đôi mắt đang nhòe đi vì ngấn lệ. 

Giọng nghẹn ngào, ông Thơ hồi tưởng: "Tôi nhớ rất rõ lúc đó, ngay khi gặp tôi, Tổng Bí thư đã dành cái ôm tình cảm và bắt tay rất ấm áp. Lúc ấy, tôi run và hồi hộp lắm nhưng lại vui đến lạ thường vì lần đầu tiên tôi được diện kiến và trò chuyện với vị lãnh đạo cấp cao của đất nước. Cũng tại bộ bàn ghế nơi phòng khách này, Tổng Bí thư đã niềm nở hỏi thăm đời sống của vợ chồng tôi. Chỉ vỏn vẹn khoảng 15 phút thôi, bằng sự quan tâm sâu sắc, Tổng Bí thư đã hỏi thăm tình hình làm ăn, sản xuất, vụ mùa của gia đình và nhắn nhủ hãy tiếp tục ra sức lao động, sản xuất, góp sức xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp. Từ những rụt rè ban đầu, tôi đã cảm thấy sự ấm áp lan tỏa từ Bác, để rồi cởi mở trò chuyện rất vui vẻ. Lần gặp ấy, đối với tôi là một vinh dự vô cùng lớn. Mấy ngày hôm nay tôi thường lấy hình ảnh chụp cùng với Tổng Bí thư để nhìn ngắm lại. Tất cả như mới diễn ra ngày hôm qua thôi…!".

Ngày Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về thăm Vĩnh Phú, cô Võ Thị Mỹ Hương (Trưởng Ban công tác Mặt trận, ấp Trung Phú 2, xã Vĩnh Phú) khi đó là Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Vĩnh Phú. Bày tỏ cảm xúc về lần hiếm hoi được gặp Tổng Bí thư khi đó, cô Hương mỉm cười rất tự hào: "Tôi vui lắm! Bấy giờ, tôi chỉ đứng ở xa nhìn Bác thôi nhưng bấy nhiêu cũng rất vinh dự rồi. Như cảm nhận của bao người, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất bình dị, gần gũi. Kỷ niệm sâu sắc nhất của tôi về ông chính là bức ảnh hồi 13 năm trước. Khi Tổng Bí thư đã xong việc, chuẩn bị rời xã, như quên điều gì rất quan trọng, ông từ tốn: "Nãy giờ chụp hình với lãnh đạo nam cũng nhiều, giờ sắp về rồi, Bác chụp 1 tấm với các cháu nữ để làm kỷ niệm nha!". Bấy nhiêu cũng đủ thấy Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ là lãnh đạo kiệt xuất mà còn là người rất tình cảm".

Từ ngày 19/7, khắp nơi trên đất nước Việt Nam, gần như câu chuyện nào cũng là thông tin về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Sự tiếc thương vô hạn và nước mắt của hàng triệu người đã rơi khi hay tin vị Tổng Bí thư đáng kính đã về với thế giời "người hiền". Mỗi người theo cách của riêng mình, ai cũng tưởng nhớ về Tổng Bí thư. "Tôi chỉ là một người dân bình thường, nhưng tôi luôn biết rằng Tổng Bí thư đã cống hiến cả đời cho đất nước, là người lãnh đạo dẫn dắt nước Việt Nam có "vị thế" như hôm nay. Sau khi hay tin Tổng Bí thư ra đi, tôi cũng như hàng triệu người dân của cả nước vô cùng thương tiếc. Mọi dự định vui chơi của riêng mình, tôi đều gác lại để tưởng nhớ về vị Tổng Bí thư đáng kính của dân tộc" - anh Nguyễn Duy Nam (ngụ ấp Trung Phú 2, xã Vĩnh Phú) chia sẻ.

 TBT-NPT-voi-dan-VinhPhu-2.jpg

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm, làm việc tại xã Vĩnh Phú năm 2011. Ảnh: Địa phương cung cấp.

Phấn đấu không ngừng để xứng đáng kỳ vọng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Trở về năm 2011, báo cáo với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về "nông nghiệp, nông dân, nông thôn", Đảng ủy xã Vĩnh Phú thông tin, việc huy động sức dân để xây dựng nông thôn từ năm 2001 đến năm 2009 được triển khai thực hiện theo quy chế dân chủ cơ sở, đã tạo sự đồng tình hưởng ứng của Nhân dân nhất là những hộ có đất sản xuất nông nghiệp (hằng năm mỗi hộ đóng góp ít nhất là 100.000 đồng và cao nhất là 5 triệu đồng). Từ đó đã tạo dần ý thức trong Nhân dân, nên khi đi vào thực hiện xây dựng nông thôn mới phần lớn nguồn lực xã hội hóa được Nhân dân đồng tình, tích cực hưởng ứng.

Theo đó, diện tích đất trồng lúa trên địa bàn xã 3.153 ha, trong đó có 3.051 ha sản xuất 3 vụ ở 6 tiểu vùng với 16 trạm bơm điện đáp ứng 100% bơm tiêu. Chương trình "Ba giảm ba tăng" được nhân rộng trong toàn xã với 95% diện tích, trong đó ứng dụng "Một phải năm giảm" chiếm 30%. Xã có 2 tổ sản xuất giống với diện tích 315ha/vụ, mỗi năm diện tích trồng lúa Nhật từ 200 - 300 ha. Tổng sản lượng lương thực hằng năm đạt khoảng 60.000 tấn. Thực hiện cơ gới hóa 100% trong sản xuất như cày xới, 95% diện tích gặt đập liên hợp (49 máy); lò sấy tại xã đảm bảo đạt 50% diện tích.

Khi đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, địa phương đã đạt nhiều thành tích nổi bật trong phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn theo phương thức Nhà nước và Nhân dân cùng làm, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, thực hiện cơ giới hóa trong nông nghiệp... Đồng thời, mong muốn địa phương tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục các tồn tại, hạn chế, khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh vốn có.

Khắc ghi lời căn dặn đó, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã Vĩnh Phú không ngừng phấn đấu, linh hoạt và sáng tạo trong việc đưa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước vào cuộc sống. Địa phương được công nhận là xã nông thôn mới đầu tiên của huyện (năm 2015). Đó là tiền đề giúp xã Vĩnh Phú đưa kinh tế - xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất, tinh thần người dân không ngừng được nâng cao; quốc phòng - an ninh được giữ vững.

TBT-NPT-voi-dan-VinhPhu-3.jpg 

Ông Thạch Văn Thơ chia sẻ kỷ niệm được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ghé thăm hỏi.

"Sau khi về đích nông thôn mới, xã đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo để tiếp tục nâng cao chất lượng các tiêu chí, chỉ tiêu. Quá trình đó, Đảng bộ xã đã thực hiện tốt phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm"; chú trọng công tác tuyên truyền, vận động, tạo sự chuyển biến căn bản trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và Nhân dân về chương trình, nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Từ đó, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị vào cuộc. Vĩnh Phú đã hoàn thành 19/19 tiêu chí, 35/35 chỉ tiêu theo Quyết định số 1005 của UBND tỉnh và được UBND tỉnh công nhận đạt chuẩn "Xã nông thôn mới nâng cao" năm 2020" - Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy xã Vĩnh Phú Nguyễn Ngọc Huy cho hay.

Trong quá trình xây dựng nông thôn mới nâng cao, địa phương đã huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2016 - 2020 hơn 17 tỷ đồng, trong đó từ nguồn vốn Trung ương, ngân sách tỉnh, huyện, xã, vốn huy động khác là hơn 8 tỷ, Nhân dân đóng góp hơn 9 tỷ đồng để thực hiện với những kết quả vượt bật trên mọi lĩnh vực. Nếu năm 2011, thu nhập bình quân đầu người xã Vĩnh Phú chỉ hơn 19 triệu đồng/người/năm, đến nay đã đạt trên 73 triệu đồng/người/năm. Đó là minh chứng sống động cho thấy sự phát triển từng ngày trên vùng quê ngày nào Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng kỳ vọng!

PHƯƠNG LAN

Công lao to lớn của danh thần Thoại Ngọc Hầu đối với vùng đất An GiangBài viếtHoàng KỳCông lao to lớn của danh thần Thoại Ngọc Hầu đối với vùng đất An Giang/SiteAssets/Bithu-tt-le-TNH-3.jpg

​HOÀNG KỲ(*)

11/07/2024 7:10 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Thoại Ngọc Hầu, một danh thần của nhà Nguyễn, công thần trong việc gầy dựng cơ nghiệp của Vua Gia Long (Nguyễn Ánh), người có nhiều công lao to lớn đối với đất nước, vùng đất Nam Bộ và đặc biệt là vùng đất An Giang. Tầm nhìn chiến lược và những công trình của Ông để lại hậu thế không những đã đặt nền móng cho quá trình khẩn điền, mở cõi vùng Nam Bộ trong thế kỷ XIX mà còn mang ý nghĩa đặc biệt đến hôm nay và mai sau.

 Bithu-tt-le-TNH-3.jpg

Tượng Danh thần Thoại Ngọc Hầu tại lăng Thoại Ngọc Hầu

Danh thần Thoại Ngọc Hầu tên thật là Nguyễn Văn Thoại, sinh ngày 26 tháng 11 năm Tân Tỵ (1761), niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 22, tại làng An Hải, tổng An Lưu Hạ, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng). Thân sinh của Ông, cụ ông Nguyễn Văn Lượng và cụ bà Nguyễn Thị Tuyết. Từ nhỏ, Ông theo gia đình di cư vào Nam, định cư tại cù lao Dài (nay thuộc 02 xã Thanh Bình và Quới Thiện của tỉnh Vĩnh Long).  

Chánh thất của ông Nguyễn Văn Thoại là bà Châu Thị Vĩnh Tế, sinh tháng 4 năm Bính Tuất (1766), con cụ ông Châu Vĩnh Huy và cụ bà Đỗ Thị Toán. Vào những năm giữa thế kỷ XVIII, gia đình bà Châu Thị Vĩnh Tế cũng từ miền Trung vào Nam, đến vùng đất cù lao Dài khai khẩn, biến vùng đất này trở thành nơi trù phú.

Đến mùa Xuân năm 1777, chúa Nguyễn Ánh tổ chức mộ binh tại Ba Giồng (Định Tường), Nguyễn Văn Thoại đầu quân cho chúa Nguyễn. Là một người thông minh, linh hoạt, lại tinh thông võ nghệ, đã lập được nhiều chiến công, Ông được chúa Nguyễn phong làm Khâm sai Thượng đạo Đại tướng quân, rồi đến Khâm sai Thượng đạo Bình Tây tướng quân. Ông từng giữ chức Quản suất biền binh lưu thủ Bắc Thành, Trấn thủ Lạng Sơn, rồi trở về Nam giữ chức Trấn thủ Định Tường (1808). Đến tháng 9, năm Quý Dậu (1813), vua Gia Long sắc phong cho Nguyễn Văn Thoại lãnh ấn Bảo hộ Cao Miên.

Năm 1817, Ông được triều đình triệu hồi về nước, cử làm Trấn thủ Vĩnh Thanh. Sau đó, Ông đã bắt tay ngay vào việc chấn chỉnh các cơ sở hành chánh, xử lý những quan lại tham ô, hạch sách người dân. Mặt khác, Ông triển khai thực hiện các chính sách của triều đình để phát triển kinh tế, mở mang các trục giao thông đường thủy, tạo điều kiện cho người Khmer, người Minh Hương, người Chăm, người Việt đến khai khẩn những vùng đất còn hoang vu ven các nhánh sông Tiền, sông Hậu để tạo lập xóm làng, cùng khai khẩn đất hoang.

Lúc bấy giờ, nhận thấy việc đi lại, trao đổi, mua bán ở vùng đất này còn nhiều khó khăn, sông rạch tự nhiên rất quanh co, việc trao đổi hàng hóa với Rạch Giá, Hà Tiên phải đi vòng đường biển. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải khơi nguồn, tháo lũ của sông Hậu ra biển Rạch Giá, Ông đã dâng biểu tấu trình hoàng thượng việc đào kênh, mở giao thông thủy đi tắt từ Đông Xuyên đến Rạch Giá.  

Tấu sớ của Ông được Triều đình chấp thuận. Tháng 11 năm Đinh Sửu (1817), Triều đình lệnh cho Ông chuẩn bị đào kênh Tam Khê[1]. Đến mùa Xuân Mậu Dần (1818), Ông được Vua giáng chỉ đào kênh Tam Khê với mục đích tạo thành giao thông thủy chiến lược quan trọng ở phía Tây sông Hậu nối liền hai trấn Hà Tiên và Vĩnh Thanh. Đây là bước tiến lớn, lần đầu tiên một con kênh dài được đào bằng sức người tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tạo điều kiện cho việc hình thành xóm làng để khai khẩn đất hoang, phát triển kinh tế trên vùng đất An Giang xưa.

Nhận được chỉ dụ, Ông cho xúc tiến đào kênh theo một lạch nước cũ, nối rạch Đông Xuyên (rạch Long Xuyên) tại Vĩnh Trạch kéo dài theo hướng Tây Nam, ngang qua chân núi Sập tiếp giáp sông Kiên Giang đổ ra biển ở cửa Rạch Giá. Ông huy động khoảng 1.500 dân, quân luân phiên đào kênh liên tục. Việc đào kênh rất khổ cực và nguy hiểm, nhất là những đoạn băng qua "rừng thiên nước độc, lam sơn chướng khí" cùng với thú dữ tấn công… có nhiều dân phu gặp nạn. Tuy nhiên, công tác hậu cần được Vợ Ông là bà Châu Thị Vĩnh Tế hết lòng giúp đỡ, thông qua huy động thân nhân của những người trực tiếp đào kênh chăm lo cho người thân của mình.

Kênh Tam Khê được hoàn thành trong thời gian một tháng[2], đáp ứng nguyện vọng của người dân, giúp quá trình quy dân tạo ấp lập làng, phục vụ sản xuất nông nghiệp, giao lưu trao đổi mua bán giữa các vùng được thuận lợi, đảm bảo an toàn trong khu vực được giao quyền trấn thủ. Việc này được Ông nói rõ trong Bia Thoại Sơn: "Ngày thụ mệnh Vua, sớm khuya kính sợ, đốn cây rậm, bới bùn lầy, đào kênh dài 12.410 tầm, trải qua một tháng thì xong việc, nghiễm nhiên trở thành một con sông to, luôn luôn ghe thuyền qua lại tiện lợi"[3]. Ông cho vẽ họa đồ và làm sớ tâu lên Vua Gia Long. Nhận thấy những lợi ích vượt ngoài mong đợi của dòng kênh mới, Vua Gia Long đã cho phép lấy tên Ông để đặt tên kênh là Thoại Hà, vua đổi tên núi Sập thành Thoại Sơn để biểu dương công lao của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại.

Đây là cột mốc quan trọng đối với cuộc đời làm quan của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại. Để ghi nhớ ơn Vua, Ông đã soạn một áng văn khắc vào bia đá và lập miếu thờ Sơn thần bên triền núi Sập để tiến hành dựng bia phía trước. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), Ông mở hội làm Lễ dựng bia và khánh thành Thần miếu; đầu bia được chạm to hai chữ "Thoại Sơn", mặt bia được khắc đúng 629 chữ, để lưu lại hậu thế, trong đó có đoạn: "Kính dựng một miếu thờ thần nơi chân núi, chạm đá làm bia, ghi rõ hai chữ Thoại Sơn, cùng kể rõ nguyên lai tên núi, ngõ hầu lưu lại đời đời không mất"[4]. Bên cạnh đó, Ông còn thực hiện truyền dụ của Vua đứng ra chiêu mộ dân đến núi Sập tạo lập xóm làng, tiến hành khai khẩn đất đai dọc hai bên kênh, biến những vùng đất hoang vu này thành vùng đất trù phú, sung túc, xóm làng được đặt tên là Thoại Sơn để ghi nhớ công ơn của Ông.

 Bithu-tt-le-TNH-1.jpg

Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang lãnh đạo tỉnh dâng hương tại lăng Thoại Ngọc Hầu

 Từ kết quả của việc đào kênh Thoại Hà, Vua Gia Long càng quyết tâm phải đào cho được con kênh thông từ Châu Đốc đến Hà Tiên. Tuy nhiên, ý định đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên được Vua nghĩ đến từ tháng Giêng, năm Bính Tý (1816), trước khi tiến hành đào kênh Thoại Hà, khi đó Ông đang giữ chức Bảo hộ Cao Miên, sau đó là Trấn thủ Vĩnh Thanh được lệnh Vua xây thành Châu Đốc. Đến cuối năm Bính Tý (1816) thành Châu Đốc được xây xong, Vua Gia Long xem địa đồ miền Châu Đốc, truyền với các quan rằng: "Đất này nay mở đường sông để đi thẳng tới Hà Tiên, làm ruộng đi buôn đều được lợi cả. Sau này dân ở đông đúc, đất mở rộng rãi, có thể thành một trấn to lớn"[5]. Tuy nhiên, sau khi suy xét kỹ lưỡng, Vua Gia Long ngưng ý định đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên, bởi Vua nhận thấy nước Cao Miên mới khắc phục được những rối loạn trong nội bộ, nếu bắt dân tiếp tục phục dịch sẽ làm cho dân lo sợ không yên. Vì vậy, đến tháng 9 năm Kỷ Mão (1819), Vua truyền chỉ cho Gia Định thành và quan Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại chỉ huy binh dân đến Châu Đốc để khởi công đào kênh vào ngày rằm tháng Chạp[6]. Trước đó, Vua Gia Long ra chiếu dụ dân Vĩnh Thanh: "Đào con sông này công việc rất khó nhọc. Kế sách của Nhà nước, mưu hoạch về biên thùy, đều quan hệ không nhỏ. Các ngươi dẫu ngày nay khó nhọc, mà thực có lợi cho muôn đời. Vậy nên bảo nhau, đừng sợ khó nhọc"[7].

Như vậy, ngoài yêu cầu về giao thông, dân cư, mở mang kinh tế, thì theo Vua Gia Long: "Vị thế Châu Đốc - Hà Tiên không kém Bắc Thành". Còn theo Vua Minh Mạng thì đây là "vùng địa đầu quan yếu, ta đã từng xuống chỉ chiêu tập dân buôn bán, cho vay tiền, gạo để lập ấp khẩn điền, quây quần sinh nhai. Đó là ý niệm của ta trong vấn đề củng cố biên cương".

Theo sử liệu triều Nguyễn, công trình đào kênh Vĩnh Tế kéo dài 97 km qua 5 năm thi công (1819 - 1824) với ba đợt. Ngay đợt đầu, đã huy động trên 10.000 nhân lực, bao gồm 5.000 quân dân trong vùng, 500 lính thuộc đồn Uy Viễn, 5.000 dân là người Khmer. Kênh đi qua nhiều đoạn đất cứng rất khó đào, lại gặp phải thời tiết thất thường, nhiều chướng khí, việc huy động nhân lực gặp nhiều khó khăn, nạn thú dữ… làm cho công việc có lúc phải gián đoạn hoặc chậm chạp. Vì vậy, Ông phải tìm cách để khắc phục khó khăn, trở ngại.

Hiểu được khó khăn của Ông, trước khi cho tiến hành kế hoạch đợt hai, Vua Minh Mạng chỉ dụ: "Đường sông Vĩnh Tế liền với Tân Cương, xe thuyền qua lại đều là tiện lợi. Đức Hoàng Khảo Thế Tổ Cao Hoàng Đế ta mưu sâu, tính xa, chú ý việc ngoài biên. Công việc đào kênh mới bắt đầu chưa xong. Nay ta theo chỉ tiên hoàng, cố nghĩ cách khó nhọc một lần mà được thong thả lâu dài về sau".

Sau đó, Vua Minh Mạng lệnh cho Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt huy động thêm nhiều dân binh hơn 55.000 người, chia làm 3 phiên, đào đắp bằng sức người với dụng cụ thô sơ, hàng triệu mét khối đất đá và thay nhau thi công suốt ngày đêm, nhưng hết mùa Xuân sang mùa Hè thì việc đào kênh tiếp tục tạm hoãn vì hạn hán. Với lượng nhân công được huy động lớn như thế, qua 3 tháng thi công, con kênh đào được khoảng 70 km. Công việc chỉ huy dân binh đào kênh Vĩnh Tế giai đoạn 2 kết thúc.

Đợt cuối được tiến hành vào tháng 2 năm Giáp Thân (1824), bề dài của kênh còn lại chỉ khoảng 1.700 trượng từ cuối rạch Giang Thành trở vào tới nơi đã đào xong. Việc đào kênh được tiến hành tích cực với sự hỗ trợ của Phó Tổng trấn Trần Văn Năng và quân, dân lên đến 25.000 người, đào bất kể ngày đêm, đến ngày mùng 01 tháng 05 thì hoàn thành.

Bithu-tt-le-TNH-2.jpg

Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang và lãnh đạo tỉnh thắp hương tại phần mộ Danh thần Thoại Ngọc Hầu

Có thể thấy, việc đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên là một thành quả rất to lớn với số nhân công lên đến trên 80.000 người, thời gian đào kênh suốt 05 năm (từ tháng Chạp năm Mẹo (1819) đến tháng 05 năm Thân (1824)), chiều dài 205 dặm rưỡi (tương đương 91 km), rộng 7 trượng 5 thước (tương đương 25 m), sâu 6 thước (tương đương 3 m). Lợi ích lớn nhất của kênh Châu Đốc - Hà Tiên không chỉ ở việc lưu thông bằng ghe thuyền đi lại, trao đổi buôn bán hay đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ cương thổ Quốc gia, mà còn đóng vai trò quan trọng dẫn nước ngọt từ sông Cửu Long vào các khu đồng ruộng, xã phèn, rửa mặn cho mùa màng tươi tốt. Song song việc đào kênh Vĩnh Tế, Ông cho lập ven bờ kênh 05 làng: Vĩnh Nguơn, Vĩnh Tế, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia và Vĩnh Thông.

Một lần nữa bà Châu Thị Vĩnh Tế lại tích cực giúp phu quân trong việc đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên, bà đứng ra tập hợp thân nhân của những người đang trực tiếp đào kênh, cùng nhau chăm lo việc ăn uống, thuốc men, chữa trị cho người thân của họ những lúc bệnh tật, bị tai nạn khi đào kênh hay bị thú dữ tấn công. Dưới sự chăm sóc chu đáo của Bà đã góp phần thúc đẩy việc đào kênh được diễn ra nhanh chóng hơn. Những người trực tiếp đào kênh luôn cảm thấy an tâm.

Khi tin vui về đến Triều đình Huế, Vua Minh Mạng liền ban sắc khen thưởng và ra sắc cho quan địa phương làm bia dựng ở bờ sông, đánh dấu công lao của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại. Vua nhận thấy, bên kia bờ kênh mới đào có núi Sam, có phần giống với núi Sập bên bờ kênh Thoại Hà trước kia và xét thấy Thoại Ngọc Hầu phu nhân, là dòng họ Châu Vĩnh, nhũ danh Thị Tế, người đàn bà đức độ, luôn tận lực phụ giúp chồng trên đường công bộc, có nhiều đóng góp trong công tác hậu cần, có lúc bà thay chồng đôn đốc việc đào kênh. Từ đó, Vua ban đặt tên kênh Châu Đốc - Hà Tiên là "Vĩnh Tế Hà" và tên núi Sam gần bờ kênh là "Vĩnh Tế Sơn", làng cạnh núi là "Vĩnh Tế Thôn".

Khi nói về lợi ích của kênh Vĩnh Tế, sách Đại Nam nhất thống chí viết: "Từ đây đường sông thông, việc biên phòng và việc buôn bán đều được hưởng mối lợi vô cùng". Việc hoàn thành kênh Vĩnh Tế được dân chúng xem là một thành quả to lớn, có ảnh hưởng nhiều mặt đối với cư dân trong vùng. Dân mừng vì có đường giao thông thuận lợi từ Châu Đốc đi Hà Tiên. Giới chức biên phòng thời ấy cũng bớt gánh nặng nhờ có đường nước án ngữ ven biên. Kênh Vĩnh Tế xưa và nay cũng thế, không chỉ là một đường lưu thông thủy tiện lợi hay giữ gìn biên giới mà còn có tác dụng khác là đưa nước ngọt của sông Cửu Long vào tháo chua rửa phèn cho ruộng đồng.

Danh thần Thoại Ngọc Hầu lâm bệnh, tạ thế tại Châu Đốc ngày 6 tháng 6 năm Kỷ Sửu (1829), hưởng thọ 68 tuổi. Lăng mộ Ông nằm dưới chân núi Sam với vẻ đẹp uy nghi, cổ kính; mặt hướng nhìn ra đường, lưng tựa vào vách núi, ung dung, đường bệ trên thềm cao với gần chục bậc thang đứng, xây bằng đá ong. Ông được Vua Minh Mạng truy phong chức Tráng Võ Tướng quân, Trụ quốc Đô thống, thụy Võ Khác.

Với tài kinh bang tế thế, phò tá 02 vua Gia Long và Minh Mạng, đảm nhận nhiều trọng trách, được phong tước Ngọc Hầu, Ông để lại cho đời sau nhiều công trình giá trị, công trạng hiển hách, những văn bia vô giá, lưu danh sử sách. Hiện An Giang có nhiều ngôi đình thờ Ông, trong số đó có hai ngôi đình lớn nhất là Đình Vĩnh Tế ở phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, có sắc phong do Vua Khải Định ban ngày 25 tháng 7 năm Giáp Tý (1924) và Đình Thoại Sơn tại thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn, có sắc phong của Vua Bảo Đại ban ngày 15 tháng 8 âm lịch năm 1943; ngoài ra, tại phường An Hải, Đà Nẵng, quê Ông cũng lập đền thờ. Các đền miếu thờ Ông đều được người đời sau ngưỡng vọng, trùng tu khang trang và tế bái trọng thể.

Tưởng niệm 195 năm ngày mất danh thần Thoại Ngọc Hầu, 200 năm hoàn thành kênh đào Vĩnh Tế là dịp để chúng ta tìm hiểu, ôn lại và tri ân công lao, những đóng góp to lớn của ông đối với đất nước nói chung, với vùng đất Nam Bộ, đặc biệt đối với vùng đất An Giang nói riêng. Với tấm lòng thành kính, tri ân sâu sắc, kế thừa những di sản vô giá của danh thần Thoại Ngọc Hầu và các thế hệ khẩn hoang mở cõi, bảo vệ quê hương. Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân An Giang sẽ tiếp tục phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa, truyền thống yêu nước; sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức; nêu cao ý chí tự lực tự cường, quyết tâm xây dựng quê hương An Giang xứng tầm khu vực và cả nước. Đó chính là việc làm thiết thực nhằm tri ân bậc tiền nhân có công khai mở, vun bồi, bảo vệ vùng đất An Giang - cương thổ Tổ quốc.

(*) TS Lê Hồng Quang

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,

Bí thư Tỉnh ủy An Giang

_________________

[1] Còn có tên khác kênh Đông Xuyên, kênh Thoại Hà.

[2] Đại Nam nhất thống chí chép: "Làm hơn một tháng mới thành". Bia Thoại Sơn ghi "duyệt nguyệt thoan công".

[3] Theo bản dịch của tác giả Nguyễn Văn Hầu (2020), Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, Nxb Khoa học Xã hội, tr.134.

[4] Theo bản dịch của tác giả Nguyễn Văn Hầu (2020), Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, Nxb Khoa học Xã hội, tr.308.

[5] Đại Nam thực lục tập IV, Chính Biên đệ nhất kỷ III, NXB Sử học- Hà Nội, 1963, trang 308.

[6] Quốc triều chánh biên toát yếu, quyển 2, mục Đinh Sửu, tờ 52a.

[7] Đại Nam thực lục tập IV, Chính Biên đệ nhất kỷ III, NXB Sử học- Hà Nội, 1963, trang 390.


An Giang: Những điểm sáng trong phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2024An Giang 190 nămBài viếtTTCTTTAn Giang: Những điểm sáng trong phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2024/SiteAssets/Phattrien-kte-3thang2023.jpg
04/07/2024 9:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Những tháng đầu năm 2024, bối cảnh thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến sự ổn định, phát triển toàn cầu, kinh tế thế giới phục hồi chậm, gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, nền kinh tế  nước ta nói chung và tỉnh An Giang nói riêng đã ghi nhận nhiều điểm nổi bật, điều đó cho thấy sự nỗ lực rất lớn của cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người dân trong tiến trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.


Những điểm sáng trong phát triển kinh tế - xã hội

Trong 6 tháng đầu năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) của tỉnh ước đạt 6,60%, cao hơn so với cùng kỳ (6,50%). Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,84%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 12,13%; khu vực dịch vụ tăng 7,61%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng dần tỷ trọng ở khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Tổng thu ngân sách nhà nước từ kinh tế địa bàn ước đạt 4.525 tỷ đồng, tăng 14,38% so với cùng kỳ.


Nông nghiệp tiếp tục khẳng định là nền tảng của nền kinh tế. Diện tích trồng lúa chất lượng cao ngày càng mở rộng. Nông sản có sự tăng trưởng tốt về sản lượng và chất lượng; giá bán ổn định ở mức cao so cùng kỳ. Đặc biệt trong những tháng đầu năm, tỉnh An Giang đã xuất khẩu thành công 13 tấn xoài hạt lép và 18 tấn xoài keo sang thị trường Hàn Quốc, đánh dấu bước chuyển mình của nông sản tỉnh nhà trong nỗ lực chinh phục các thị trường khó tính trên thế giới. Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tiếp tục được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. Kết quả, từ đầu năm đến nay toàn tỉnh đã công nhận thêm 05 xã nông thôn mới, 05 xã nông thôn mới nâng cao, 02 xã nông thôn mới kiểu mẫu và thống nhất trình Trung ương xem xét, công nhận huyện Thoại Sơn đạt chuẩn huyện nông thôn mới nâng cao.

Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã phục hồi và phát triển mạnh. Công tác giải ngân vốn đầu tư công được Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đặc biệt quan tâm chỉ đạo. Ngay từ đầu năm, tỉnh An Giang đã phân bổ hết 100% kế hoạch vốn được Trung ương giao; tập trung tìm giải pháp, tháo gỡ khó khăn về nguồn cung vật liệu xây dựng; tổ chức kiểm tra công trình trọng điểm, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy tiến độ thi công. Giá trị giải ngân đến hết tháng 6 ước đạt 3.252 tỷ đồng, đạt 40,5% kế hoạch vốn được giao.

Ngoài ra, tỉnh An Giang cũng đã phấn đấu làm tròn trách nhiệm của mình góp phần đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm quốc gia. Cụ thể, đã bàn giao 10 mỏ cát với khối lượng hơn 15 triệu m3 cho các nhà thầu thi công các tuyến cao tốc vùng Đồng bằng sông Cửu Long theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Với những nỗ lực, phấn đấu không ngừng nghỉ của các cấp, các ngành và các đơn vị thi công, vào ngày 23/4/2024, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã tổ chức lễ thông xe cầu Châu Đốc thuộc dự án xây dựng tuyến đường liên kết vùng đoạn từ thị xã Tân Châu đến thành phố Châu Đốc, kết nối với tỉnh Kiên Giang và Đồng Tháp. Phối hợp với Ban Quản lý dự án Mỹ Thuận - Bộ Giao thông vận tải tổ chức Lễ khánh thành dự án Đầu tư xây dựng Tuyến nối quốc lộ 91 và Tuyến tránh thành phố Long Xuyên. Đây là hai dự án trọng điểm, có ý nghĩa đặc biệt về phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà, góp phần từng bước hoàn thiện hệ thống hạ tầng giao thông, tạo điều kiện thuận lợi, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của người dân và doanh nghiệp.

Thương mại, dịch vụ, du lịch phát triển cả về quy mô và chất lượng với nhiều mô hình, hoạt động được đổi mới. Trong đó, tỉnh đẩy mạnh xúc tiến thương mại tại các diễn đàn quảng bá, giới thiệu sản phẩm, hợp tác thương mại, đầu tư, du lịch trên toàn quốc và quốc tế; tăng cường liên kết phát triển du lịch với TP Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố trong vùng; khai trương Cổng thông tin du lịch An Giang (checkinangiang.vn). Ước trong 6 tháng đầu năm, doanh thu bán buôn, bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng đạt 111.993 tỷ đồng, tăng 14,20% so cùng kỳ. Toàn tỉnh đón tổng số 07 triệu lượt khách tham quan, du lịch, tăng 16% so với cùng kỳ. Tổng doanh thu từ hoạt động du lịch ước đạt 8.000 tỷ đồng, tăng 105% so với cùng kỳ.

Bên cạnh đó, tỉnh An Giang đã tổ chức Lễ công bố Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đồng thời trao Biên bản thỏa thuận hợp tác đầu tư giữa tỉnh An Giang với 09 doanh nghiệp, nhà đầu tư lớn có tiềm năng. Qua đó, tạo động lực mới, khí thế mới để thúc đẩy xúc tiến đầu tư, mở ra cơ hội mới cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới.

Công tác đảm bảo an sinh xã hội, chăm lo Tết cho Nhân dân được thực hiện kịp thời, đúng đối tượng, đúng chế độ và có sự đổi mới.


Nhiều chương trình văn hóa, nghệ thuật, tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống của quê hương An Giang; các hoạt động thể dục, thể thao quần chúng được tổ chức thường xuyên, góp phần chăm lo đời sống tinh thần cho Nhân dân. Đặc biệt là chuỗi sự kiện chào mừng và Lễ kỷ niệm 25 năm thành lập thành phố Long Xuyên - Quê hương Chủ tịch Tôn Đức Thắng và Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam năm 2024. Về thể thao thành tích cao, có 02 vận động viên của An Giang xuất sắc giành 2/10 suất của Việt Nam chính thức tham dự Olympic Paris 2024.


Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chuẩn bị chu đáo các nội dung phục vụ diễn tập khu vực phòng thủ của tỉnh năm 2024. Tập trung nắm chắc tình hình, nhất là tình hình an ninh biên giới, các địa bàn trọng điểm; triển khai đồng bộ các biện pháp tấn công, trấn áp tội phạm và đảm bảo an ninh trật tự.

Nhiệm vụ, giải pháp 6 tháng cuối năm

Trong 6 tháng đầu năm, bức tranh kinh tế - xã hội An Giang đã có nhiều điểm sáng, tạo điều kiện thuận lợi cho tăng tốc phát triển trong 6 tháng cuối năm. Để phấn đấu đạt được mục tiêu tăng trưởng GRDP cả năm 2024 từ 7,5 - 8,5% đòi hỏi sự quyết tâm cao, nỗ lực lớn của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân, Ủy ban nhân dân tỉnh đặt ra một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

Tiếp tục thực hiện hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội năm 2024; Kế hoạch và Kịch bản tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang năm 2024 đã đề ra.

Chủ động triển khai các giải pháp tổ chức sản xuất thắng lợi vụ Hè Thu và Thu Đông năm 2024; phòng, chống thiên tai, giông lốc...; theo dõi sát tình hình sụt lún, sạt lở bờ sông, kênh, rạch. Phát triển nông nghiệp bền vững, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.

Khẩn trương xây dựng Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công. Thường xuyên kiểm tra, đẩy nhanh tiến độ thực hiện Dự án tuyến đường bộ cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng đoạn qua địa phận tỉnh An Giang và các công trình trọng điểm khác của tỉnh (Bệnh viện Tim mạch tỉnh, nhà hát, sân vận động tỉnh…). Tăng cường công tác quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ các nguồn tài nguyên, khoáng sản.

Triển khai thực hiện công tác xúc tiến đầu tư năm 2024, đặc biệt là các hoạt động xúc tiến, mời gọi đầu tư vào 06 lĩnh vực, ngành nghề ưu tiên. Tháo gỡ, khơi thông nguồn lực đầu tư, tháo gỡ vướng mắc của các dự án đang triển khai để đẩy nhanh tiến độ thực hiện.

Tiếp tục xúc tiến thương mại, phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ; tăng cường công tác quản lý nhà nước về du lịch; đẩy mạnh hợp tác phát triển du lịch giữa An Giang với TP Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Thúc đẩy hợp tác, liên kết vùng trong phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là với các địa phương mà tỉnh An Giang đã ký kết hợp tác như Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Đồng Tháp, tỉnh Tuyên Quang.


Lập hồ sơ, trình UNESCO công nhận Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và công nhận Khu di tích khảo cổ Óc Eo - Ba Thê là Di sản văn hóa thế giới. Từ đó, tạo tiền đề cho việc đầu tư và thu hút đầu tư phát triển du lịch của tỉnh.

Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành. Đẩy mạnh việc rà soát, ban hành các giải pháp, tạo đột phá mạnh mẽ để nâng cao hiệu quả cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính gắn với chuyển đổi số.

Với kết quả đạt được trong 6 tháng đầu năm và những nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong 6 tháng cuối năm, Ủy ban nhân dân tỉnh mong muốn các cấp chính quyền, Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp sẽ tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, chung sức, đồng lòng bằng niềm tin và khát vọng mạnh mẽ vươn lên, quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng tốt thời cơ thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2024.

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH

Tự hào những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hóa của báo chí tỉnh nhà Bài viếtNgọc HânTự hào những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hóa của báo chí tỉnh nhà /SiteAssets/Bao-chi-cacchmang-vn-7.jpg
20/06/2024 10:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Làm báo là làm cách mạng! Sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu từ việc học làm báo. Người coi báo chí là công cụ quan trọng, yếu tố chính trị, tinh thần to lớn, làm nên sự thành công của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Vì vậy, báo chí cách mạng là một mặt trận chiến đấu và mỗi nhà báo chính là một chiến sĩ cách mạng trên mặt trận ấy.

Bao-chi-cacchmang-vn-1.jpg

Tự hào về những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hóa

Chúng ta có một nền báo chí cách mạng ra đời và phát triển từ yêu cầu của sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và đặt nền móng. Trải qua chặng đường lịch sử vẻ vang gần 100 năm, báo chí cách mạng Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, là lực lượng xung kích, tin cậy của Đảng và Nhà nước, tiên phong đi đầu trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội.

Lớp lớp thế hệ những người làm báo - những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa đã lao động, cống hiến, dấn thân vì những nhiệm vụ chính trị cao cả, xây dựng nên một nền báo chí thực sự là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, là diễn đàn và cầu nối tin cậy của Nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Bao-chi-cacchmang-vn-6.jpg
Phóng viên đang tác nghiệp

Phát huy truyền thống vẻ vang của nền báo chí cách mạng, tiếp bước các thế hệ cha anh là những nhà báo - chiến sĩ đã được tôi luyện qua các cuộc trường chinh đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đội ngũ những người làm báo nói chung và đội ngũ những người làm báo của tỉnh An Giang hôm nay ngày càng lớn mạnh, trưởng thành về phẩm chất chính trị và năng lực nghề nghiệp không ngừng được nâng cao, đang nỗ lực từng bước làm chủ công nghệ làm báo hiện đại, phát huy vai trò xung kích của người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, không quản khó khăn, gian khổ, tự giác dấn thân, dũng cảm xông pha, có mặt tại các tâm điểm của đời sống xã hội, thực hiện tốt trách nhiệm, sứ mệnh người làm báo cách mạng.
Bao-chi-cacchmang-vn-7.jpg
Phỏng vấn người lao động tham gia giải việt dã 

Thật tự hào khi đội ngũ nhà báo, phóng viên, biên tập viên đang công tác tại Báo An Giang, bằng trí tuệ, tâm huyết với đất nước, với tỉnh nhà, luôn ngày đêm lao động nghiêm túc, hăng say nỗ lực để hoàn thành tốt trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của mình, xây dựng Báo An Giang xứng đáng là Tờ báo Đảng - là tiếng nói của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang.

Chúng ta vô cùng khâm phục, sự nỗ lực vượt khó của đội ngũ phóng viên, biên tập viên, nhân viên đang công tác tại Đài Phát thanh - Truyền hình An Giang - là những chiến sĩ dũng cảm lao động hăng say trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn, nếu không có trái tim yêu nghề, chắc chắn họ sẽ không bao giờ có đủ năng lực, năng lượng, nhiệt huyết, quyết tâm bám trụ, vượt qua những khó khăn, nuôi dưỡng niềm đam mê với nghề.

Và chúng ta cũng vô cùng trân trọng các văn nghệ sĩ của tỉnh nhà thông qua tác phẩm văn học, nghệ thuật, góp phần tuyên truyền, lan tỏa  nhân lên những điều tử tế, tốt đẹp trong cuộc sống. Và trân trọng hàng trăm phóng viên đang công tác tại đài truyền thanh cấp huyện, xã, các cán bộ, đảng viên, công chức,… của tỉnh tham gia làm báo, mỗi người, thông qua tác phẩm báo chí của mình phản ánh khá toàn diện, kịp thời, trung thực, bức tranh sinh động của đời sống xã hội trên tất cả các lĩnh vực, đóng góp quan trọng vào việc xây dựng đồng thuận xã hội, đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước và khát vọng cao đẹp vì một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, vì một An Giang - quê hương Chủ tịch Tôn Đức thắng ngày càng văn minh, giàu đẹp.

Gửi gắm sự trân trọng, niềm tin đến đội ngũ những người làm báo tỉnh nhà

Trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, phát sinh những vấn đề chưa từng có trong tiền lệ, đã ảnh hưởng, tác động rất lớn đến công tác tư tưởng nói chung và công tác tuyên truyền nói riêng. Bên cạnh là những khó khăn chung của các cơ quan báo chí trên phạm vi cả nước, trong đó có nhiều khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan báo chí tỉnh nhà như: Về doanh thu thấp, quảng cáo sụt giảm, trong khi yêu cầu về nhiệm vụ đặt ra ngày càng lớn trước sự bùng nổ thông tin và cạnh tranh ngày càng khốc liệt của các nền tảng xã hội.

Bao-chi-cacchmang-vn-8.jpg

Đồng chí Trần Thị Thanh Hương, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy phát biểu tại buổi làm việc với Đài Phát thanh - Truyền hình An Giang

Vượt lên những chồng chất khó khăn đó, các cơ quan báo chí, tuyên truyền trên địa bàn tỉnh nói chung đã bám trụ, nỗ lực, không ngừng đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp tuyên truyền; linh hoạt, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ. Qua đó, góp phần tích cực tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội; củng cố, nâng cao niềm tin trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

Vừa qua ngày 12/6, cùng Đoàn công tác đến và làm việc với Đài nhằm gặp gỡ, trao đổi, động viên; đồng thời, khảo sát, nắm tình hình hoạt động của Đài Phát thanh - Truyền hình An Giang, đồng chí Trần Thị Thanh Hương, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã biểu dương, ghi nhận, đánh giá cao sự nỗ lực, trách nhiệm, quyết tâm và những kết quả đáng trân trọng của tập thể nhà báo, phóng viên, cán bộ của Đài, của các cơ quan báo chí, tuyên truyền của tỉnh đã đạt được trong thời gian qua. Đồng chí mong muốn, đặt niềm tin những kết quả đó tiếp tục sẽ được phát huy hơn nữa trong thời gian tới.

Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Trần Thị Thanh Hương cũng nhấn mạnh: Nhiệm vụ đặt ra cho công tác báo chí hiện nay và thời gian tới rất nặng nề, đòi hỏi rất cao về chất lượng, hiệu quả, cả về lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, triển khai thông tin, tuyên truyền… Tuy nhiên, đồng chí cho rằng đây là điều kiện, cơ hội để những người làm báo của tỉnh thể hiện tốt vai trò, trách nhiệm chính trị, sức sáng tạo để có những tác phẩm báo chí có chất lượng, hiệu quả xã hội tích cực.

Đồng chí mong muốn mỗi cán bộ, phóng viên, biên tập viên, nhân viên đang công tác tại các cơ quan báo chí trên địa bàn tỉnh phải phát huy tối đa trình độ, kinh nghiệm, bằng chính năng lực nội tại đoàn kết cùng tập thể vượt qua khó khăn, vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao. Đồng chí tin tưởng thực hiện tốt những điều này, cơ quan báo chí, người làm báo của tỉnh sẽ nhận được sự tôn trọng của cả xã hội, khẳng định được thương hiệu giúp cạnh tranh hiệu quả trước các nền tảng truyền thông xã hội.

Tin tưởng rằng, với truyền thống trung thành với Đảng, gắn bó với dân tộc và Nhân dân, đội ngũ những người làm báo cả nước và của tỉnh An Giang hôm nay sẽ ngày càng lớn mạnh, không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, hoàn thành tốt sứ mệnh cao cả, là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, xứng đáng với niềm tin, kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, xứng đáng với vị thế của một nền báo chí sắp tròn 100 năm tuổi./.

NGỌC HÂN

 

An Giang tiếp tục lan tỏa  các phong trào thi đua yêu nướcAn Giang 190 nămBài viếtTTCTTTAn Giang tiếp tục lan tỏa  các phong trào thi đua yêu nước/SiteAssets/Thidua-yeunuoc1.jpg
11/06/2024 9:00 SANoĐã ban hành

(​TUAG)- Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, điều hành của chính quyền, sự phối hợp chặt chẽ của Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội các cấp và sự hưởng ứng tích cực của các tầng lớp nhân dân, phong trào thi đua yêu nước trên địa bàn tỉnh An Giang ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả thiết thực, tạo khí thế thi đua sôi nổi, động viên, khích lệ các tập thể, cá nhân, mọi tầng lớp nhân dân khắc phục khó khăn, quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị đã đề ra.

Thidua-yeunuoc1.jpg

Sôi nổi các phong trào thi đua

Phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”: Được triển khai sâu rộng, đồng bộ, nội dung phong phú và hình thức đa dạng, góp phần mang lại nhiều thành tựu to lớn trong xây dựng nông thôn mới (NTM). Kết quả đến cuối năm 2023, An Giang có 71/110 xã đạt chuẩn NTM, 29 xã đạt chuẩn NTM nâng cao và có 02 xã trên địa bàn huyện Thoại Sơn đạt tiêu chí xã NTM kiểu mẫu là xã Định Thành (kiểu mẫu về lĩnh vực tổ chức sản xuất) và xã Vĩnh Trạch (kiểu mẫu về lĩnh vực giáo dục); 03 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM. Sở Nội vụ (Ban Thi đua - Khen thưởng tỉnh) đã phối hợp các sở, ban ngành tham mưu Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh giới thiệu 01 tập thể và 02 cá nhân là điển hình tiên tiến tiêu biểu xuất sắc trong phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng NTM” giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh.

Phong trào thi đua “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” với sự tham gia, vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nhiều chương trình, hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ người nghèo đã được các ban, ngành, địa phương tổ chức thực hiện như: Khám chữa bệnh miễn phí, hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo; miễn, giảm học phí, trao học bổng cho học sinh nghèo; hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nghèo; hỗ trợ xây dựng nhà ở, vay vốn tín dụng cho hộ nghèo, hộ cận nghèo… Quỹ “Vì người nghèo” ngày càng được sự ủng hộ nhiệt tình của các tổ chức, cá nhân, các nhà hảo tâm trong và ngoài tỉnh góp phần vào việc hỗ trợ, giúp đỡ, chung tay vì người nghèo và thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; tạo được sự đồng thuận cao trong các tầng lớp nhân dân.

Phong trào thi đua “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở”: Qua gần 5 năm thực hiện Kế hoạch phát động của UBND tỉnh, công tác thi đua xây dựng môi trường làm việc văn hóa, văn minh, dân chủ, thân thiện, công sở hiện đại, an toàn, xanh, sạch, đẹp tiếp tục được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm. Qua đó, tạo bước chuyển biến rõ nét về phương thức, lề lối làm việc, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở các địa phương, cơ quan, đơn vị; công tác cải cách hành chính, số hóa, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, điều hành và tác nghiệp hằng ngày được đẩy mạnh; việc công khai, minh bạch công tác quản lý, điều hành công việc được đề cao; vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý, điều hành các hoạt động được phát huy.

Phong trào thi đua “Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí”: UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch phát động, triển khai phong trào thi đua với nội dung thiết thực, hình thức phong phú, sâu rộng, đồng bộ, xuyên suốt từ tỉnh đến cơ sở, tạo khí thế thi đua sôi nổi, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong đẩy mạnh xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại trên phạm vi toàn tỉnh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Khơi dậy mạnh mẽ khát vọng về sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh An Giang, phát huy tính chủ động sáng tạo của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân; tự lực tự cường, khai thác tối đa tiềm năng của tỉnh, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ XI.

Các phong trào thi đua do địa phương tổ chức, phát động: Các phong trào thi đua trên địa bàn tỉnh được tổ chức triển khai sâu rộng trong cả hệ thống chính trị, các thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân dân. Đẩy mạnh thi đua toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội; thi đua phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, tạo bức phá nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả.

Thidua-yeunuoc.webp

Trong những năm qua, các phong trào thi đua đã có sự đổi mới về nội dung, hình thức và phương pháp tổ chức theo hướng tập trung về cơ sở. Các phong trào thi đua yêu nước được gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị và các cuộc vận động của địa phương. Chỉ tiêu thi đua cụ thể, hình thức đa dạng, phong phú; có sơ kết, tổng kết, biểu dương khen thưởng kịp thời và mang lại hiệu quả cao. Bám sát mục tiêu, kế hoạch và nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương; nội dung thi đua tập trung giải quyết những tồn tại, khó khăn, vướng mắc của từng ngành, địa phương, đơn vị, khơi dậy nguồn lực và sức mạnh của toàn xã hội. Thông qua các phong trào thi đua, nhiều tập thể, cá nhân tiêu biểu đã được phát hiện và biểu dương, khen thưởng kịp thời. Tỉnh đã tổ chức nhiều hoạt động biểu dương các điển hình tiên tiến trong nhiều lĩnh vực, như: Tập thể, cá nhân có đóng góp tiêu biểu trong lĩnh vực xã hội hóa và an sinh xã hội; các gương điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; công nhân lao động giỏi, lao động sáng tạo; nông dân sản xuất kinh doanh giỏi,v.v..

Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác thi đua khen thưởng

Để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, lan toả sâu rộng phong trào thi đua yêu nước, các ngành, các cấp trong tỉnh quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện tốt một số nhiệm vụ chủ yếu sau:   

Thứ nhất, tăng cường quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là người đứng đầu trong công tác thi đua, khen thưởng; phải thật sự coi trọng công tác thi đua, khen thưởng, xem đây là động lực và là biện pháp hữu hiệu để góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị được giao. Tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, chính quyền, nhất là vai trò của người đứng đầu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện các phong trào thi đua tại địa phương, cơ quan, đơn vị.

Thứ hai, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh thường xuyên phối hợp các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc phát hiện và nhân rộng gương “Người tốt - Việc tốt”, xây dựng những mô hình hay, cách làm mới, suy tôn, khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân lập được thành tích xuất sắc đã đóng góp tích cực cho phong trào thi đua và luôn tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy phong trào thi đua ngày càng phát triển.

TS-chiensai-giatangsx-2.jpg

Chiến sĩ dân quân Ban CHQS xã Bình Thành thi đua tăng gia sản xuất.

Thứ ba, thường xuyên đổi mới phương thức tổ chức phong trào thi đua, xây dựng và tuyên truyền nhân rộng điển hình tiên tiến theo hướng giao quyền chủ động cho cơ sở, hướng đến đối tượng là người trực tiếp công tác, lao động, học tập, sản xuất và gắn với nhiệm vụ chuyên môn cụ thể. Các phong trào thi đua phải đi sâu vào quần chúng, gần gũi với quần chúng, từ đó phát hiện những sáng kiến, mô hình, cách làm hay để nhân rộng. Các nội dung phong trào thi đua phải tập trung vào mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách của địa phương, đơn vị và mục tiêu, nhiệm vụ chung theo nghị quyết đại hội đảng các cấp đã đề ra, tránh đưa ra những nội dung thi đua dàn trải trên nhiều lĩnh vực, thiếu trọng tâm trọng điểm. Các cơ quan tham mưu, các cấp có thẩm quyền phải thật sự quan tâm, nhanh nhạy nắm bắt những vấn đề bức xúc, nổi cộm, những khâu yếu của địa phương, đơn vị và tìm cách tháo gỡ thông qua việc tổ chức các phong trào thi đua theo chuyên đề để tập trung nguồn lực, biện pháp giải quyết vấn đề khó khăn, tồn tại. Cuối mỗi đợt thi đua, cần có tổng kết, đánh giá để rút kinh nghiệm; đồng thời kịp thời phát hiện những mô hình, cách làm hay để vun đắp và nhân rộng.

Thứ tư, định kỳ hàng năm, cơ quan thường trực của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh tham mưu ban hành kế hoạch tuyên truyền gương điển hình tiên tiến, triển khai các hoạt động tuyên truyền sâu rộng trong các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân về các phong trào thi đua yêu nước và giới thiệu các gương điển hình tiên tiến. Ban Thi đua - Khen thưởng tỉnh tiếp tục phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Đài Phát thanh - Truyền hình An Giang, Báo An Giang và Sở Thông tin - Truyền thông để tuyên truyền về phong trào thi đua yêu nước. Qua đó kịp thời phát hiện, giới thiệu những cá nhân, tập thể có thành tích tiêu biểu, xuất sắc để biểu dương, nhân rộng.

BAN THI ĐUA - KHEN THƯỞNG TỈNH

Thành kính tưởng nhớ Bác!An Giang 190 nămTinNgọc HânThành kính tưởng nhớ Bác!/SiteAssets/AG-danghuong-BHBT-19524-4.jpg
19/05/2024 11:25 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Nhân kỷ niệm 134 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2024), sáng 19/5, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh An Giang Lê Văn Nưng, cùng các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, lãnh đạo các Ban Đảng; đoàn thể; Văn phòng Tỉnh ủy; các cháu thiếu niên nhi đồng đã dâng hoa, dâng hương tưởng nhớ Bác Hồ, Bác Tôn tại Nhà truyền thống Tỉnh ủy.

 AG-danghuong-BHBT-19524-1.jpg

Không gian thờ Bác Hồ, Bác Tôn tại Nhà truyền thống Tỉnh ủy

AG-danghuong-BHBT-19524-2.JPG

Các đại biểu thắp hương kính dâng Bác Hồ, Bác Tôn

AG-danghuong-BHBT-19524-3.jpg

Một phút mặc niệm bày tỏ lòng biết ơn, tưởng nhớ Bác Hồ, Bác Tôn

Trong không khí trang nghiêm của buổi lễ, các đại biểu thành kính dâng hoa, dâng hương và dành một phút mặc niệm bày tỏ lòng biết ơn, tưởng nhớ công lao to lớn của Bác Hồ, Bác Tôn.

AG-danghuong-BHBT-19524-4.jpg

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Lê Văn Nưng và Chủ tịch UBMTTQ Việt Nam tỉnh Nguyễn Tiếc Hùng thắp hương Bác Hồ, Bác Tôn

 AG-danghuong-BHBT-19524-5.jpg

Các cháu thiếu niên nhi đồng dâng hương Bác Hồ, Bác Tôn

Trước anh linh Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn đại biểu bày tỏ lòng biết ơn vô hạn, thành kính tưởng nhớ công lao to lớn của Người đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta.

Với mỗi người dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là biểu tượng sáng ngời về đạo đức cách mạng, tấm gương hy sinh, hiến dâng trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, để lại cho thế hệ mai sau một di sản tinh thần vô cùng quý báu, đó là tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người.

Tháng 5 nhớ Bác, thắp nén hương dâng lên Bác Hồ và Bác Tôn. Đảng bộ, chính quyền, quân và dân An Giang nguyện học tập và làm theo tấm gương Bác Hồ, Bác Tôn, chung sức đồng lòng, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi mọi mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, góp phần xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phát triển, đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, như nguyện ước của Bác Hồ, Bác Tôn.

"Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn

Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi

Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn!"[1]

NGỌC HÂN

_____________

[1] Trích 3 câu thơ cuối bài thơ Bác ơi của Nhà thơ Tố Hữu.


Đoàn đại biểu dự Chương trình Giao lưu gương điển hình đến dâng hoa, dâng hương, báo công với Bác TônTinNguyễn LamĐoàn đại biểu dự Chương trình Giao lưu gương điển hình đến dâng hoa, dâng hương, báo công với Bác Tôn/SiteAssets/Le-baocong-BacTon-6.jpg
16/05/2024 5:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Chiều ngày 16/5, Đoàn đại biểu dự Chương trình Giao lưu gương điển hình “An Giang học tập và làm theo Bác Hồ, Bác Tôn về chăm lo đời sống nhân dân” đã đến dâng hương, báo công với Bác Tôn tại Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng, xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên.

Le-baocong-BacTon-1.jpg 

Le-baocong-BacTon-2.jpg

Đoàn đại biểu dâng hương, báo công với Bác Tôn

Tham dự buổi lễ có đồng chí Trần Thị Thanh Hương, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh; Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tổ chức Giao lưu; các đồng chí đại diện Thường trực các huyện, thị, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy; các đồng chí trong Ban Tổ chức giao lưu; cùng sự tham dự của 16 tập thể, cá nhân là gương điển hình tiêu biểu trong toàn tỉnh được xét chọn để tôn vinh trong Chương trình giao lưu các gương điển hình trong học tập và làm theo tấm gương Bác Hồ, Bác Tôn về chăm lo đời sống nhân dân năm 2024.

Le-baocong-BacTon-3.jpg

Đồng chí Nguyễn Mạnh Hà - Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy thay mặt Đoàn đại biểu báo công với Bác Tôn về những thành tựu to lớn, dấu ấn nổi bật mà Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh nhà đã được trong thời gian qua

Tháng Năm về, trong mỗi chúng ta lại bồi hồi xúc động tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh - người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng sự nghiệp vĩ đại, tấm gương cao đẹp của Người luôn sống mãi với non sông đất nước Việt Nam. Với tất cả tấm lòng vì nước, vì dân, trước lúc đi xa, trong Di chúc Người căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân”.

Di nguyện thiêng liêng của Bác Hồ được bao thế hệ khắc ghi, nỗ lực hiện thực hóa. Và tự hào biết bao trong lớp người kế tục sự nghiệp của Bác Hồ có Bác Tôn - người con ưu tú của quê hương An Giang, người chiến sĩ cộng sản kiên trung, mẫu mực, người bạn chiến đấu gần gũi, thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi nhận trọng trách Chủ tịch nước vào tháng 9/1969, Bác Tôn xúc động phát biểu: “Được kế tiếp chức vụ của Hồ Chủ tịch là điều rất vinh quang đối với tôi”. Trong suốt cuộc đời mình, dù ở bất cứ cương vị nào, Bác Tôn vẫn luôn là một biểu tượng sáng ngời về đạo đức cách mạng, yêu thương đồng chí, quý trọng đồng bào; dù khó khăn đến đâu cũng không dao động, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

Le-baocong-BacTon-4.jpg 

Đồng chí Trần Thị Thanh Hương, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh; Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tổ chức Giao lưu dâng hương tưởng niệm Bác Tôn

Le-baocong-BacTon-5.jpg

Các đại biểu thành kính dâng hương tưởng nhớ Bác Tôn

Khắc ghi di nguyện của Bác Hồ, học tập tấm gương của Bác Tôn, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang qua các thời kỳ đã không ngừng đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, phát huy ý chí tự lực, tự cường; chủ động, dám nghĩ, dám làm; vận dụng sáng tạo những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với đặc điểm, tình hình của địa phương và đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.

Trước anh linh của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, các đại biểu đã dâng hương, dâng hoa báo công dâng Người để bày tỏ lòng thành kính, biết ơn vô hạn, nguyện tiếp tục học tập và làm theo tấm gương Bác Hồ, Bác Tôn về chăm lo đời sống nhân dân.

Le-baocong-BacTon-13.jpg

Le-baocong-BacTon-6.jpg

Le-baocong-BacTon-10.jpg

Le-baocong-BacTon-8.jpg

 Le-baocong-BacTon-11.jpg

Le-baocong-BacTon-7.jpg

Le-baocong-BacTon-12.jpg

Sau Lễ dâng hương, báo công, Đoàn đại biểu tham quan Khu Lưu niệm Đền thờ Chủ tịch Tôn Đức Thắng.

Nguyễn Lam

An Giang hưởng ứng Chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954 và Chiến dịch Điện Biện Phủ 1954An Giang 190 nămBài viếtTTCTTTAn Giang hưởng ứng Chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954 và Chiến dịch Điện Biện Phủ 1954/SiteAssets/A00405052024.jpg
07/05/2024 10:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ là cuộc tiến công quy mô lớn nhất của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” là kết quả của sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là kết tinh của tinh thần “quyết chiến, quyết thắng” của toàn dân, toàn quân ta trên con đường đấu tranh, thực hiện khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.

A00505052024.jpg

Ngày 07/5/1953, Henrri Navarre được Chính phủ Pháp cử sang làm Tổng Chỉ huy Quân đội Pháp ở Đông Dương. Navarre đã đề ra kế hoạch quân sự với hy vọng quân Pháp đang trong tình thế phòng ngự bị động sẽ “chuyển bại thành thắng” trong vòng 18 tháng.

Trước tình hình đó, tháng 9/1953, Bộ Chính trị đã họp bàn nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953 - 1954. Tháng 11/1953, quân ta tiến lên Tây Bắc. Cùng với đó, quân ta tiến đánh Trung Lào, Hạ Lào, Bắc Tây Nguyên, Thượng Lào. Buộc quân Pháp buộc phải phân tán lực lượng để giữ Tây Bắc. Ngày 20/11/1953, quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Chúng bố trí lực lượng ở đây lúc cao nhất lên đến 16.200 quân và nhiều vũ khí, phương tiện hiện đại tại 49 cứ điểm, với 3 phân khu. Xác định cứ điểm Điện Biên Phủ là một pháo đài “bất khả xâm phạm”.

Nắm chắc tình hình, âm mưu, thủ đoạn của địch và nhận thấy mặc dù Điện Biên Phủ sẽ là một tập đoàn cứ điểm mạnh, nhưng có cái yếu cơ bản là bị cô lập, mọi việc tiếp viện, tiếp tế đều dựa vào đường không”, ngày 06/12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Để bảo đảm các điều kiện cho chiến dịch thắng lợi trọn vẹn, Trung ương Đảng và Bác Hồ đã tập trung lãnh đạo, đẩy mạnh cuộc vận động Nhân dân các địa phương, phát huy được sức mạnh của cả hậu phương và tiền tuyến nhằm phát huy tinh thần, cung cấp đầy đủ các điều kiện về hậu cần, kỹ thuật, phương tiện cho bộ đội tham gia trận quyết chiến lịch sử này.

Nghị quyết của Bộ Chính trị và Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được quân dân cả nước tích cực hưởng ứng sôi nổi, đồng lòng, dốc sức cho chiến dịch. Từ đầu năm 1954, khắp các chiến trường trong cả nước dấy lên phong trào thi đua “giết giặc lập công”. Tỉnh ủy Long Châu Hà, Long Châu Sa đã chủ trương phối hợp với chiến trường cả nước bằng các hoạt động nhịp nhàng, quân dân trong toàn tỉnh tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích và đẩy mạnh công tác địch ngụy vận. Hướng chính nhắm vào vùng Hòa Hảo và vùng Bảy Núi.

Ở vùng biên giới giáp Campuchia, qua quá trình bền bỉ xây dựng tình đoàn kết chiến đấu đã đạt được nhiều tiến bộ. Các tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể được củng cố. Hai nước đã được giữ vững liên lạc, kịp thời giải quyết những vấn đề cấp thiết, lâu dài hoặc mới nảy sinh. Hai bên đã phần nào thông hiểu tình hình của nhau. Nhân dân hai bên biên giới qua lại làm ăn, trao đổi sản phẩm dễ dàng, thuận lợi.

Hưởng ứng chủ trương tổng công kích, Tỉnh ủy, Tỉnh đội chỉ đạo các lực lượng vũ trang bám trụ địa bàn hoạt động, xây dựng cơ sở vùng địch hậu, giữ vững căn cứ, nối liền từ lộ Cái Sắn đến tận kênh Vĩnh Tế, giáp biên giới với Campuchia để đưa dân vùng địch hậu vào, vừa nhằm phát triển sản xuất, vừa tạo thuận lợi cho bộ đội cơ động nhanh.

Phối hợp chiến trường trong cả nước, các đơn vị võ trang hoạt động đều trên các huyện, chú trọng mọi hình thức phá hoại, pháo kích, bao vây, tiêu hao địch, kết hợp với vũ trang tuyên truyền địch vận. Du kích hăng hái đăng ký vào bộ đội đi chiến đấu. Trong tháng 5/1954, Long Châu Hà đã huy động gần 150 du kích vùng căn cứ tham gia chiến đấu ở các chiến trường.

Trải qua “năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt; máu trộn bùn non; gan không núng; chí không mòn”, ngày 07/5/1954, chiến thắng Điện Biên Phủ đã giành thắng lợi hoàn toàn, trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Genève về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Chiến thắng đã trở thành tiếng sấm rền vang làm rung chuyển thế giới, xé toạc đám mây đen của chủ nghĩa thực dân - đế quốc, mang đến nguồn cổ vũ to lớn cho các dân tộc bị áp bức đứng lên giành độc lập. Ba tiếng Việt Nam - Hồ Chí Minh - Điện Biên Phủ vang lên khắp mọi nơi, trở thành niềm tự hào và khát vọng tự do của loài người tiến bộ, là biểu tượng của lòng quả cảm vô song và là ngôi sao sáng của phong trào giải phóng dân tộc, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.

Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954 - 2024) là dịp chúng ta thêm tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi sóng gió đi đến bến bờ vinh quang. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mãi mãi là niềm tự hào, là nguồn sức mạnh to lớn cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, khơi dậy và hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

ĐẶNG THỊ KIM TUYẾN

Giải phóng An Giang - Những ngày tháng hào hùng khó quênAn Giang 190 nămBài viếtAn BìnhGiải phóng An Giang - Những ngày tháng hào hùng khó quên/SiteAssets/49-nam-GPMN.jpg
28/04/2024 7:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Trong những ngày diễn ra Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng, quân và dân An Giang đã phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, cùng với cả nước chung sức, đồng lòng, quyết tâm giải phóng quê hương, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

49-nam-GPMN.jpg

Bước vào năm 1975, trước diễn biến mới của tình hình thực địa chiến trường, tỉnh đã khẩn trương xây dựng kế hoạch hoạt động với tinh thần "một ngày bằng hai mươi năm", chọn mục tiêu, củng cố và phát triển lực lượng vũ trang từ tỉnh đến xã, ấp, phát động phong trào quần chúng tấn công ba mũi, chuẩn bị cơ sở bên trong sẵn sàng khởi nghĩa khi tình thế chín muồi.

Ngày 28/4/1975, Quân khu 9 chỉ đạo cho tỉnh đưa lực lượng vũ trang về giải phóng Hà Tiên là nơi yếu nhất của địch. Khi lực lượng ta hành quân đến Nam Thái Sơn thì được tin Dương Văn Minh đầu hàng, Tỉnh ủy quyết định chia lực lượng ra làm hai cánh: một cánh tiếp tục tiến về Hà Tiên, cánh thứ hai quay lại Ba Thê để giải phóng Long X uyên.

Chiều tối ngày 30/4/1975, cánh quân giải phóng Long Xuyên của tỉnh và thị xã Long Xuyên về đến Ba Thê. Ở đây, lực lượng khởi nghĩa của huyện đã kiểm soát hoàn toàn. Sáng ngày 01/5/1975, ta bao vây gọi hàng chi khu ở Núi Sập, đến trưa thì giải phóng hoàn toàn quận lỵ Huệ Đức. Lực lượng tỉnh củng cố đội ngũ tiến về thị xã Long Xuyên. Lúc 18 giờ 30 ngày 01/5/1975, ta giải phóng hoàn toàn thị xã Long Xuyên; sau đó bộ đội ta tiếp tục tiến lên Châu Thành.

Tại Châu Thành, chiều tối ngày 30/4/1975 lực lượng vũ trang huyện ra đến Lộ Tẻ, đánh chiếm cầu số 5, hỗ trợ lực lượng tại chỗ giành chính quyền Vĩnh Hanh, Cần Đăng. Sáng ngày 01/5/1975, ta chặn đánh tan rã lực lượng bảo an ngụy từ Tri Tôn tiến ra. Trưa ngày 01/5/1975, ta bao vây gọi hàng chi khu Châu Thành, một bộ phận địch chạy qua đồn Bình Thủy lập phòng tuyến "tử thủ". Ta chiếm chi khu lúc 16 giờ, đưa một bộ phận xuống bao vây trại công binh Mê Linh. Chiều tối ngày 01/5/1975 phối hợp lực lượng từ Long Xuyên lên, ta chiếm trại Mê Linh và sáng hôm sau đánh dứt điểm địch ở cồn Bình Thủy. Bộ đội quân khu và tỉnh tiếp tục tiến lên Châu Phú. Ngày 02/5/1975, ta giải phóng hoàn toàn Châu Phú.

49-nam-GPMN1.jpg

Nhân dân vui mừng chiến thắng.

Ở Tri Tôn, quân ta giải phóng hoàn toàn trong ngày 01/5/1975.

Ở Tịnh Biên, sáng ngày 01/5/1975, quân ta giải phóng huyện Tịnh Biên.

Tại Châu Đốc, gần trưa ngày 01/5/1975, ta giải phóng hoàn toàn tỉnh lỵ.

Ở Tân Châu, chiều ngày 30/4/1975, bộ đội địa phương huyện, du kích và lực lượng tại chỗ giải phóng xã Vĩnh Xương, sáng 01/5/1975, ta chiếm Tân An, Vĩnh Hòa và tiến về thị trấn; sau đó ta đánh chiếm chi khu, căn cứ hải quân Vịnh Đồn, giải phóng quận lỵ; trưa ngày 01/5/1975, sau khi giải phóng Hồng Ngự, một bộ phận của Tiểu đoàn 2 đã qua Tân Châu. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định chia bộ đội thành 3 cánh quân: một cánh đi An Phú, hai cánh tiến về "Thánh địa Hòa Hảo" theo ngả Long Sơn và Hòa Lạc.

Ở An Phú, từ chiều ngày 30/4/1975, lực lượng huyện chia làm 3 mũi tiến về thị trấn từ phía Phú Hội, Khánh Bình, Phú Hữu. Chiều tối ngày 01/5/1975, ta vào đến thị trấn và sáng ngày 02/5/1975 phối hợp với bộ đội tỉnh tiếp quản quận lỵ, tiến hành truy quét tàn quân cặp biên giới.

Ở Phú Tân, từ trưa ngày 30/4/1975, bọn ác ôn, ngoan cố trong ngụy quân, ngụy quyền phối hợp với bảo an quân khoảng 20.000 tên lập các phòng tuyến "tử thủ", đến sáng ngày 03/5/1975 họ mới chấp thuận thương lượng với ta, đến chiều ta kiểm soát toàn bộ trung tâm Phú Tân. Ngày 04/5/1975, tàn quân bảo an quân ở Bình Thạnh Đông, Hiệp Xương, Hưng Nhơn lần lượt đầu hàng. Phú Tân được giải phóng hoàn toàn.

Tại Chợ Mới, từ sáng ngày 30/4/1975, một số tên binh, tề ngụy cấp cao và bọn phản động trong các tổ chức chính trị, tôn giáo ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long tụ tập tại Tây An Cổ Tự (Long Kiến) họp bàn kế hoạch đòi giành chính quyền ở miền Tây. Đến trưa ngày 30/4/1975, tàn quân ngụy và bảo an quân lập tuyến phòng thủ nhiều tầng từ rạch Cái Tàu Thượng đến rạch Ông Chưởng.

Chiều ngày 30/4/1975, lực lượng của ta từ Mỹ An Hưng (Thạnh Hưng) về lần lượt đánh tan trận địa phòng ngự của địch ở Hội An và Hòa Bình. Ta giải phóng xã vào trưa ngày 01/5/1975. Cùng với Hội An, ở 3 xã Cù lao Giêng, cơ sở cùng đảng viên địa phương vận động quần chúng nổi dậy giải phóng xã.

Trong ngày 01/5/1975, ta tiếp tục đánh địch ở phòng tuyến kinh Cựu Hội và An Thạnh Trung, đẩy chúng lui về tuyến chính ở khu vực chợ Bà Vệ và Long Điền B. Sáng ngày 03/5/1975, ta chiếm chi khu Chợ Mới, chuẩn bị tiến về Long Kiến. Trong lúc đó, địch tiếp tục tăng cường củng cố các tuyến phòng thủ còn lại. Tàn quân ngụy và bảo an quân từ Long Xuyên, Châu Phú, Phú Tân tiếp tục chạy về Tây An Cổ Tự, nâng tổng quân số hơn 5.000 tên. Chiều ngày 03/5/1975, ta lần lượt đánh chiếm tuyến Long Điền, Bà Vệ, phát loa gọi bảo an quân ra hàng để tránh đổ máu vô ích. Ngày 04/5/1975, nghe lời kêu gọi của thân nhân, cả ngàn bảo an quân ra hàng tay không nhưng còn trên 3.000 tên bị bọn đầu sỏ khống chế vẫn tiếp tục "tử thủ". Ta cho hai máy bay L.19 lên trinh sát và pháo binh bắn vào trận địa địch, đồng thời lực lượng ta mở ba mũi tiến về Tây An Cổ Tự.

Trước nguy cơ bị bao vây tiêu diệt, đến 8 giờ sáng ngày 06/5/1975 toàn bộ số quân còn lại kéo cờ trắng ra hàng, ta chiếm Tây An Cổ Tự. Từ ngày 6 đến ngày 10/5/1975, ta lần lượt tiếp quản các xã còn lại.

Trước bối cảnh khó khăn đặc biệt của tỉnh trong những ngày cuối tháng 4 đầu tháng 5/1975, nhưng Đảng bộ, quân và dân An Giang đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, anh dũng chiến đấu, vượt qua mọi gian khổ, hy sinh để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng quê hương, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.  

Nhân dân thị xã Long Xuyên trong ngày vui đại thắng 1975

Suốt 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, quân và dân An Giang quyết tâm bám giữ đất, giữ làng, kiên cường đánh bại các âm mưu, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù để cùng cả nước đi đến ngày toàn thắng. Thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kỳ trên một địa bàn biên giới, dân tộc, tôn giáo rất phức tạp là minh chứng rõ nhất thể hiện vai trò lãnh đạo đúng đắn của Đảng, tinh thần yêu nước cao độ của các tầng lớp nhân dân An Giang, không ngại hy sinh xương máu, tù đày, gian khổ, kiên cường, bám dân, bám đất, quyết tâm chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Thời gian đã lùi xa 49 năm, nhưng những ngày tháng hào hùng ghi dấu chiến công oanh liệt của quân và dân An Giang trong cuộc chiến đấu trường kỳ để giải phóng quê hương mãi mãi là bản trường ca bất diệt và là niềm tự hào to lớn cho các thế hệ mai sau học tập noi theo. 

AN BÌNH

Học tấm gương Bác Tôn về chăm lo đời sống nhân dânAn Giang 190 nămBài viếtAn BìnhHọc tấm gương Bác Tôn về chăm lo đời sống nhân dân/SiteAssets/AG-chamlotet24-2.jpg
20/04/2024 10:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Chủ tịch Tôn Đức Thắng - Nhà lãnh đạo mẫu mực, người cộng sản kiên trung, người bạn chiến đấu thân thiết lâu năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời - suốt đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với 92 tuổi đời, gần 70 năm hoạt động cách mạng, được Đảng và Nhà nước phân công giữ nhiều trọng trách, Người đã có những cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam, vì độc lập, tự do cho Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân.


Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang trao quà Tết cho bà con nghèo trên địa bàn tỉnh

Bác Tôn như mọi người vẫn gọi, là người cộng sản mẫu mực, sống chân thành mà chí khí cao cả, làm nhiều nhưng nói ít, luôn nỗ lực phấn đấu hoàn toàn không vì ham muốn địa vị, vật chất mà là vì nước, vì dân; vị lãnh tụ của Nhân dân, tràn đầy tình yêu thương đồng chí, đồng bào.  

Sớm kế thừa truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc, tinh thần nghĩa hiệp, mộc mạc, trọng tình người của chất người Nam Bộ và sự hồn hậu, coi trọng tình làng, nghĩa xóm của gia đình, ngay từ những năm tháng tuổi trẻ, Bác Tôn đã sớm bộc lộ tinh thần yêu nước, thương dân, không sợ gian khó, sớm dấn thân theo con đường cách mạng. Bác Tôn luôn gần gũi và giúp đỡ, bênh vực những con người bình thường, nhất là khi họ gặp phải hoàn cảnh trái ngang, bất công. Khi đang theo học tại trường tiểu học, Bác Tôn đã tổ chức những người bạn thân thiết đứng về phía những học sinh bị đối xử bất công và đấu tranh chống lại những kẻ ỷ thế ăn hiếp người khác. Thậm chí, khi viên đốc học người Pháp bắt phạt vô lý học trò lớp nhứt đứng phơi nắng, Bác Tôn đã vận động cả lớp phản đối.

Những năm tháng bị tù đày gian khổ trong ngục tù đế quốc, lòng yêu nước, thương dân vẫn không hề nao núng, mà ngược lại nó đã hun đúc, kết tinh nên trong một con người Tôn Đức Thắng tràn đầy đức hy sinh và tình thương yêu đối với đồng chí, anh em. Hình ảnh người chiến sĩ cách mạng chân chính, gần gũi, biết cách thuyết phục, tổ chức những người tù, chú trọng chăm sóc sức khỏe các bạn tù, đồng thời vững vàng, gan góc trước bọn cai ngục, thậm chí sẵn sàng đưa thân mình hứng chịu những làn roi tàn bạo của kẻ thù để che chở cho đồng chí, đồng đội đã chiếm được sự cảm phục, tin yêu trong nhà tù, dù đó là các chiến sĩ cộng sản, hay những người tù chính trị khác, hoặc tù thường phạm. Bác Tôn đã tham gia sáng lập Chi bộ đặc biệt ở Nhà tù Côn Đảo và trở thành một trong những người lãnh đạo của các tù nhân Côn Đảo. Cùng với các chiến sĩ cộng sản khác, Bác Tôn đã tích cực đấu tranh đòi cải thiện điều kiện sinh hoạt và biến chốn lao tù đế quốc tăm tối, tàn bạo thành trường học cách mạng. Đồng chí Lê Duẩn nhận xét: “Trong tù đày vô cùng khắc nghiệt, vậy mà Bác Tôn luôn luôn lạc quan, giữ lòng tin tưởng, sống với anh em chân tình, ấm áp”.


Đoàn công tác Phó Chủ tịch nước trao tặng 30 phần quà cho gia đình chính sách trên địa bàn xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên

Trải qua nhiều trọng trách được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó, Bác Tôn luôn là tấm gương sáng ngời về tinh thần yêu nước; ý chí đấu tranh cách mạng kiên cường; lòng trung thành, tận tụy; đạo đức trong sáng, mẫu mực, đức tính khiêm tốn, giản dị; tình thương yêu đồng chí, đồng bào; tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc và tình đoàn kết quốc tế vô sản.

Trong thời gian giữ trọng trách Chủ tịch nước, dù bận rất nhiều công việc, Bác Tôn vẫn quan tâm và bố trí thời gian đi thăm hỏi, động viên các đồng chí thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ. Hàng năm, vào dịp Ngày thương binh, liệt sĩ 27/7, Bác Tôn thường gửi thư thăm hỏi ân cần đến các đồng chí thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội. Ngày 27/7/1970, đến thăm thương binh, bệnh binh đang điều dưỡng tại Quân khu III, Bác Tôn động viên anh em yên lòng chữa bệnh và nhắc nhở cán bộ, nhân viên điều trị hết lòng chăm sóc, chữa bệnh cho anh em thương binh, bệnh binh. Bác Tôn động viên các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng và nhắc nhở các cơ quan, đoàn thể, đồng bào các địa phương chấp hành tốt chính sách của Đảng, Nhà nước đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội. Sự quan tâm của vị Chủ tịch nước đối với thương binh, gia đình liệt sĩ không chỉ là mối quan hệ giữa một vị lãnh đạo cấp cao và người dân, mà còn là minh chứng cho mối quan hệ gắn bó, thân tình, nhân ái của lãnh đạo Đảng, Nhà nước đối với những người đồng chí, đồng bào ruột thịt.

Đoàn công tác của Tạp chí Cộng sản tham quan Nhà lưu niệm thời niên thiếu Chủ tịch Tôn Đức Thắng.

Cũng giống như Bác Hồ, trong cuộc sống hằng ngày Bác Tôn luôn khiêm tốn, giản dị, thanh bạch, liêm khiết, chính trực và nghĩa tình. Bác ghét thói đặc quyền, đặc lợi, không bao giờ lợi dụng vị trí công tác của mình để mưu cầu hạnh phúc riêng cho gia đình, cá nhân. Cả ba lần Trung ương định xây nhà nhưng Bác đều từ chối. Bác chỉ ở cùng gia đình trong căn nhà số 35, Trần Phú, Hà Nội. Sau khi Bác gái qua đời, khi thấy mình tuổi đã cao, Bác Tôn liền đề nghị chuyển gia đình các con ra ngoài ở. Theo Bác Tôn, làm như vậy là để chuẩn bị sau này khi mình qua đời, dễ bề trả lại ngôi nhà cho Nhà nước. Một hành động nhỏ nhưng chứa đựng cả một triết lý nhân sinh, mục đích sống cao đẹp.


Lãnh đạo tỉnh trao tặng quà của Phó Chủ tịch nước cho gia đình chính sách trên địa bàn xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên

Trước ngày giải phóng năm 1975, một cán bộ chuẩn bị vượt Trường Sơn về Nam công tác, trước khi rời Hà Nội đồng chí đến thăm sức khỏe và chào Bác Tôn. Hôm đó thấy Bác mặc chiếc áo cũ bị rút ngắn, Bác nối thêm một khúc. Đồng chí hỏi: “Bác ơi, làm Chủ tịch nước sao Bác mặc áo cũ nối thế này?”. Bác cười độ lượng trả lời: “Chủ tịch nước mặc áo nối thì dân mới có đủ cơm ăn”. Đồng chí rưng rưng nước mắt trước tấm lòng yêu nước, lo cho dân của Bác Tôn. Niềm vui và nỗi đau của đất nước chính là nhịp đập chung của trái tim giàu lòng nhân ái, cả cuộc đời chăm lo cho sự nghiệp chung không màng chi danh vọng của Bác Tôn.

Có lần, Bác Tôn đến thăm người bạn tù Côn Đảo năm xưa. Khi đến nhà, thấy người bạn nghèo, tuổi cao nằm co ro trên chiếc giường tre. Bác xót xa ngậm ngùi. Sau khi chuyện trò thăm hỏi, trở về Bác lấy chiếc nệm mút mình vẫn nằm gửi cho bạn. Khi đưa nệm mút nhờ đồng chí thư ký mang đi, Bác nói: “Hồi ở tù chúng tôi đều phải nằm lạnh. Nay không thể một người ấm, còn một người lại phải nằm lạnh”.

Đồng chí Phạm Tống Hoằng, người Long Xuyên ra công tác ở Hà Nội, ở gần nhà Bác đến thăm, thấy Bác đang tưới hoa, tưới kiểng, đồng chí ấy nói: “Bác đưa cháu xách nước cho Bác”. Bác nói: “Không được, để Bác tưới, Bác lao động cho khỏe”. Bác không cho làm thay. Lần khác, đồng chí Hoằng đến gặp lúc Bác đang sửa chiếc xe đạp, liền hỏi: “Chiếc xe đạp của cô, cậu nào không chữa mà Bác phải hì hục thế này?”. Bác nói: “Ô! Xe này của mình đấy, mình sửa chữa để ngày chủ nhật đi thăm bạn bè cũng sống gần đây thôi”. Đồng chí Hoằng nói: “Trời ơi! sao Bác không đi ô tô mà làm việc khổ như thế!”. Bác nói: “Ô! Chỉ có một ngày chủ nhật thôi thì để cho anh lái xe nghỉ ngơi, anh ta còn giúp đỡ gia đình, mình bắt anh ta đi lái xe cho mình nữa thì rất tội”. Bác luôn quan tâm, chăm sóc đến người khác. Không tự cho phép dành đặc quyền cá nhân. Việc gì làm được thì Bác tự làm, không phiền đến mọi người.

Bác Hồ từng dạy: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa” và chính Bác Tôn đã lĩnh hội chủ nghĩa Mác - Lênin theo tinh thần nhân văn cao cả đó: Bác thương những người ruột thịt trong gia đình, bà con hàng xóm, thương những người thợ cùng làm, cùng cảnh ngộ, thương đồng bào bị bóc lột, đàn áp; sống chí tình, chí nghĩa với đồng chí, bạn bè.

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng vẻ vang của mình, dù gặp muôn vàn gian nan, thử thách, Bác Tôn vẫn luôn nêu cao tinh thần cách mạng, giữ trọn niềm tin tất thắng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Người sống khiêm tốn, giản dị, nhân hậu, thủy chung, mẫu mực về đạo đức cách mạng, suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Tấm gương sáng của Bác Tôn là hiện thân tiêu biểu cho tính cách, khí chất, phong thái và nét văn hóa đặc sắc của người Nam Bộ nói chung và An Giang nói riêng: Thương người, luôn hào sảng, trọng nghĩa, bao dung độ lượng, hết lòng vì bạn bè, đồng chí, dũng cảm, mưu trí, vượt mọi khó khăn trở ngại vì nghĩa lớn. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân”. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “Di sản quý nhất mà đồng chí Tôn Đức Thắng để lại cho Nhân dân là chất NGƯỜI Tôn Đức Thắng, sản phẩm tổng hợp của chất hào hiệp Nam Bộ, chất kiên cường và tài năng sáng tạo Việt Nam, chất tiên phong của giai cấp công nhân, chất cách mạng của người yêu nước, người cộng sản, chất nhân đạo của con người. Tinh túy của chất ấy là lòng yêu nước, thương dân, niềm ưu ái với đồng bào, đồng chí; niềm tin sắt đá vào thắng lợi của cách mạng, mặc dù mọi khó khăn gian khổ, tinh thần một lòng một dạ phục vụ Nhân dân, đức chí công vô tư quên mình, sự khiêm tốn, giản dị, hồn nhiên, trong sáng”.

Anh hùng lao động, GS Trần Văn Giàu viết về Bác Tôn: Bác Tôn không phải là nhà lý luận mà là người tiên phong cách mạng... Chúng ta không học Bác ở lý luận mà học ở lập trường, nhân cách, cách sống ở đời,v.v... Tác phẩm hay nhất của Cụ chính là cuộc đời của Cụ. Cụ Tôn là một con người hành động, một con người có lẽ không có ý gì muốn để lại cho đời sau bằng các tác phẩm của mình. Nhưng trên thực tế Người đã để lại cho đời sau chúng ta rất nhiều “tác phẩm” bằng hành động, bằng việc làm và cả những lời nói. Đó là tác phẩm hay hơn nhiều bài viết".


Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động Việt Nam Thái Thu Xương và Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang Lê Văn Nưng trao quà Tết cho công nhân, lao động có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn tỉnh

Là người sớm thoát ly gia đình, xa quê hương hoạt động cách mạng nên tình yêu và nỗi nhớ xứ sở vẫn luôn da diết khôn nguôi trong tâm trí Bác. Được sinh ra và lớn lên tại Cù lao Ông Hổ, tỉnh An Giang, sâu thẳm trong trái tim Bác luôn dành một tình cảm rất tốt đẹp, trân trọng và quý mến cội nguồn quê hương của mình. Bởi chính nơi đây, xuất phát từ truyền thống yêu nước của gia đình, quê hương, từ dòng nước ngọt phù sa sông Hậu đã nuôi dưỡng nên nhân cách cao đẹp của chàng thanh niên Tôn Đức Thắng. Lần đầu sau Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, Bác về thăm An Giang trong nỗi bùi ngùi xúc động. Mặc dù hơn 30 năm xa quê hương nhưng Bác Tôn vẫn giữ nét chân chất của người miệt vườn, luôn ân cần, giản dị, thăm hỏi mọi người. Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang luôn ghi nhớ lời tâm sự và căn dặn quý báu của Bác: Hôm nay, Đảng và Nhà nước cho phép tôi về thăm quê nhà. Chưa bao giờ tôi thấy sung sướng như lúc này, khi cả nước được độc lập tự do, Bắc - Nam thống nhất. Tôi chẳng mong gì hơn là An Giang trở thành tỉnh xuất sắc, giàu mạnh, Nhân dân được ấm no, ai cũng được học hành như Bác Hồ mong muốn trong Di chúc lịch sử của Người.

Có thể nói, những đóng góp, hy sinh của Bác Tôn đối với Tổ quốc, Nhân dân là vô cùng to lớn và rất đáng tự hào. Bác đã đi xa nhưng nhân cách sống và đức hy sinh cao cả của Người vẫn mãi mãi trường tồn và tỏa sáng, là bó đuốc soi đường để mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân học tập, noi theo.


Trao quà cho các em học sinh thuộc hộ nghèo, cận nghèo vượt khó vươn lên học tốt

Học tập tấm gương đạo đức mẫu mực của Bác, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang quyết tâm phát huy cao nhất tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực tự cường, khát vọng phát triển, tiếp tục phát huy tốt truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, tinh thần tương thân tương ái, lối sống nhân hậu, nghĩa tình để khai thác hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh của địa phương, xây dựng An Giang trở thành tỉnh “xuất sắc, giàu mạnh”, Nhân dân được ấm no, hạnh phúc, ai cũng được học hành như di nguyện thiêng liêng của Bác Hồ, Bác Tôn.

A.B

Chiến thắng đồi Tức Dụp - ý nghĩa và bài học của sự kiện, trách nhiệm của thế hệ hôm nayAn Giang 190 nămBài viếtTTCTTTChiến thắng đồi Tức Dụp - ý nghĩa và bài học của sự kiện, trách nhiệm của thế hệ hôm nay/SiteAssets/TT-TucDup.jpg
25/03/2024 9:00 SANoĐã ban hành

​(TUAG)- Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua nhưng những âm vang hào hùng của chiến thắng đồi Tức Dụp không chỉ còn in sâu trong ký ức của các cựu chiến binh từng tham gia chiến đấu, mà còn cả thế hệ trẻ, những người dân yêu nước của huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang ngày hôm nay.

TT-TucDup.jpg

Ngược dòng lịch sử, sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968, lực lượng vũ trang huyện, tỉnh đã giáng cho Mỹ, ngụy những đòn tấn công quyết liệt, loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh; lực lượng cách mạng giữ vững vùng giải phóng ở căn cứ núi Tô, núi Dài và đồng tràm Huệ Đức, Lương Phi.

Với quyết tâm tiêu diệt lực lượng cách mạng, giành lại quyền kiểm soát vùng nông thôn và các tuyến lộ giao thông trọng yếu ở vùng Bảy Núi. Từ giữa năm 1968, Mỹ, ngụy huy động lực lượng quân sự lớn, trang bị vũ khí hiện đại mở cuộc tấn công ồ ạt vào căn cứ Núi Tô.

Từ ngày 17/11/1968, địch huy động 18.000 quân tinh nhuệ, có xe thiết giáp, pháo binh và máy bay ném bom yểm trợ mở cuộc tấn công ồ ạt vào đồi Tức Dụp. Tên gọi: “Ngọn đồi 2 triệu đô la”. Đó là giá chiến phí mà quân đội Mỹ dự tính cho cuộc chiến đấu thần tốc: Chỉ trong tuần lễ sẽ chiếm hoàn toàn mật khu nối liền đường Hồ Chí Minh với miền Tây Nam Bộ…

Về phía ta, lực lượng đóng giữ tại đây chỉ khoảng gần 200 cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang tỉnh, bộ đội địa phương huyện Tri Tôn, Châu Thành, Long Xuyên và du kích xã An Tức, Cô Tô, Ô Lâm. Tương quan lực lượng giữa ta và địch chênh lệch khoảng 90 lần, trang bị vũ khí cũng kém hơn địch rất nhiều. Nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ huy khôn khéo, linh hoạt của Tỉnh ủy và Huyện ủy, cán bộ, chiến sĩ đã nêu cao tinh thần chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chiến đấu quả cảm, không sợ hy sinh, sẵn sàng đương đầu với kẻ thù.

Tại Tức Dụp, lực lượng cách mạng đã dựa vào địa thế hiểm trở của núi rừng, phân tán lực lượng, bám từng gốc cây, hang đá, luồn sâu trong các lò ảng tổ chức chiến đấu ngoan cường, sáng tạo ra nhiều cách đánh độc đáo, đẩy lui từng trận càn, tiêu diệt nhiều sinh lực và vũ khí của địch. Trong suốt quá trình chiến đấu liên tục, mặc dù bị bao vây nghiêm ngặt, tấn công ác liệt suốt ngày đêm, lực lượng bị tổn thất hy sinh, thiếu thốn vũ khí, lương thực, nhưng nhờ sự đùm bọc, che chở, ủng hộ của người dân, tinh thần chiến đấu của bộ đội, du kích không hề lay chuyển, đoàn kết, kiên định, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng.

Doi-Tuc-Dup.jpg

Trải qua 128 ngày đêm chiến đấu với lực lượng không tương xứng, thiếu thốn mọi bề, các chiến sĩ cách mạng đã trụ vững tại đồi Tức Dụp. Quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến 4.700 tên, bắn cháy 11 xe tăng, 2 máy bay phản lực, 4 trực thăng, 9 khẩu pháo 105 ly, 1 máy bay cần cẩu và thu nhiều chiến lợi phẩm khác. Cuộc chiến ấy, bọn giặc ngông cuồng đã phải tốn hao đến 2 triệu đô-la Mỹ. Cũng từ trận đánh 128 ngày đêm ác liệt ấy, Tức Dụp sừng sững với tên gọi "Lá chắn Anh hùng", vinh dự nhận tên mới "Đồi 2 triệu đôla". Nơi đây, biết bao chiến sĩ cách mạng đã ngã xuống và tinh thần bất khuất ấy đã được Bộ Tư lệnh Miền tặng 8 chữ vàng "Kiên cường giết giặc, giữ vững Núi Tô”. Chiến thắng tại đồi Tức Dụp là biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí kiên định và niềm tin vào chiến thắng cuối cùng cách mạng, tên tuổi của các đồng chí như: Trần Thanh Quế, Phan Văn Mỳ, Trần Trường Sơn, Lê Thành Cư, Nguyễn Thành Công, Hà Minh Khá, Huỳnh Văn Điều, Năm Kiếm…mãi mãi được lịch sử khắc ghi.

Chiến tranh đã lùi xa, Tức Dụp đã hồi sinh, được công nhận là Di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia theo Quyết định số 666-VH/QĐ, ngày 01/4/1985, của Bộ Văn hóa Thông tin. Tức Dụp trở thành địa chỉ đỏ, nơi giáo dục truyền thống cách mạng, truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ nói riêng và người dân nói chung.

Với những chiến công đã đi vào huyền thoại, với nhiều di tích để lại như: Hang Hội Trường C6, hang Quân Y, vồ Năm Kiếm, điện Mười Xem… cùng với những tiềm năng to lớn về cảnh quan của núi rừng, không gian văn hóa đặc sắc của dân tộc Khmer. Tức Dụp ngày nay đang được quy hoạch tổng thể, khoa học; trong đó đã và đang tiến hành tu bổ, trùng tu tôn tạo các hạng mục, xây dựng mới nhiều công trình, hướng đến trở thành một điểm du lịch hấp dẫn của huyện, cũng như của tỉnh An Giang.

Yêu cầu đặt ra đối với các nhà quản lý là vừa phải khai thác tốt các tiềm năng, đem lại hiệu quả kinh tế nhưng cũng đồng thời phải gìn giữ tốt các di tích lịch sử, không phá vỡ cảnh quan, cấu trúc tự nhiên của núi đồi, phát huy những giá trị này phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, để Tức Dụp mãi là một địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng cho thế hệ hôm nay và mai sau, góp phần xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp hơn - đây cũng chính là mục đích, là lời tri ân đến công ơn của các anh hùng, liệt sĩ đã cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

PHAN VĂN SƯƠNG

Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Tri Tôn

Triển lãm ảnh chuyên đề “Bác Tôn với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” TinMinh AnhTriển lãm ảnh chuyên đề “Bác Tôn với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” /SiteAssets/Trienlam-anh-BT-voi-MTTQ-1.jpg
21/03/2024 2:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Nhân tưởng niệm 44 năm Ngày mất Chủ tịch Tôn Đức Thắng (30/3/1980 - 30/3/2024), sáng 21/3, tại Di tích Quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng (xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang), Bảo tàng Tôn Đức Thắng phối hợp với Ban quản lý Di tích Quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng (An Giang) tổ chức khai mạc triển lãm ảnh chuyên đề “Bác Tôn với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”.

Triển lãm ảnh chuyên đề “Bác Tôn với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” giới thiệu 105 hình ảnh về Bác Tôn - Người con ưu tú của quê hương An Giang, tấm gương tận tụy xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Triển lãm giới thiệu nhiều hình ảnh Bác Tôn với công tác Mặt trận, Bác Tôn với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh An Giang tiếp bước Chủ tịch Tôn Đức Thắng

Khách tham quan triển lãm sẽ được tìm hiểu thêm về quá trình hình thành tên gọi Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và những đóng góp của Bác Tôn đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, vai trò của Người trong việc kết nối cộng đồng dân tộc, những phẩm chất để giúp Bác Tôn trở thành biểu tượng của tinh thần đoàn kết Bắc - Nam. Qua đó, góp phần tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết thống nhất dân tộc chung một mục đích xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Đồng thời, nâng cao tinh thần rèn luyện, học tập đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” đến mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên và các tầng lớp nhân dân.

Phát biểu khai mạc triển lãm, bà Nguyễn Thị Mỹ Diệu, Giám đốc Ban Quản lý Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã ôn lại cuộc đời, sự nghiệp Bác Tôn, từ người thanh niên yêu nước đã hòa mình vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân. Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, dù ở cương vị nào, Bác Tôn cũng luôn nêu cao phẩm chất trung thành với Tổ quốc, với dân tộc, với Đảng, hết lòng, hết sức phụng sự cách mạng, phục vụ nhân dân, trở thành “biểu tượng” của đại đoàn kết toàn dân tộc.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình thức tổ chức của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam với mục tiêu tập hợp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm có ý thức sâu sắc về sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của tinh thần yêu nước trong mỗi con người Việt Nam và Mặt trận là nơi tập hợp và nhân lên gấp bội tinh thần yêu nước đó.

Từ tên gọi ban đầu là Hội phản đế Đồng minh (1930) và trải qua các thời kỳ với tên gọi như Hội Phản đế Liên minh (1935), Mặt trận Nhân dân Phản đế Đông Dương (1936), Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1938), Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương (1939), Việt Nam Độc lập Đồng minh gọi tắt là Việt Minh (1941), Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam gọi tắt là Hội Liên Việt (1951). Đến tháng 2/1977, Đại hội Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam được tiến hành đã thống nhất các tổ chức Mặt trận ở nước ta thành một tổ chức Mặt trận chung là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.


Với vai trò Hội trưởng Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt) 1947, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt (1951), Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955) và đến tháng 12/1977 là Chủ tịch danh dự của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cho tới khi qua đời (1980), qua hơn 30 năm liên tục được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng, giao nhiệm vụ, Bác Tôn đã tận tâm, tận lực giương cao ngọn cờ đại đoàn kết để lãnh đạo, tổ chức xây dựng và phát triển Mặt trận đoàn kết toàn dân, tập hợp các lực lượng yêu nước, phát huy cao nhất nội lực của dân tộc và đã góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người, xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Những hình ảnh phản ánh tấm gương Chủ tịch Tôn Đức Thắng suốt cả cuộc đời quan tâm chăm lo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, vì mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và chủ nghĩa xã hội, vì hòa bình thế giới, được đồng bào cả nước và bè bạn năm châu tin yêu, mến phục.

Triển lãm mở cửa phục vụ du khách và nhân dân tham quan tìm hiểu đến cuối tháng 7/2024./.

MINH ANH

An Giang chuẩn bị chu đáo  cho ngày Hội tòng quân năm 2024An Giang 190 nămBài viếtTTCTTTAn Giang chuẩn bị chu đáo  cho ngày Hội tòng quân năm 2024https://www.angiang.dcs.vn/SiteAssets/Bithu-tuyenquan-o-Tri-Ton.jpg
25/02/2024 11:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Ngày 27/2, các địa phương trong tỉnh An Giang sẽ tổ chức Hội trại tòng quân và lễ giao nhận quân năm 2024. Với quyết tâm đạt chỉ tiêu và nâng cao chất lượng, cấp ủy, chính quyền các cấp đã tiến hành các bước tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ đúng theo quy trình, quy định của pháp luật. Đến thời điểm này, công tác chuẩn bị về mọi mặt cho ngày Hội tòng quân của các địa phương đã hoàn tất, 100% thanh niên đủ điều kiện sức khỏe đã sẵn sàng nhận lệnh lên đường nhập ngũ, thể hiện rõ quyết tâm tuổi trẻ sẵn sàng khi Tổ quốc cần.

Xác định công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác quân sự, quốc phòng, những năm qua, đặc biệt là năm 2024, Ðảng ủy, Bộ Chỉ huy quân sự (CHQS) tỉnh đã chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trong lực lượng vũ trang (LLVT) tỉnh phối hợp tham mưu chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương làm tốt các khâu, các bước trong quy trình tuyển quân, thực hiện hoàn thành chỉ tiêu giao quân ở cả ba cấp, với chất lượng cao hơn năm 2023.

Sau khi hoàn thành chỉ tiêu công tác tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ năm 2023, Hội đồng nghĩa vụ quân sự các địa phương trong tỉnh đã bắt tay vào việc chuẩn bị và thực hiện quy trình tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ năm 2024 chặt chẽ từng bước, từng khâu, đảm bảo dân chủ, công khai, đúng theo quy định của pháp luật. Hội đồng nghĩa vụ quân sự cấp huyện và Hội đồng nghĩa vụ quân sự các xã, phường, thị trấn nắm chắc nguồn và thực lực, không để sót, lọt thanh niên trong độ tuổi đăng ký, quản lý. Cấp ủy, người đứng đầu chính quyền địa phương các cấp trong tỉnh đã phát huy tốt vai trò trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, phân công trách nhiệm cụ thể cho từng cơ quan, ban, ngành, đoàn thể và thành viên Hội đồng nghĩa vụ quân sự, đã tạo động lực tích cực để hoàn thành tốt chỉ tiêu tuyển quân năm 2024.


Cơ quan quân sự từ tỉnh đến xã, phường, thị trấn đã tham mưu chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền cùng cấp triển khai nhiều giải pháp, phối hợp chặt chẽ với các ngành, gặp gỡ, vận động thanh niên nhận lệnh và khám tuyển đúng quy định; tăng cường tuyên truyền cho Nhân dân, nhất là thanh niên trong độ tuổi nhập ngũ nhận thức đúng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự. Đồng thời đảm bảo đầy đủ chế độ, tiêu chuẩn của thanh niên tham gia khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự; chế độ chính sách cho thanh niên nhập ngũ và gia đình theo luật định, ngoài ra mỗi thanh niên nhập ngũ còn được Ủy ban nhân dân tỉnh tặng 01 sổ tiết kiệm, các địa phương tặng một phần quà và tiền mặt trị giá bình quân từ 1,5 triệu đến 02 triệu đồng.

Điểm nổi bật trong công tác tuyển quân năm nay của tỉnh An Giang là các địa phương trong tỉnh đã có nhiều cách làm sáng tạo, đổi mới trong tuyên truyền, vận động thanh niên tình nguyện đăng ký thi hành nghĩa vụ quân sự, như: Thành lập các tổ tuyên truyền vận động thanh niên trong đăng ký nghĩa vụ quân sự tuổi 17, trong khám sức khỏe sơ tuyển, trong Lễ đón quân nhân hoàn thành nghĩa vụ tại ngũ trở về địa phương…Đặc biệt, một số địa phương mời quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự tại ngũ tham gia Hội trại tòng quân để trực tiếp tuyên truyền, chia sẻ kinh nghiệm học tập, rèn luyện trong môi trường quân đội. Từ đó, hiệu quả tuyên truyền được nâng lên rõ rệt, thanh niên và thân nhân của thanh niên nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng khi tham gia thi hành nghĩa vụ quân sự, làm tròn bổn phận của thanh niên đối với đất nước.


Đối với công tác tiếp nhận và chuẩn bị huấn luyện chiến sĩ mới, Bộ CHQS tỉnh đã chỉ đạo Trung đoàn bộ binh 892 chuẩn bị đầy đủ, chu đáo, chặt chẽ như: Biên chế khung huấn luyện, tập huấn, bồi dưỡng cán bộ huấn luyện, đảm bảo cơ sở vật chất học tập, huấn luyện, mô hình, học cụ, thao trường, bãi tập, quân trang theo tiêu chuẩn, chuẩn bị bảo đảm các mặt phục vụ tốt đời sống vật chất và tinh thần cho chiến sĩ mới ngay từ những ngày đầu đến đơn vị.

Trong không khí vui tươi, rộn ràng của mùa Xuân mới, các thanh niên của tỉnh An Giang trúng tuyển nghĩa vụ quân sự năm 2024 đang náo nức đón chờ ngày Hội tòng quân - ngày Hội của tuổi trẻ lên đường bảo vệ Tổ quốc. Với kinh nghiệm nhiều năm qua và sự chuẩn bị chu đáo, tỉnh An Giang đã sẵn sàng cho ngày Hội tòng quân năm 2024 lành mạnh, an toàn, đạt 100% chỉ tiêu, góp phần xây dựng quân đội, xây dựng LLVT và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Đại tá THẠCH THANH TÚ

Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh

An Giang phát huy truyền thống đoàn kết,  quyết tâm đưa tỉnh nhà phát triểnAn Giang 190 nămBài viếtTTCTTTAn Giang phát huy truyền thống đoàn kết,  quyết tâm đưa tỉnh nhà phát triểnhttps://www.angiang.dcs.vn/SiteAssets/Le-congbo-quyhoach-ag-8.jpg
02/02/2024 9:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Năm 2023 - năm thứ ba thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI (nhiệm kỳ 2020 - 2025), trong điều kiện cả nước phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức; Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh An Giang đã phát huy tinh thần đoàn kết, tích cực đổi mới sáng tạo; triển khai nhiều giải pháp quyết liệt, đồng bộ, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.

Hinh 6.jpg

Những thành tựu nổi bật

Trong bối cảnh thuận lợi, khó khăn thách thức đan xen; tình hình thế giới diễn biến phức tạp; dịch bệnh COVID-19 tuy được kiểm soát nhưng để lại nhiều hậu quả, ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất - kinh doanh và đời sống nhân dân. Song, được sự quan tâm lãnh, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ và ủng hộ của các ban, bộ, ngành Trung ương; cùng sự lãnh, chỉ đạo, điều hành quyết liệt của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp; phối hợp của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), các tổ chức chính trị - xã hội; nỗ lực không ngừng của cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân chung sức, đồng lòng, An Giang đã vượt qua khó khăn, thực hiện đạt và vượt 14/15 chỉ tiêu kinh tế - xã hội Nghị quyết Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh đề ra (riêng bảo hiểm y tế toàn dân gần đạt 91,88/92,75%). Đặc biệt, trong điều kiện vô cùng khó khăn, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) năm 2023 của tỉnh đạt 7,34%, kế hoạch đề ra (7 - 7,5%), cao hơn mức bình quân chung cả nước; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,43%; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 11,03%; dịch vụ tăng 8,54%; thuế trừ trợ cấp tăng 5,53%. GRDP bình quân đầu người đạt 60,55 triệu đồng/năm (tương đương 2.496 USD).

Lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ. Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, kết quả tốt nghiệp THPT đạt 99,15%, thứ 9 cả nước và đứng đầu khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) về điểm trung bình các môn thi. Thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác an sinh xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Tiếp tục khơi dậy, phát huy các giá trị về lịch sử, văn hóa, con người An Giang, đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội.

Chao-nam-moi-24-1.jpg

Nhiều công trình trọng điểm được tích cực chuẩn bị triển khai thi công, như: Dự án đường bộ cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng đoạn qua An Giang, cầu Châu Đốc, nâng cấp, mở rộng các tuyến tỉnh lộ và các công trình trọng điểm khác về y tế, văn hóa, giáo dục… Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 sau thời gian chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; an ninh biên giới được tăng cường; công tác dân tộc, tôn giáo tiếp tục được chú trọng; mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; đẩy mạnh ngoại giao kinh tế, ngoại giao quốc phòng; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển.

Bên cạnh đó, tỉnh đã tổ chức các hoạt động kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng; Lễ công bố thành lập thị xã Tịnh Biên; Hội thảo quốc tế Văn hóa Óc Eo - Ba Thê và nhiều sự kiện quan trọng khác của Trung ương, địa phương tổ chức tại An Giang thành công tốt đẹp. Từ đó, góp phần nâng cao nhận thức chính trị, khẳng định chủ quyền quốc gia, quảng bá hình ảnh tốt đẹp về vùng đất, con người An Giang.

Công tác xây dựng Đảng và công tác dân vận đạt nhiều kết quả tích cực, chất lượng hoạt động của cấp ủy cơ sở đảng ngày càng nâng cao; các cấp ủy chủ động nắm việc, sát việc trong lãnh đạo nhiệm vụ của địa phương, đơn vị. Chất lượng hoạt động của HĐND, UBND được nâng lên. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền tiến bộ. Hoạt động của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội có nhiều đổi mới; khối đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được tăng cường.

Ngoài những vi phạm, khuyết điểm của cá nhân cán bộ, đảng viên được phát hiện, xử lý theo quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước, những kết quả đạt được trong năm 2023 là đáng trân trọng, là động lực để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân An Giang vững tin bước vào năm mới 2024 với quyết tâm chính trị cao nhất.

Kết quả nổi bật năm 2023:
• Tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt 7,34% (kế hoạch 7 – 7,5%).
• GRDP bình quân đầu người đạt 60,55 triệu đồng (kế hoạch 60,52 – 62,03 triệu đồng).
• Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 41.320 tỷ đồng (kế hoạch 33.951 – 37.783 tỷ đồng).
• Kim ngạch xuất khẩu 1.172 triệu USD (vượt kế hoạch).
• Tổng thu ngân sách từ kinh tế địa bàn ước đạt 7.045 tỷ đồng (vượt kế hoạch).
• Tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia đạt 51,7% (đạt kế hoạch).
• Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm bình quân %/năm đạt 1 - 1,2% (đạt kế hoạch).
• Có thêm 8 xã đạt chuẩn nông thôn mới và 5 xã đạt nông thôn mới nâng cao (đạt kế hoạch)…

Niềm tin, khát vọng trong năm mới

Bước sang năm 2024 - năm thứ tư của nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, Đảng bộ tỉnh An Giang nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về tình hình, bối cảnh chung; những thuận lợi và khó khăn riêng của một tỉnh đi lên từ nông nghiệp, nhưng có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế, nhất là du lịch, dịch vụ và công nghiệp, nông nghiệp theo hướng chất lượng, hiện đại; đặc biệt kinh tế biên mậu, nơi có nhiều cửa khẩu quan trọng của quốc gia; xác định nhiệm vụ trọng tâm và khâu đột phá cần tập trung lãnh, chỉ đạo, tạo bước chuyển biến mới, mạnh mẽ hơn nữa trong phát triển kinh tế - xã hội năm 2024.

Chao-nam-moi-24-3.jpg

Theo đó, tỉnh tiếp tục tập trung ưu tiên nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo định hướng của Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI đề ra; phấn đấu đến năm 2030, đưa An Giang trở thành tỉnh khá trong vùng ĐBSCL; kinh tế năng động, hài hòa, bền vững trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh... Tầm nhìn đến năm 2050, phấn đấu trở thành tỉnh phát triển toàn diện, văn minh, sinh thái, bền vững và mang bản sắc văn hóa sông nước của vùng đất đầu nguồn sông Cửu Long; có trình độ khá so với cả nước; chất lượng cuộc sống của người dân ở mức cao… Xác định rõ vai trò, vị trí, tiềm năng, thế mạnh của An Giang trong vùng ĐBSCL; coi trọng liên kết vùng, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, sớm trở thành tỉnh có du lịch, nông nghiệp, công nghiệp theo hướng hiện đại.

Tỉnh tiếp tục tập trung mọi nguồn lực, biện pháp, quyết tâm thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu đề ra; nhất là các chỉ tiêu đạt thấp và dự báo khó đạt. Đẩy mạnh thực hiện các nghị quyết, đề án trọng tâm, mũi nhọn. Triển khai nhanh Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, làm cơ sở xây dựng, thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới. Đẩy nhanh tiến độ thi công tuyến đường bộ cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng đoạn qua địa phận An Giang, tuyến tránh Long Xuyên; các dự án giao thông liên vùng, nội tỉnh và các công trình trọng điểm về y tế, giáo dục, văn hóa, quốc phòng - an ninh…

Thường xuyên quan tâm, chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để huy động, khơi thông mọi nguồn lực, khai thác tối đa các tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu. Tiếp tục xây dựng, bảo tồn và phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa, con người An Giang. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả lĩnh vực văn hóa - xã hội, nhất là giảm nghèo bền vững, các chương trình mục tiêu quốc gia để cải thiện đời sống người dân.

Với trọng trách là “phên giậu” phía Tây Nam Tổ quốc về quốc phòng - an ninh, đồng thời là “phên giậu về kinh tế”, bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh kinh tế của đất nước. An Giang đặc biệt coi trọng xây dựng, củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc. Đồng thời, thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, giữ vững chủ quyền quốc gia, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động thực hiện hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, tạo môi trường ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của vùng ĐBSCL và cả nước.

Đặc biệt, chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết khắc phục những hạn chế, khuyết điểm của các cấp ủy, lãnh đạo quản lý các cấp. Tiếp tục đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm; phát huy dân chủ và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân. Không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) và Kết luận số 21-KL/TW Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII). Kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực; xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đồng thời bảo vệ những cán bộ, đảng viên dám nghĩ đúng, dám nói đúng, dám làm đúng, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Thực hiện nghiêm Quy định số 37-QĐ/TW về “Những điều đảng viên không được làm”, gắn với việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” nhằm lan tỏa, nhân rộng ra các tầng lớp nhân dân, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, đảm bảo kỷ luật, kỷ cương trong Đảng.

Các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2024:
• Tăng trưởng GRDP tăng 7,5 - 8,5%.
• GRDP bình quân đầu người từ 70,27 – 70,88 triệu đồng/người/năm.
• Tổng vốn đầu tư xã hội từ 47.867 tỷ đồng.
• Kim ngạch xuất khẩu 1.185 triệu USD.
• Thu ngân sách đạt 7.197 tỷ đồng.
• Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm bình quân 0,5 - 1 %/năm.
• Có thêm 5 xã đạt chuẩn nông thôn mới và 5 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.
• 75% cơ quan nhà nước các cấp hoàn thiện chính quyền điện tử…

Với niềm tin, khát vọng về quê hương giàu mạnh, Nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, Ban Thường vụ Tỉnh ủy mong muốn và tin tưởng các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể và Nhân dân các dân tộc tỉnh nhà phát huy những kết quả, kinh nghiệm đạt được năm qua; tăng cường đoàn kết; nêu cao ý chí tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên; chung sức, đồng lòng; nỗ lực, phấn đấu hoàn thành vượt mức các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2024. Xây dựng An Giang - quê hương Chủ tịch Tôn Đức Thắng kính yêu ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Trong không khí phấn khởi chào mừng Xuân mới Giáp Thìn 2024, kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh. Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2024, thay mặt Tỉnh ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, tôi kêu gọi các cấp, các ngành, tầng lớp nhân dân, cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, doanh nhân và người lao động trong tỉnh, kế thừa những thành tựu đạt được, phát huy truyền thống cách mạng quê hương An Giang anh hùng, tiếp tục đoàn kết, kỷ cương, bản lĩnh, đổi mới, sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả; chung sức, đồng lòng vượt qua khó khăn, thử thách, đóng góp tài năng, công sức, trí tuệ, phấn đấu hoàn thành vượt mức các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ năm 2024; xây dựng tỉnh An Giang phát triển nhanh và bền vững.

TS. LÊ HỒNG QUANG

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang.

Công bố quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050An Giang 190 nămTinNgọc HânCông bố quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050/SiteAssets/Le-congbo-quyhoach-ag-5.jpg
19/01/2024 10:40 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Sáng ngày 19/01, tại Hội trường tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang tổ chức Lễ Công bố Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí Thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang chủ trì buổi lễ. Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đỗ Thành Trung; Thiếu tướng Huỳnh Văn Ngon, Phó Chính ủy Quân khu 9; Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang Lê Văn Nưng; các đồng chí nguyên lãnh đạo Trung ương, nguyên lãnh đạo tỉnh An Giang; lãnh đạo các tỉnh, thành bạn; các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh;… cùng tham dự lễ.

Le-congbo-quyhoach-ag-1.jpg

Quang cảnh buổi lễ

Le-congbo-quyhoach-ag-2.jpg

Le-congbo-quyhoach-ag-3.jpg

Đại biểu dự lễ

Le-congbo-quyhoach-ag-4.jpg

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lê Văn Phước Công bố tóm tắt Quyết định số 1369/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050

Le-congbo-quyhoach-ag-5.jpg

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đỗ Thành Trung trao Quyết định Quy hoạch tỉnh An Giang

Quy hoạch tỉnh An Giang được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1369/QĐ-TTg, ngày 15/11/2023. Phạm vi, ranh giới quy hoạch gồm toàn bộ địa giới hành chính tỉnh An Giang có diện tích tự nhiên là 3.536,7 km2, thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Phía Tây Bắc tiếp giáp với Vương quốc Campuchia, phía Đông và Đông Bắc tiếp giáp với tỉnh Đồng Tháp, phía Đông Nam tiếp giáp với thành phố Cần Thơ, phía Nam và Tây Nam tiếp giáp với tỉnh Kiên Giang.

Mục tiêu tổng quát của Quy hoạch đến năm 2030, An Giang là tỉnh phát triển khá trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long; có kinh tế phát triển năng động, hài hòa và bền vững; là trung tâm nghiên cứu phát triển giống và sản xuất nông nghiệp, thủy sản, dược liệu ứng dụng công nghệ cao; trung tâm du lịch sinh thái của vùng; đầu mối giao thương, hợp tác với Vương quốc Campuchia; có hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, thích ứng với biến đổi khí hậu; các giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy; quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự an toàn xã hội ổn định; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống của người dân được ấm no, hạnh phúc.

Le-congbo-quyhoach-ag-6.jpg
Đại biểu phát biểu tham luận

Le-congbo-quyhoach-ag-7.jpg

Trao Bản thỏa thuận hợp tác đầu tư cho 9 doanh nghiệp

Để thực hiện mục tiêu tổng quát này, có 03 nhóm mục tiêu về: Kinh tế; Xã hội và Môi trường được đề ra với 13 mục tiêu cụ thể, trong đó có mục tiêu về kinh tế với Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân 7%/năm; GRDP bình quân đầu người (giá hiện hành) đạt trên 157 triệu đồng/năm; kinh tế số đạt trên 20% GRDP.

Tầm nhìn đến năm 2050, An Giang là tỉnh phát triển toàn diện, hiện đại, văn minh, sinh thái, bền vững; là đầu mối giao thương hàng hóa, dịch vụ của vùng với thị trường Campuchia và các nước khu vực ASEAN; bản sắc văn hóa thống nhất trong đa dạng của các dân tộc trên địa bàn tỉnh và mang đậm văn hóa sông nước của vùng đất đầu nguồn sông Cửu Long. Quốc phòng, an ninh vững mạnh, trật tự, an toàn xã hội ổn định, người dân có cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc. 

Các đột phá phát triển gồm: (1) Xây dựng và ban hành các cơ chế chính sách nhằm thu hút các nguồn lực, nhà đầu tư trong và ngoài nước vào các lĩnh vực đột phá phát triển như nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, dịch vụ, du lịch, logistics và chuyển đổi số; (2) Tập trung huy động tối đa các nguồn lực để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông và đẩy mạnh đầu tư phát triển các hành lang kinh tế, trọng tâm là hành lang kinh tế Châu Đốc - Long Xuyên; hành lang kinh tế biên giới Tịnh Biên - Châu Đốc - An Phú - Tân Châu (Khu Kinh tế cửa khẩu tỉnh An Giang), các khu, cụm công nghiệp, đô thị động lực; mạng lưới hạ tầng thương mại và dịch vụ chất lượng cao; (3) Đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số (trên 03 trụ cột chính: chính quyền số, kinh tế số và xã hội số), đồng thời, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của tỉnh.

Le-congbo-quyhoach-ag-8.jpg

Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang phát biểu

Phát biểu tại buổi lễ, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang thông tin: Tỉnh An Giang xác định công tác lập quy hoạch là nhiệm vụ hàng đầu; nhằm tạo khung pháp lý cao nhất, là công cụ quan trọng để định hướng phát triển không gian kinh tế - xã hội; phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Ngay sau khi Luật Quy hoạch ra đời, An Giang đã triển khai công tác lập quy hoạch, với sự tham gia của cả hệ thống chính trị. Tỉnh ủy đã chỉ đạo Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh phối hợp chặt chẽ các bộ, ngành Trung ương; các tỉnh, thành phố thuộc Đồng bằng sông Cửu Long và tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, tham vấn ý kiến của nhiều cấp, nhiều ngành, của các chuyên gia, nhà khoa học để hoàn thiện Quy hoạch, thông qua Hội đồng thẩm định Trung ương, bảo đảm chất lượng, tiến độ theo quy định. An Giang rất phấn khởi khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.  

Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang khẳng định: "Đây là dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển tỉnh nhà; là cơ sở pháp lý để sắp xếp không gian, thu hút đầu tư, phân bổ nguồn lực; khai thác, phát huy tối đa các tiềm năng, thế mạnh nhằm hiện thực hóa mục tiêu đưa An Giang phát triển nhanh, toàn diện, bền vững trong 30 năm tới.

Để thực hiện tốt nội dung Quy hoạch, biến khát vọng và tầm nhìn thành hiện thực,  Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang đề nghị các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm: Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các nội dung cốt lõi của quy hoạch đến cộng đồng doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân; nhằm tạo thống nhất về nhận thức; hành động và hiệu quả trong thực hiện Quy hoạch.

Trên cơ sở nội dung Quy hoạch; các cấp, các ngành và địa phương phối hợp triển khai kế hoạch thực hiện; đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, nhịp nhàng. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của địa phương, đơn vị mình để tập trung chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện. Tăng cường tính chủ động, trách nhiệm; nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý Quy hoạch; vừa bảo đảm Quy hoạch được triển khai trong thực tế, vừa phát huy tối đa nguồn lực thực hiện.

Tổ chức lập, điều chỉnh quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn, quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với Quy hoạch tỉnh. Chủ động nghiên cứu, sửa đổi; đề nghị sửa đổi các chủ trương, chính sách, quy định đã ban hành; đề xuất ban hành mới các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ, tạo động lực mới cho sự phát triển.

Nghiên cứu, đánh giá mức độ thiết yếu, xác định thứ tự ưu tiên đầu tư các công trình, dự án quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội theo đúng định hướng Quy hoạch tỉnh. Khẩn trương chuẩn bị Chương trình xúc tiến đầu tư năm 2024. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn vốn ngân sách nhà nước; đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào các ngành, lĩnh vực then chốt; các công trình hạ tầng trọng điểm, có tính đột phá, sức lan tỏa, nhằm huy động, sử dụng hiệu quả nguồn vốn của các thành phần kinh tế.

Chú trọng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, phục vụ các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Tăng cường bảo vệ môi trường, ứng dụng khoa học - công nghệ. Khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, hợp tác xã và nhà đầu tư đến với tỉnh An Giang. Tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, lợi ích nhóm. Tất cả mọi suy nghĩ, hành động đều vì lợi ích chung, vì sự phát triển tỉnh nhà.

Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang nhấn mạnh: Quy hoạch tỉnh An Giang được công bố hôm nay mới là bước khởi đầu. Song, chặng đường thực hiện là rất dài, với mục tiêu rất lớn. Bên cạnh những yếu tố thuận lợi, sẽ gặp không ít khó khăn, thách thức. Đồng chí kêu gọi các cấp, các ngành, toàn hệ thống chính trị, doanh nghiệp và Nhân dân các dân tộc An Giang đoàn kết, nỗ lực, quyết tâm; chung tay thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển tỉnh An Giang theo Quy hoạch tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; xây dựng An Giang - quê hương Chủ tịch Tôn Đức Thắng ngày càng giàu đẹp - văn minh!

NGỌC HÂN

Thông cáo báo chí Lễ công bố Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050An Giang 190 nămTinAdminThông cáo báo chí Lễ công bố Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050/SiteAssets/BANNER177-BAO-CAO-TOM-TAT.jpg
18/01/2024 2:00 CHNoĐã ban hành

​(TUAG)- Thực hiện Kế hoạch số 23/KH-UBND ngày 10/01/2024 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang về tổ chức Lễ Công bố Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Ban Tổ chức Lễ công bố Quy hoạch tỉnh An Giang thông tin cho các cơ quan báo chí:

BANNER177-BAO-CAO-TOM-TAT.jpg


Chi tiết vui lòng xem tại file đính kèm:

TCBC Le cong bo_P THQH cap nhat hoàn chỉnh phát hành.docx

THONG CAO BAO CHI.pdf

Quyết định số 1369/QĐ-TTg ngày 15/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2050An Giang 190 nămTinAdminQuyết định số 1369/QĐ-TTg ngày 15/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2050https://www.angiang.dcs.vn/SiteAssets/Vannghe-190namag.jpg
14/12/2023 9:10 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Ngày 15/11/2023, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định số 1369/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Cổng TTĐT Đảng bộ tỉnh đăng toàn văn quyết định.

1369-ttg.signed.pdf

Quyetdinh-1369-TTg.jpg

Chung kết xếp hạng Hội thi Giọng hát hay tỉnh An Giang năm 2023 An Giang 190 nămTinLê Quang TrạngChung kết xếp hạng Hội thi Giọng hát hay tỉnh An Giang năm 2023 /SiteAssets/Hoi-thi-gionghat-23-1.jpg
24/11/2023 7:00 SANoĐã ban hành
(TUAG)- Tối ngày 22/11, tại Công trường Trưng Nữ Vương - TP. Long Xuyên đã diễn ra đêm thi diễn và trao giải vòng Chung kết xếp hạng của Hội thi Giọng hát hay tỉnh An Giang năm 2023. Đến dự buổi thi diễn và trao giải có ông Nguyễn Khánh Hiệp - Tỉnh uỷ viên, Giám đốc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Trưởng Ban Tổ chức Hội thi; lãnh đạo các sở, ban, ngành của tỉnh; trưởng, phó phòng, đơn vị trực thuộc Sở và đông đảo khán giả.

Các thí sinh chụp ảnh lưu niệm cùng Ban Giám khảo

Hội thi Giọng hát hay tỉnh An Giang năm 2023 được tổ chức phát động từ tháng 9/2023 với 3 vòng thi. Vòng 1 (sơ khảo) được tổ chức tại Trung tâm Văn hoá, Thể thao các huyện/thị xã/thành phố trong tỉnh và tại Trung tâm Văn hoá Nghệ thuật tỉnh với sự tham dự của hơn 300 thí sinh. Vòng 2 (chung kết) diễn ra từ ngày 11 đến ngày 13/11/2023 tại Công trường Trưng Nữ Vương với sự tham dự của 86 thí sinh (30 thí sinh tự do và 56 thí sinh của các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh) được tuyển chọn từ vòng sơ khảo. Vòng 3 (chung kết xếp hạng) diễn ra tối ngày 22/11/2023 tại Công trường Trưng Nữ Vương với sự tham dự của 21 thí sinh được tuyển chọn từ vòng chung kết.


Phần thi của thí sinh Quán quân Hội thi (giải Nhất) Trần Tố Uyên

Kết thúc phần thi chung kết xếp hạng, Quán quân Hội thi (giải Nhất) thuộc về thí sinh Trần Tố Uyên (TP. Châu Đốc), 2 Á quân (giải Nhì) thuộc về thí sinh Lê Hữu Tuấn (thí sinh tự do) và thí sinh Võ Hữu Chí (TX. Tịnh Biên), 3 giải Ba thuộc về các thí sinh: Lê Thị Kim Ngân (Châu Phú), Lê Thùy Linh (Châu Đốc) và Trần Tấn Tài (An Phú). Bên cạnh đó, Ban Tổ chức còn trao 15 giải Khuyến khích cho các thí sinh tại vòng Chung kết xếp hạng.


Ban Tổ chức trao giải Quán quân (giải Nhất), Á quân (giải Nhì) và Ba cho các thí sinh

Với truyền thống nhiều năm liền phát hiện ra những gương mặt mới, những giọng ca chất lượng đóng góp cho nền văn hoá nghệ thuật tỉnh nhà, Hội thi Giọng hát hay tỉnh An Giang năm 2023 lần này không chỉ tạo được sự hân hoan phấn khởi cho Nhân dân trong tỉnh, mà còn là sự kiện văn hoá nghệ thuật thiết thực chào mừng kỷ niệm 191 ngày truyền thống thảnh lập tỉnh An Giang (22/11/1832 - 22/11/2023).
Lê Quang Trạng
An Giang 191 năm - từ độ mang gươm đi mở cõiAn Giang 190 nămBài viếtAn BìnhAn Giang 191 năm - từ độ mang gươm đi mở cõi/SiteAssets/Ngay-truyenthong-ag.jpg
22/11/2023 10:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Trong thế kỷ XVIII, XIX, việc khai khẩn đất đai ở An Giang nói riêng cũng như vùng đất phía Tây Nam Bộ ngày nay nói chung chủ yếu dưới hình thức người dân lưu tán từ miền Trung vào tự khẩn hoang hoặc binh lính của Nhà Nguyễn khai phá ở những khu vực đồn trú và mộ dân khẩn hoang lập ấp, lập đồn điền. Tuy nhiên, so với các vùng đất khác ở Nam Bộ, dù Chúa Nguyễn đã xác lập chủ quyền từ năm 1757 nhưng công cuộc khai phá trên địa bàn An Giang thật sự được ghi nhận sau khi Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định từ nhà Tây Sơn cuối năm 1788.


Lịch sử hình thành vùng đất An Giang ghi nhận một sự kiện quan trọng là năm Đinh Sửu (1757), quốc vương Chân Lạp là Nặc Tôn đã dâng đất Tầm Phong Long (vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, ngày nay có một phần thuộc An Giang) cho chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát để đền ơn giúp giành lại vương triều. Chúa Nguyễn cử Nguyễn Cư Trinh tiếp nhận đất Tầm Phong Long, cho lệ vào dinh Long Hồ và đặt thành 3 đạo gồm: Xứ Sa Đéc đặt thành đạo Đông Khẩu, xứ Cù Lao Giêng đặt làm đạo Tân Châu, xứ Châu Đốc làm đạo Châu Đốc, rồi lấy binh dinh Long Hồ đến gìn giữ nơi địa đầu trọng yếu ấy. Đạo Châu Đốc khi ấy chỉ là một cứ điểm phòng thủ nơi biên thùy, còn nhiều đất bỏ hoang. Cư dân sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng, đánh bắt cá, tôm và một số nghề thủ công truyền thống. Đầu đời Gia Long mộ dân đến ở gọi là Châu Đốc tân cương. Các Chúa Nguyễn về sau cũng tiếp tục khuyến khích việc khẩn hoang ở vùng đất xa xôi này nhằm bảo vệ biên cương bờ cõi. Và cũng chính từ thời điểm 1757, vùng đất sau cùng của Nam Bộ (một phần là An Giang ngày nay) đã trở thành một bộ phận không thể chia cắt được của nước Việt Nam về mặt pháp lý.

Từ thời thuộc Chân Lạp cho đến tận đầu nhà Nguyễn, đất An Giang còn hoang hóa, rất ít dân cư. Những người Việt đầu tiên đến đất An Giang có nhiều thành phần khác nhau: họ là những người nghèo khổ từ miền Trung vào Nam kiếm sống; những người có nhiều tiền, của ở đất Thuận Hóa (Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi...) được Chúa Nguyễn chiêu mộ vào khẩn hoang lập ấp, thuê mướn tá điền... hình thành tầng lớp quan lại, địa chủ đặc quyền, đặc lợi; những người mắc tội lưu đày, khi mãn hạn ở lại làm ăn, lập gia đình; binh lính đồn trú; các nhóm tín đồ đạo Thiên Chúa; sự pha trộn giữa người Việt với các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa.

Năm Mậu Thìn 1808, vua Gia Long đã đổi dinh thành trấn. Cả vùng đất Gia Định, gọi là Gia Định thành (nay là Nam Bộ) chia làm 5 trấn: Phiên An, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Tỉnh An Giang lúc bấy giờ thuộc trấn Vĩnh Thanh.

 Để thực hiện chính sách Trung ương tập quyền, xóa bỏ các quyền lực các Tổng trấn Bắc Thành và Tổng trấn Gia Định thành, từ năm 1831 vua Minh Mạng cho thành lập các tỉnh phía Bắc từ Lạng Sơn đến Quảng Trị xóa bỏ chức Tổng trấn Bắc thành. Ở Nam Bộ do Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt còn đương chức chưa thực hiện được, đến tháng 7 năm 1832, Lê Văn Duyệt qua đời. Trong buổi thiết triều, thông qua đề xuất của Bộ Lại, vua Minh Mạng quyết định xóa Gia Định thành và 5 trấn, cho chủ trương thành lập 12 tỉnh từ Quảng Nam vào Nam Bộ trong đó có tỉnh An Giang. Đây là một đợt cải cách hành chính lớn thời Minh Mạng.

Sách Đại Nam nhất thống chí viết về An Giang như sau: "Xưa là đất Tầm Phong Long, năm Đinh Sửu (1757) đời Thế Tông thứ 19, quốc vương Chân Lạp Nặc Tôn dâng đất nầy, đặt làm đạo Châu Đốc, vì đất ấy có nhiều chỗ bỏ hoang, đầu đời Gia Long mộ dân đến ở, gọi là Châu Đốc Tân Cương, đặt quảng đạo, lệ vào tỉnh Vĩnh Long. Năm Minh Mệnh thứ 13, lấy đất này cùng với huyện Vĩnh An tỉnh Vĩnh Long đặt làm hai phủ Tuy Biên và Tân Thành, đặt bốn huyện là Tây Xuyên và Phong Phú, Đông Xuyên và Vĩnh An (Tây Xuyên và Phong Phú thuộc phủ Tuy Biên; Đông Xuyên và Vĩnh An thuộc phủ Tân Thành), lập tỉnh An Giang, đặt chức An Hà tổng đốc, thống lãnh hai tỉnh An Giang và Hà Tiên". Địa bàn tỉnh An Giang thời bấy giờ rất rộng, tương ứng với An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng và một phần tỉnh Đồng Tháp ngày nay.

Sách Đại Nam Thực Lục viết: Nhâm thìn, năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), mùa đông tháng 10, ngày mồng 1: "Một hạt Gia Định gần thì liền đất với Chân Lạp là thuộc quốc, xa thì lân cận với Xiêm La là láng giềng, mà đất Châu Đốc lại là nơi rất xung yếu. Nhưng dân cư chưa được đông đúc, địa lợi chưa được mở mang, gần đấy, có Vĩnh Long, đất rộng, dân giàu, hơn cả mọi hạt. Vậy xin tách lấy 2 huyện Vĩnh An và Vĩnh Định thuộc Vĩnh Long, gộp với đất Châu Đốc, lập làm tỉnh An Giang; đặt một viên Tổng đốc đại thần kiêm lĩnh quả ấn bảo hộ nước Chân Lạp. Phàm các công việc vỗ về người xa, phòng ngừa giặc ngoài đều giao cho cả…Tỉnh An Giang: thống trị 2 phủ Tân Thành, Tuy Biên và 4 huyện Vĩnh An, Vĩnh Định, Đông Xuyên, Tây Xuyên. Nguyên đất Châu Đốc và lấy 2 huyện Vĩnh An, Vĩnh Định, ở phủ Định Viễn thuộc Vĩnh Long đổi làm tỉnh An Giang ở mé đông sông Hậu Giang đặt huyện Đông Xuyên, lấy những thôn ấp mới lập đặt làm 1 tổng, lại lấy 2  tổng thuộc huyện Vĩnh Định cho lệ thuộc vào. Ở mé tây sông Hậu Giang đặt huyện Tây Xuyên, trích lấy 4 tổng huyện Vĩnh An cho lệ thuộc vào. Lấy 2 huyện Đông Xuyên, Tây Xuyên đặt làm phủ Tuy Biên; 2 huyện Vĩnh An, Vĩnh Định đặt làm phủ Tân Thành".

Như vậy, đến tháng 10/1832 thì 5 trấn của Gia Định thành trở thành 6 tỉnh, được gọi là Nam Kỳ lục tỉnh, gồm Biên Hòa, Gia Định, Định Tường (3 tỉnh miền đông) và Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên (3 tỉnh miền tây). Tỉnh An Giang lúc bấy giờ bao gồm 2 phủ, 4 huyện. Lỵ sở của tỉnh đặt tại Châu Đốc, nơi Tổng đốc An Hà trú đóng cai quản hai tỉnh An Giang, Hà Tiên.

Năm 1835, vua Minh Mạng cho lấy đất Ba Thắc đặt thêm phủ Ba Xuyên, đặt hai huyện Phong Nhiêu, Phong Thạnh và lấy huyện Vĩnh Định tỉnh Vĩnh Long nhập vào tỉnh An Giang.

Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), vua cho đạc điền lập địa bạ cả Nam Kỳ lục tỉnh. Địa bạ An Giang lần đầu tiên được xác lập ngày mùng 3 tháng 6 năm 1836, ghi nhận lúc bấy giờ có 2 phủ, 4 huyện, 18 tổng, 167 làng. Đến thời vua Tự Đức, sau nhiều lần tách nhập, thêm phủ, huyện, An Giang có 3 phủ, 10 huyện.

Từ sau khi triều đình Huế ký Hiệp ước Giáp Tuất (1862), giao 3 tỉnh miền Đông cho Pháp, thực dân Pháp bắt đầu thiết lập bộ máy cai trị của thực dân. Sau khi chiếm trọn 6 tỉnh Nam Kỳ (tháng 6/1867), ngày 16/8/1867, Pháp chia 6 tỉnh trở thành 24 đơn vị hành chính mới gọi là hạt thanh tra, đứng đầu mỗi hạt thanh tra là viên "Thanh tra công việc nội chính bản xứ". Tỉnh An Giang (của Nam Kỳ lục tỉnh) chia thành 3 hạt thanh tra (Châu Đốc, Sa Đéc, Sóc Trăng).

Ngày 22/6/1867, thực dân Pháp chiếm thành Châu Đốc, mở đầu quá trình thống trị An Giang. Sau nhiều lần thay đổi, theo Nghị định ngày 05/01/1876, cả Nam Kỳ được chia làm 4 khu vực hành chính là Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bassac. Mỗi khu vực hành chính lại chia thành nhiều tiểu khu còn gọi là hạt tham biện. Khu vực Bassac chia thành 6 hạt tham biện là Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Trà Ôn (khi mới lập, sau đó đổi thành Cần Thơ), Sóc Trăng. Địa bàn An Giang ngày nay nằm trên 2 hạt Châu Đốc và Long Xuyên.

Ngày 20/12/1899, toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ra Nghị định đổi hạt tham biện thành tỉnh, có hiệu lực từ ngày 01/01/1900. Như vậy, tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc xuất hiện đồng thời, từ sau ngày 01/01/1900. Đứng đầu mỗi tỉnh là viên chủ tỉnh.

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp tấn công Nam Bộ, chính thức tái xâm lược Việt Nam. Để đánh lừa dư luận, che giấu bộ mặt thực dân, Pháp lập ra các chính quyền tay sai (chính phủ Nam Kỳ tự trị, chính phủ quốc gia Việt Nam). Tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc được chính quyền tay sai thực dân Pháp duy trì đến hết năm 1954.


Pháp thua trận, đế quốc Mỹ nhảy vào thay thế, lập chính phủ tay sai Việt Nam Cộng hòa, do Ngô Đình Diệm đứng đầu. Sau thời gian đánh đuổi các thế lực thân Pháp, củng cố thế lực, ngày 22/10/1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN phân chia địa phận Nam Việt Nam gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Trong đó tỉnh An Giang (tỉnh lỵ Long Xuyên) bao gồm tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc cũ. Đến ngày 8/9/1964, chính quyền Sài Gòn ra Sắc lệnh số 246/NV, tỉnh An Giang được tách làm 2 tỉnh: tỉnh Châu Đốc và tỉnh An Giang. Như vậy, tỉnh Long Xuyên trong thời thuộc Pháp được đặt lại tên tỉnh An Giang cho đến 30/4/1975.

Về phía cách mạng, trong kháng chiến chống Pháp, do yêu cầu của chiến trường, Ủy ban Kháng chiến - Hành chính Nam Bộ ra chỉ thị số 50/CT (ngày 12/9/1947) phân chia lại địa giới hai tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc thành hai tỉnh mới là Long Châu Tiền (thuộc Khu 8) và Long Châu Hậu (thuộc Khu 9). Tháng 10/1950, Thủ tướng chính phủ chấp thuận đề nghị của Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam bộ sáp nhập hai tỉnh Long Châu Hậu và Hà Tiên (gồm cả Phú Quốc) thành tỉnh Long Châu Hà.

Thời chống Mỹ, Xứ ủy Nam Bộ lập lại 2 tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên. Giữa năm 1957, Xứ ủy lại hợp nhất tỉnh Long Xuyên, tỉnh Châu Đốc thành tỉnh An Giang (thuộc Khu 8). Tháng 8/1971, thực hiện yêu cầu của Trung ương cục, An Giang chia thành 2 tỉnh: An Giang (thuộc Khu 8) và Châu Hà (thuộc Khu 9). Thị xã Long Xuyên và Châu Đốc đều thuộc về tỉnh An Giang. Tháng 5/1974, Trung ương cục phân chia lại địa bàn các tỉnh An Giang, Châu Hà và Kiến Phong chuyển thành 2 tỉnh Long Châu Tiền và Long Châu Hà. Cả thị xã Long Xuyên và Châu Đốc đều thuộc tỉnh Long Châu Hà thuộc Khu 9.

Sau khi giải phóng miền Nam, ngày 20/12/1975 Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 19/NQ-TW thành lập tỉnh An Giang bao gồm 2 tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc cũ, trừ huyện Thốt Nốt. Tỉnh An Giang lúc này có 8 quận và 84 xã. Tháng 02 năm 1976, Nghị định của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam giải thể khu hợp nhất tỉnh, bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp và lấy lại danh xưng "huyện"; "quận" và "phường" dành cho các đơn vị tương xứng với huyện và xã khi đã đô thị hóa. Miền Nam có 21 đơn vị hành chính cấp tỉnh thuộc Trung ương. Tỉnh An Giang có 10 huyện, thị là: Châu Thành, Huệ Đức, Chợ Mới, Phú Tân, Châu Phú, Phú Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên, thị xã Long Xuyên và thị xã Châu Đốc.

Suốt chiều dài lịch sử khai phá vùng đất An Giang trong buổi đầu mở mang bờ cõi đến nay là vùng đất biên thùy trọng yếu ở về phía Tây Nam của Tổ quốc. Quá trình khẩn hoang, khai phá vùng đất An Giang luôn gắn liền các cuộc chiến tranh chống các kẻ thù xâm lược. Con người An Giang có truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất chống ngoại xâm. Trong suốt chiều dài lịch sử từ khi có Đảng, Nhân dân An Giang luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin theo con đường cách mạng. An Giang tự hào là một trong số tỉnh ở Nam Bộ sớm có các tổ chức tiền thân của Đảng và các cơ sở Đảng. Cuối năm 1927, Chi bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu tiên của tỉnh Long Xuyên ra đời tại huyện Chợ Mới. Tháng 2/1928, Tỉnh bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh Long Xuyên được thành lập. Tháng 4/1930, Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở An Giang được thành lập tại xã Long Điền, Chợ Mới đã tổ chức treo lá cờ Đảng Cộng sản đầu tiên trên Cột dây thép ở ấp Long Thuận, xã Long Điền. Kể từ đó, nhiều cơ sở Đảng trong tỉnh ra đời và ngày càng lớn mạnh, đã lãnh đạo Đảng bộ, chính quyền và nhân dân An Giang viết nên những trang sử hào hùng, vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ cứu nước, bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam của Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế giúp nước bạn Campuchia.

Kế thừa, phát huy truyền thống và những thành tựu đạt được trong thời gian qua, An Giang xác định mục tiêu đến năm 2030 là tỉnh phát triển khá trong vùng đồng bằng sông Cửu Long; có kinh tế phát triển năng động, hài hòa và bền vững; là trung tâm nghiên cứu phát triển giống và sản xuất nông nghiệp, thủy sản, dược liệu ứng dụng công nghệ cao; trung tâm du lịch sinh thái của vùng; đầu mối giao thương, hợp tác với Vương quốc Campuchia; Có hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, thích ứng với biến đổi khí hậu; các giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy; quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự an toàn xã hội ổn định; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống của người dân được ấm no, hạnh phúc.

Tầm nhìn đến năm 2050, An Giang là tỉnh phát triển toàn diện, hiện đại, văn minh, sinh thái, bền vững; là đầu mối giao thương hàng hóa, dịch vụ của vùng với thị trường Campuchia và các nước khu vực ASEAN; bản sắc văn hóa thống nhất trong đa dạng của các dân tộc trên địa bàn tỉnh và mang đậm văn hóa sông nước của vùng đất đầu nguồn sông Cửu Long. Quốc phòng, an ninh vững mạnh, trật tự, an toàn xã hội ổn định, người dân có cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc.

Ngay-truyenthong-ag.jpg

Nhìn lại chặng đường lịch sử 191 năm hình thành và phát triển, trong sâu thẳm mỗi người dân An Giang luôn tự hào và mãi mãi ghi ơn những thế hệ cha ông ta đã dày công khai hoang, mở ấp, lập làng; ra sức bảo vệ, xây dựng và phát triển quê hương An Giang ngày càng phồn vinh, tươi đẹp như ngày nay. Chúng ta càng trân trọng, gìn giữ, phát huy những giá trị tốt đẹp về lịch sử truyền thống và con người An Giang; tự hào vị trí quan trọng và những đóng góp của An Giang trong tiến trình phát triển của đất nước; qua đó, khơi dậy lòng tự hào của mỗi người dân An Giang, quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh, xứng tầm với công sức khai mở, vun bồi của của những bậc tiền nhân.

AN BÌNH

Hướng đến kỷ niệm 191 năm Ngày Truyền thống tỉnh An Giang (22/11/1832 -22/11/2023)An Giang 190 nămTinNguyễn HảoHướng đến kỷ niệm 191 năm Ngày Truyền thống tỉnh An Giang (22/11/1832 -22/11/2023)/SiteAssets/191-nam-thanhlaptinh-ag-1.jpg
21/11/2023 3:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Theo sách “Đại Nam thực lục chính biên” ghi nhận 191 năm trước, vào ngày mùng 1 tháng 10 năm Nhâm Thìn (1832), nhằm ngày 22/11/1832 (dương lịch), năm Minh Mệnh thứ 13, trong buổi thiết triều, sau khi nghe Bộ Lại trình tấu, vua Minh Mệnh đã chỉ dụ bãi bỏ Gia Định Thành, đổi “Ngũ trấn” thành “Lục tỉnh”, quyết định thành lập 12 tỉnh từ Quảng Nam đến Hà Tiên cùng thời điểm, trong đó có tỉnh An Giang.

Ngày 21/11/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 1447/QĐ-TTg lấy ngày 22/11 hằng năm là Ngày Truyền thống tỉnh An Giang.

191-nam-thanhlaptinh-ag-1.jpg

Hướng đến Kỷ niệm 191 năm Ngày Truyền thống tỉnh An Giang (22/11/1832 -22/11/2023), Tỉnh ủy An Giang đã ban hành Công văn số 992-CV/TU ngày 16/11/2023 về việc kỷ niệm 191 năm Ngày thành lập tỉnh An Giang (1832-2023).

Theo đó, Thường trực Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban, sở, ngành, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong Tỉnh đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục trong toàn thể cán bộ, đảng viên và Nhân dân về kỷ niệm 191 năm thành lập tỉnh An Giang (22/11/1832-22/11/2023), tuyên truyền về quá trình hình thành, xây dựng và phát triển tỉnh An Giang; về truyền thống lịch sử, văn hóa, con người An Giang; những đóng góp của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân của Tỉnh trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, trong sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... nhằm khơi dậy khát vọng phát triển, phát huy tinh thần đoàn kết, chung sức đồng lòng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 và các năm tiếp theo.

191-nam-thanhlaptinh-ag-2.jpg

 Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo việc đồng loạt treo cờ Tổ quốc tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, cơ quan đảng, đoàn thể, các doanh nghiệp, cơ sở kinh tế, trường học, công ty, xí nghiệp, hộ dân... trên địa bàn Tỉnh trong ngày 22/11/2023 để chào mừng 191 năm thành lập Tỉnh.

191-nam-thanhlaptinh-ag-3.jpg

Trải qua lịch sử 191 năm hình thành và phát triển, vùng đất và con người An Giang đã không ngừng bồi đắp và làm phong phú thêm những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc... Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân An Giang sẽ tiếp tục phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa, truyền thống yêu nước, đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường; chung sức, đồng lòng xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, xây dựng An Giang - quê hương Chủ tịch Tôn Đức Thắng kính mến ngày càng giàu đẹp, văn minh./.

Nguồn: Công văn 992-CV/TU ngày 16/11/2023

Nguyễn Hảo

Tự hào truyền thống quê hương An GiangAn Giang 190 nămBài viếtTTCTTTTự hào truyền thống quê hương An Giang/SiteAssets/AG-190-2023-1.jpg
17/11/2023 11:30 SANoĐã ban hành

(TUAG)- An Giang - vùng đất mới và còn rất trẻ so với các vùng khác của đất nước. Nếu tính từ khi vùng đất này thuộc quyền cai quản của nhà Nguyễn thì đến nay chưa đầy ba thế kỷ. Tỉnh An Giang chính thức được ghi vào hệ thống hành chính năm 1832 nằm trong lục tỉnh: Gia Định - Biên Hòa - Định Tường - Vĩnh Long - Hà Tiên và An Giang. Trải qua chặng đường lịch sử 191 năm hình thành và phát triển, An Giang không ngừng phát triển về mọi mặt, đóng góp xứng đáng vào trang sử hào hùng của dân tộc và những thành tựu phát triển chung của đất nước.

AG-190-2023-2.jpg

Là nơi địa đầu biên giới Tây Nam, đón nhận dòng Mê Kông hùng vĩ chảy vào Việt Nam, An Giang đã chứng kiến nhiều biến động lịch sử quan trọng. Từng là trung tâm của nền văn hóa Óc Eo xưa, An Giang hiện nay là một trong bốn tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Trải qua lịch sử 191 năm hình thành và phát triển, vùng đất và con người An Giang đã không ngừng bồi đắp và làm phong phú thêm những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, miệt mài sáng tạo những thành quả mới để khẳng định vị thế trên bản đồ đất nước. Đó là một hành trình xây đắp và kiến tạo để từng bước hiện thực hóa mục tiêu trở thành tỉnh có quy mô nền kinh tế thuộc nhóm đầu của khu vực ĐBSCL và cao hơn mức trung bình của cả nước.

Lịch sử hình thành vùng đất An Giang ghi nhận một sự kiện quan trọng là năm Đinh Sửu (1757), quốc vương Chân Lạp là Nặc Tôn đã dâng đất Tầm Phong Long (vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, ngày nay có một phần thuộc An Giang) cho chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát để đền ơn cứu giúp trong lúc hoạn nạn và giúp giành lại vương triều. Chúa Nguyễn cử Nguyễn Cư Trinh tiếp nhận đất Tầm Phong Long, cho lệ vào dinh Long Hồ và đặt thành 3 đạo gồm: Xứ Sa Đéc đặt thành đạo Đông Khẩu, xứ Cù Lao Giêng đặt làm đạo Tân Châu, xứ Châu Đốc làm đạo Châu Đốc, rồi lấy binh dinh Long Hồ đến gìn giữ nơi địa đầu trọng yếu ấy. Từ thời điểm năm 1757, vùng đất sau cùng của Nam Bộ (một phần là An Giang ngày nay) đã trở thành một bộ phận không thể chia cắt được của nước Việt Nam về mặt pháp lý.

Với ý nghĩa là vùng đất có những dòng sông hiền hòa và an bình, tên gọi An Giang ra đời vào năm 1832, khi vua Minh Mệnh (1791 - 1841) quyết định đổi Ngũ trấn thành Lục tỉnh ở Nam Kỳ. Sách “Đại Nam thực lục chính biên” ghi nhận 191 năm trước, vào ngày mùng 1 tháng 10 năm Nhâm Thìn (1832), năm Minh Mệnh thứ 13, trong buổi thiết triều, sau khi nghe Bộ Lại trình tấu, vua Minh Mệnh đã chỉ dụ bãi bỏ Gia Định Thành, đổi “Ngũ trấn” thành “Lục tỉnh”, quyết định thành lập 12 tỉnh từ Quảng Nam đến Hà Tiên cùng thời điểm, trong đó có tỉnh An Giang. Đối chiếu với lịch vạn niên, ngày mùng 1 tháng 10 năm 1832 nhằm ngày 22/11/1832 (dương lịch).

TC-kinhte-bienmau-23-1.jpg

Xuyên suốt chiều dài lịch sử khai phá vùng đất An Giang trong buổi đầu mở mang bờ cõi đến nay là vùng đất biên thùy trọng yếu ở phía Tây Nam của Tổ quốc. Quá trình khẩn hoang, khai phá vùng đất An Giang luôn gắn liền các cuộc chiến tranh chống các kẻ thù xâm lược. Con người An Giang có truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất chống ngoại xâm. Trong suốt chiều dài lịch sử từ khi có Đảng, Nhân dân An Giang luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin theo con đường cách mạng. An Giang tự hào là một trong số tỉnh ở Nam Bộ sớm có các tổ chức tiền thân của Đảng và các cơ sở đảng. Cuối năm 1927, Chi bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu tiên của tỉnh Long Xuyên ra đời tại huyện Chợ Mới. Tháng 2/1928, Tỉnh bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh Long Xuyên được thành lập. Tháng 4/1930, Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở An Giang được thành lập tại xã Long Điền, huyện Chợ Mới đã tổ chức treo lá cờ Đảng Cộng sản đầu tiên trên Cột dây thép ở ấp Long Thuận, xã Long Điền. Kể từ đó, nhiều cơ sở đảng trong tỉnh ra đời và ngày càng lớn mạnh, đã lãnh đạo Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang viết nên những trang sử hào hùng, vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cứu nước, bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam của Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế giúp nước bạn Campuchia và đạt những thành tựu to lớn, đáng tự hào trong hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.

An Giang có những đặc trưng riêng biệt, vừa có đồng bằng, rừng núi, tài nguyên khoáng sản, những di tích lịch sử lâu đời mang dấu ấn của một nền văn hóa lúa nước cổ xưa. An Giang còn là nơi có nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, sông nước mênh mông, ruộng đồng bát ngát, núi non kỳ vĩ, rừng tràm xanh ngắt một màu và từ lâu đã là một xứ sở trù phú về nông nghiệp và thủy sản... Bức tranh sơn thủy ấy tạo nên cảnh thiên nhiên kỳ vỹ, hội tụ trong không gian văn hóa độc đáo. Thiên nhiên và con người ở An Giang không chỉ mang những nét đặc trưng của miền Tây Nam Bộ mà còn có những vẻ đẹp riêng biệt của mình. Tất cả đã hội tụ ở đất An Giang, tạo nên một mảnh đất bình dị, đơn sơ và mộc mạc không lẫn với bất kỳ nơi đâu.

Là tỉnh đa dân tộc, đa tôn giáo, nơi khởi nguồn của Phật giáo Hòa Hảo, Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Các dân tộc Kinh, Hoa, Chăm, Khmer,... cùng chung sống hòa thuận lâu đời, từ đó hình thành những giá trị văn hóa phong phú, với nhiều lễ hội dân gian, các làng nghề truyền thống và các công trình kiến trúc độc đáo. Tính đa dạng về văn hóa là một trong những thế mạnh của hệ giá trị sinh thái nhân văn, tạo nên nét đẹp rất riêng của nền văn hóa tâm linh địa phương và của từng dân tộc tại An Giang.

AG-190-2023-1.jpg

An Giang tự hào là địa phương có bề dày lịch sử, giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, là vùng đất địa linh, nhân kiệt, quê hương của Chủ tịch Tôn Đức Thắng - Người Cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo mẫu mực, người bạn chiến đấu thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người chiến sĩ trung thành của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, xuyên suốt chặng đường 191 năm hình thành và phát triển, người dân An Giang luôn anh dũng, kiên cường trong kháng chiến; cần cù, sáng tạo trong lao động; đoàn kết, nhân ái, giản dị, thủy chung trong cuộc sống. Tính chất phát, cần cù, chịu khó và luôn sống có nghĩa, có tình đã tạo nên một đặc trưng rất riêng của con người An Giang.   

Nhìn lại chặng đường lịch sử 191 năm qua, trong sâu thẳm mỗi người dân An Giang luôn tự hào và mãi mãi ghi ơn những thế hệ tiền nhân khai khẩn, bảo vệ, xây dựng và phát triển vùng đất An Giang tươi đẹp như ngày nay. Những thành tựu tỉnh An Giang đạt được trong thời gian qua là kết tinh của truyền thống yêu nước, đoàn kết, cần cù, sáng tạo và quyết tâm của cả hệ thống chính trị và sự đoàn kết, nỗ lực to lớn của các tầng lớp nhân dân.

Để ghi nhận, biểu dương những thành tích xuất sắc của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang đạt được trong suốt chặng đường lịch sử vừa qua, Đảng và Nhà nước đã quyết định trao tặng cho tỉnh An Giang nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao Vàng; Huân chương Lao động hạng Nhất, Nhì, Ba; Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; 632 Mẹ được phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”; 12 tập thể và cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới; 109 tập thể và cá nhân được phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều phần thưởng cao quý khác,... Ngày 21/11/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 1447/QĐ-TTg lấy ngày 22/11 hằng năm là Ngày truyền thống tỉnh An Giang.

Với bề dày lịch sử, truyền thống cách mạng kiên cường, suốt chặng đường lịch sử 191 năm hình thành và phát triển, với niềm tin và khát vọng về quê hương giàu mạnh, Nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân An Giang sẽ tiếp tục phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường, đoàn kết, đổi mới, năng động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, quyết tâm xây dựng quê hương Chủ tịch Tôn Đức Thắng ngày càng văn minh, giàu đẹp; xứng tầm với công sức khai mở, vun bồi của những bậc tiền nhân.

NGUYỄN HỮU THỊNH

Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

An Giang là tỉnh phát triển toàn diện, hiện đại, văn minh, sinh thái, bền vữngTinH.TAn Giang là tỉnh phát triển toàn diện, hiện đại, văn minh, sinh thái, bền vững/SiteAssets/Vannghe-190namag.jpg
15/11/2023 5:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Ngày 15/11/2023, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định số 1369/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Vannghe-190namag.jpg

Đến năm 2030, An Giang là tỉnh phát triển khá trong vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Mục tiêu đến năm 2030 An Giang là tỉnh phát triển khá trong vùng đồng bằng sông Cửu Long; có kinh tế phát triển năng động, hài hòa và bền vững; là trung tâm nghiên cứu phát triển giống và sản xuất nông nghiệp, thủy sản, dược liệu ứng dụng công nghệ cao; trung tâm du lịch sinh thái của vùng; đầu mối giao thương, hợp tác với Vương quốc Campuchia; có hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, thích ứng với biến đổi khí hậu; các giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy; quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự an toàn xã hội ổn định; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống của người dân được ấm no, hạnh phúc.

Về kinh tế, An Giang phấn đấu đến năm 2030 tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân 7%/năm. Tỷ trọng trong GRDP của khu vực nông, lâm, thủy sản khoảng 20,0%; khu vực công nghiệp - xây dựng khoảng 25,0%; khu vực dịch vụ khoảng 50,0%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm khoảng 5,0%.

GRDP bình quân đầu người (giá hiện hành) đạt trên 157 triệu đồng. Kinh tế số đạt trên 20% GRDP.

Về xã hội, dân số tăng bình quân 0,9%/năm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 80%, trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ là 39%. Tỷ lệ đô thị hóa trên 50%.

Tầm nhìn đến năm 2050, An Giang là tỉnh phát triển toàn diện, hiện đại, văn minh, sinh thái, bền vững; là đầu mối giao thương hàng hóa, dịch vụ của vùng với thị trường Campuchia và các nước khu vực ASEAN; bản sắc văn hóa thống nhất trong đa dạng của các dân tộc trên địa bàn tỉnh và mang đậm văn hóa sông nước của vùng đất đầu nguồn sông Cửu Long. Quốc phòng, an ninh vững mạnh, trật tự, an toàn xã hội ổn định, người dân có cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc.

An Giang đổi mới tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp

Về phương hướng phát triển, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản sẽ đổi mới tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp, ứng dụng công nghệ cao theo chuỗi giá trị, hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm. Tập trung phát triển 03 nhóm sản phẩm chủ lực hiện có gồm: lúa gạo; cá tra; rau màu, cây ăn trái và 02 nhóm sản phẩm mới phù hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh gồm: chăn nuôi bò và nấm ăn, nấm dược liệu. Chú trọng, nghiên cứu phát triển giống nông nghiệp, thủy sản và dược liệu.

Tích tụ ruộng đất, cánh đồng lớn để hình thành các vùng chuyên canh, vùng sản xuất nguyên liệu hàng hóa quy mô lớn, các vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Phát triển các vùng chăn nuôi tập trung ở xa khu dân cư; khuyến khích các cơ sở chăn nuôi ứng dụng kỹ thuật tiên tiến, bảo đảm an toàn dịch bệnh.

Hình thành các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung, ứng dụng công nghệ cao, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. Khai thác thủy sản gắn với bảo vệ và phục hồi nguồn lợi thủy sản tại địa phương.

Đồng thời, xây dựng trung tâm đầu mối về nông nghiệp gắn với vùng nguyên liệu thủy sản nước ngọt, trái cây, lúa gạo, kết nối với các trung tâm đầu mối nông nghiệp, thủy sản khác của vùng.

Xây dựng các cụm liên kết công nghiệp chuyên ngành chế biến lương thực phẩm

An Giang ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến công nghệ cao, thân thiện môi trường, gắn với vùng nguyên liệu tập trung; phát triển công nghiệp chế tạo phục vụ cho các lĩnh vực nông nghiệp.

Tập trung phát triển vững chắc công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm. Đổi mới, nâng cấp công nghệ cho các ngành chế biến các sản phẩm từ gạo, cá tra. Xây dựng các cụm liên kết công nghiệp chuyên ngành chế biến lương thực, thực phẩm, thúc đẩy tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Bên cạnh đó, An Giang đẩy mạnh phát triển dịch vụ nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ hiện đại, có giá trị gia tăng cao, như logistics, thương mại điện tử, thương mại quốc tế, công nghệ thông tin và truyền thông, du lịch, y tế, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo./.


Hội thi Giọng hát hay tỉnh An Giang năm 2023, chào mừng 191 năm Ngày thành lập tỉnh An Giang (1832-2023)TinNguyễn HảoHội thi Giọng hát hay tỉnh An Giang năm 2023, chào mừng 191 năm Ngày thành lập tỉnh An Giang (1832-2023)/SiteAssets/Hoithi-gianghathay.jpg
16/10/2023 9:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Thực hiện kế hoạch về việc tổ chức các ngày lễ kỷ niệm, sự kiện quan trọng của Tỉnh giai đoạn 2022-2025, thiết thực chào mừng kỷ niệm 191 năm thành lập tỉnh An Giang (1832- 2023). Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng Kế hoạch tổ chức Hội thi “Giọng hát hay” tỉnh An Giang năm 2023.

Hoithi-gianghathay.jpg

Đối tượng tham gia Hội thi là những người có hộ khẩu thường trú hoặc đang học tập, lao động và làm việc trên địa bàn tỉnh An Giang, có độ tuổi từ 16 đến 36 tuổi tính đến tại thời điểm dự thi (theo CCCD hoặc CMND có năm sinh từ ngày 20 tháng 11 năm 1987 đến ngày 20 tháng 11 năm 2007).

Mỗi Trung tâm Văn hoá - Thể thao, Trung tâm Văn hoá, Thể thao và Truyền thanh, Trung tâm Văn hoá, Thể thao và Du lịch; Trung tâm Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Truyền thanh các huyện, thị xã, thành phố (sau đây gọi tắt là Trung tâm Văn hoá Thể thao) thành lập 01 đội ít nhất 05 thi sinh tham dự Hội thi.

Thí sinh tự do trong tỉnh An Giang đăng ký trực tiếp với Ban Tổ chức. Các diễn viên hát thuộc các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp (đang giữ ngạch diễn viên) không được tham gia Hội thi này.

Nội dung tiết mục dự thi là các ca khúc phù hợp với lối sống hiện nay có nội dung lành mạnh, mang thông điệp ý nghĩa. Khuyến khích các thí sinh có tư duy sáng tạo và tự do đổi mới trong phong cách thẩm mỹ và tác phẩm tham gia biểu diễn, góp phần xây dựng văn hóa, nhân cách của lớp trẻ trong cuộc sống hiện nay; Tôn vinh, quảng bá, giới thiệu những nét tiêu biểu, giá trị văn hóa truyền thống, giàu bản sắc của địa phương, dân tộc; Các bài hát bằng tiếng nước ngoài hoặc tiếng dân tộc thiểu số phải có một lần hát bằng Tiếng Việt phổ thông; Chỉ dự thi các tác phẩm đã được phép lưu hành, phong cách biểu diễn không được phản cảm trái với thuần phong mỹ tục và nét đẹp văn hóa của Việt Nam được quy định tại Nghị Định 144/2020 NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính Phủ về hoạt động biểu diễn nghệ thuật.

Hội thi được chia thành 03 vòng gồm vòng Sơ khảo, vòng Chung kết và vòng Chung kết xếp hạng, được biểu diễn dưới hình thức đơn ca tân nhạc. Vòng Sơ khảo dự kiến tổ chức vào lúc 13h00 ngày 4/11/2023 tại sân khấu Trung tâm Văn hóa nghệ thuật tỉnh An Giang. Thời gian đăng ký từ ngày ra thông báo đến hết ngày 25/10/2023. Thông tin liên hệ Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật tỉnh An Giang (số 17, Hai Bà Trưng, phường Mỹ Long, Tp. Long Xuyên, tỉnh An Giang). Số điện thoại: 02963.844.316, email: nghiepvuvhntag@gmailcom; Zalo 0972.433.181 (gặp Quang Trạng).

Hội thi Giọng hát hay tỉnh An Giang năm 2023 là hoạt động văn hóa nghệ thuật chào mừng kỷ niệm 191 năm thành lập tỉnh An Giang (1832-2023). Bên cạnh, nhằm duy trì và phát triển phong trào ca hát trong tỉnh, phát hiện những giọng hát triển vọng, những gương mặt mới trong lĩnh vực ca hát để tham dự các chương trình văn hoá nghệ thuật của tỉnh và các cuộc thi cấp khu vực, toàn quốc.

Hội thi còn là dịp thúc đẩy phong trào văn nghệ quần chúng trong tỉnh phát triển, cập nhật những xu hướng âm nhạc hiện nay, phù hợp với lối sống hiện nay, góp phần nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân trong tỉnh An Giang.

Nguyễn Hảo

Công đoàn An Giang: Sáng tạo, vượt khó, dám nghĩ, dám làm vì người lao độngBài viếtCẩm TúCông đoàn An Giang: Sáng tạo, vượt khó, dám nghĩ, dám làm vì người lao động/SiteAssets/Cong-doan-1nk-qua-2.jpg
27/09/2023 2:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Trước những khó khăn, thách thức do tình hình chung, nhưng trong nhiệm kỳ qua, Công đoàn An Giang đã không ngừng nỗ lực, sáng tạo, dám nghỉ, dám làm, chủ động tham mưu cấp ủy, phối hợp chính quyền triển khai nhiều mô hình mới, cách làm hay, góp phần đạt và vượt 10/10 chỉ tiêu Nghị quyết đại hội đề ra, khẳng định được vai trò, vị thế của mình trong sự phát triển chung của tỉnh nhà.

Cong-doan-1nk-qua-1.jpg

Đồng chí Lê Hồng Quang, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Thiện Phú, Tỉnh ủy viên, Chủ tịch LĐLĐ tỉnh trao tặng túi "An sinh Công đoàn" cho NLĐ bị ảnh hưởng dịch COVID-19.

Vượt khó chăm lo đoàn viên, người lao động.

Công đoàn An Giang đã tiết kiệm chi tiêu và tận dụng tối đa các nguồn tài chính công đoàn (CĐ), chủ động kết nối các nguồn lực xã hội chăm lo, hỗ trợ cho hàng trăm ngàn lượt đoàn viên, người lao động (ĐV, NLĐ). Đặc biệt, Chương trình Tết sum vầy, thăm hỏi, tặng quà cho 400.000 lượt ĐV, NLĐ có hoàn cảnh khó khăn với tổng tiền trên 126 tỷ đồng. Cùng với nguồn hỗ trợ của Chính phủ, Tổng Liên đoàn và nguồn tài chính CĐ đã chăm lo hỗ trợ gần 117.000 lượt ĐV, NLĐ bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, với số tiền trên 200 tỷ đồng.

Luôn quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nữ ĐV, con ĐV, NLĐ có hoàn cảnh khó khăn. Thông qua Học bổng Tôn Đức Thắng, quà Tiếp sức đến trường, Tết Thiếu nhi, Tết Trung thu… đã trao tặng hàng ngàn suất quà với số tiền hàng chục tỷ đồng. Đẩy mạnh ký kết ưu đãi với 182 đơn vị, doanh nghiệp, có trên 248.000 lượt ĐV, NLĐ thụ hưởng lợi ích, với số tiền trên 32 tỷ đồng.

Phối hợp khai trương Tổ chức tài chính quy mô (CEP) tại thành phố Long Xuyên, cùng đó đẩy mạnh triển khai, phát triển nhiều nguồn quỹ khác hỗ trợ cho hàng chục ngàn lượt ĐV, NLĐ, với số tiền trên 570 tỷ đồng, góp phần ổn định đời sống, ngăn ngừa "Tín dụng đen" trong NLĐ.

Nhiều mô hình mới, cách làm sáng tạo đột phá

Chủ tịch Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) tỉnh Nguyễn Thiện Phú cho biết: Trong nhiệm kỳ qua, công đoàn các cấp trong tỉnh đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả hoạt động, thực hiện tốt chức năng tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, chủ động tham mưu cho cấp ủy Đảng, phối hợp chính quyền, các sở, ngành… tổ chức thực hiện tốt các chính sách liên quan đến người lao động như: Tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, an toàn vệ sinh lao động, góp phần đảm bảo đời sống cho người lao động, hạn chế phát sinh các vụ ngừng việc tập thể, đình công trái pháp luật, xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp.

Đặc biệt, triển khai nhiều mô hình mới, cách làm hay mang tính đột phá như: Mô hình 3 An "An toàn, An tâm, An ninh", mô hình "Sát cơ sở, gần công nhân", mô hình "Câu lạc bộ tìm hiểu pháp luật trong công nhân lao động" và nhiều mô hình hiệu quả về tổ chức và hoạt động công đoàn, củng cố, nâng chất hoạt động công đoàn cơ sở, nhất là khu vực ngoài Nhà nước. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền được quan tâm, đội ngũ cán bộ công đoàn ngày càng trưởng thành.

Phong trào thi đua yêu nước có nhiều cải tiến, tích cực tuyên truyền vận động ĐV, NLĐ tham gia Chương trình "75 nghìn sáng kiến - vượt khó, phát triển", Chương trình "01 triệu sáng kiến", phong trào thi đua "Lao động giỏi, lao động sáng tạo"… thu được gần 4.000 công trình, sản phẩm; gần 400 đề tài khoa học,  trên 540.000 giải pháp, sáng kiến làm lợi hàng trăm tỷ đồng, thúc đẩy nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Đặc biệt tham mưu Tỉnh ủy thành lập Giải thưởng Tôn Đức Thắng tỉnh An Giang. Với những thành tích đó, LĐLĐ tỉnh và nhiều tập thể, cá nhân đã được Đảng, Nhà nước, Tổng LĐLĐ Việt Nam và tỉnh tặng nhiều phần thưởng cao quý.

Cong-doan-1nk-qua-2.jpg

Đồng chí Nguyễn Đình Khang, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thăm, tặng quà Tết CNLĐ An Giang

Với những kết quả đạt được, Công đoàn An Giang đã được cấp ủy, Tổng Liên đoàn đánh rất giá cao. Đồng chí Nguyễn Đình Khang, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn LĐVN định hướng: Với tinh thần "Đổi mới - Dân chủ - Đoàn kết - Phát triển", nhiệm kỳ mới các cấp công đoàn An Giang cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ giải pháp trọng tâm theo đúng tinh thần Nghị quyết số 02/NQ-TW của Bộ Chính trị về "Đổi mới tổ chức và hoạt động Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới"; thực hiện tốt chức năng đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng cho ĐV, NLĐ; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp… tổ chức hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước trong công nhân viên chức lao động, góp phần xây dựng quê hương Bác Tôn ngày càng văn minh, giàu đẹp.

Đại hội Công đoàn tỉnh An Giang lần thứ XI, nhiệm kỳ 2023 - 2028 diễn ra từ ngày 28 - 29/9/2023 với 330 đại biểu, đại diện cho 111.258 ĐV, CNVCLĐ toàn tỉnh.  Với phương châm "Đổi mới - Dân chủ - Đoàn kết - Phát triển", Đại hội có nhiệm vụ tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Công đoàn tỉnh An Giang lần thứ X, nhiệm kỳ 2018 - 2023; đề ra phương hướng, nhiệm vụ hoạt động nhiệm kỳ 2023 - 2028. Đồng thời kiểm điểm vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ nhiệm kỳ 2018 - 2023; đóng góp Dự thảo sửa đổi, bổ sung Điều lệ Công đoàn Việt Nam, Văn kiện Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI Công đoàn tỉnh. Đại hội sẽ bầu Ban Chấp hành LĐLĐ tỉnh khóa XI; bầu đoàn đại biểu dự Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam.

CẨM TÚ

 

Dấu ấn chiến thắng Hoạch Lân và Lê Trì hôm nay Bài viếtTrần NhiênDấu ấn chiến thắng Hoạch Lân và Lê Trì hôm nay /SiteAssets/Le-Tri-homnay-1.jpg
17/09/2023 8:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Chắc hẳn trong lòng mỗi người chúng ta, có những vùng đất mà tên gọi và lịch sử không chỉ là một cái tên, mà còn là một ký ức, là một niềm tự hào, mà thời gian không thể làm mờ đi. Một trong những vùng đất đó chính là Lê Trì (huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) nơi từng chứng kiến những trận chiến oai hùng, mưu trí, gan dạ để phá vỡ ấp chiến lược của địch, đưa nhân dân trở về xóm làng, phum sóc.

Khi nhắc đến Lê Trì, không ai có thể không nhớ đến chiến thắng Hoạch Lân - một trận phục kích lịch sử năm 1964 đã trở thành biểu tượng cho tinh thần chiến đấu kiên cường, khao khát giành thắng lợi của quân dân An Giang. Trong nỗi đau, gian khổ và hi sinh, họ đã quyết tâm, đánh bại kẻ thù để bảo vệ vùng đất này.

Le-Tri-homnay-2.jpg

Dấu ấn chiến thắng Hoạch Lân

Giữa những dãy núi cao, gió rít qua những đám cây rừng lúp xúp, vùng đất Lê Trì nằm yên bình dưới chân núi Dài. Nhưng dưới sự yên ả đó, tại địa phương nhỏ bé này đã diễn ra một trận chiến oanh liệt - chiến thắng Hoạch Lân - biểu tượng cho tinh thần kiên cường và khao khát giành thắng lợi của quân dân An Giang.

Địa hình của Lê Trì được bao quanh bởi dãy Núi dài, Núi Cấm và Núi Tượng, tạo nên một cung vòng từ Đông đến Nam và Tây Nam. Nơi đây có sự xen kẽ của các cánh đồng ruộng, các vườn cây ăn trái và những cánh rừng rậm rạp, tạo điều kiện thuận lợi cho du kích ta đi lại và phục kích quân địch. Nhìn lại quá khứ, chúng ta không thể không nhớ đến những ngày tháng đen tối của ấp chiến lược Hoạch Lân. Đó là một cõi ngục tù ác liệt, nơi bọn địch tạo ra những bức tường kẽm gai đáng sợ để chia cắt người dân với nhà cửa, ruộng vườn.

Theo Lịch sử Đảng bộ xã Lê Trì, thì trong những năm 60 của thế kỷ XX, xã Lê Trì có khoảng 3000 đến 5000 dân định cư và sinh sống gồm người Kinh và người Khmer. Nghề nghiệp chính là làm ruộng, làm rẫy, một số làm nghề rừng đốn củi đốt than… Năm 1963, địch xây dựng ấp Chiến lược Hoạch Lân nằm cập theo lộ đất, chiều dài khoảng 1.500m, chiều rộng khoảng 1000m, xung quanh là hàng rào dây kẽm gai, ở hướng quan trọng có đắp bờ đất và nhiều ụ chiến đấu để đề phòng quân ta tấn công. Quân địch bố trí trong ấp chiến lược có một ban tề ấp ( từ 05 đến 7 tên). Hằng đêm huy động bọn dân vệ từ 20 đến 30 tên canh gác bảo vệ, trang bị súng AK 15, Carbinc và lựu đạn. Ban ngày thì chúng cho người dân đi làm ăn, ban đêm gom vào trong ấp. những gia đình này đều được bọn tề xã, tề ấp phân loại để theo dõi khống chế. Cuộc sống của nhân dân trong ấp chiến lược rất cực khổ vì sự kìm kẹp quá gắt gao của bọn địch, ăn ở sinh hoạt chật chội, đi lại khó khăn. Mặt khác địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chủ trương chính sách của cách mạng, gây chia rẻ người Kinh với người Khmer. Do vậy, phía ta gặp nhiều khó khăn trong công tác phát động quần chúng xây dựng cơ sở cách mạng, thu mua lương thực và tác chiến đánh địch ở khu vực này.

Để đối phó với âm mưu thủ đoạn của địch, quân ta đã chủ trương đánh phá kế hoạch bình định nông thôn, phá các ấp chiến lược tạo điều kiện cho quần chúng đấu tranh với địch đòi trở về ruộng vườn cũ làm ăn sinh sống, góp phần đánh bại kế hoạch bình định gom dân kiểu mới của địch. Đầu tháng 9 năm 1964, Ban Chỉ huy tỉnh đội giao cho Tiểu đoàn 364 và các đơn vị trực thuộc của tỉnh nắm bắt tình hình địch ở khu vực Ba Chúc, Lê Trì tiến hành bao vây các đồn bốt địch, phá các ấp chiến lược và đánh bọn địch lấn chiếm triệt phá căn cứ của ta.

Tiểu đoàn 364 Bộ đội Biên phòng An Giang là đơn vị mới được thành lập. Đồng chí Võ Khắc Sương và đồng chí Nguyễn Văn Hơn là cán bộ của Tỉnh đội xuống trực tiếp chỉ huy Tiểu đoàn, với quân số hơn 300 đồng chí, biên chế thành 3 đại đội. Mặc dù là Tiểu đoàn mới được thành lập, nhưng các đại đội đã tham gia nhiều trận chiến đấu nên trình độ, tổ chức chỉ huy của cán bộ có nhiều kinh nghiệm, chiến sĩ được rèn luyện, thử thách nhiều trong chiến đấu cũng như trong công tác.

Sau khi nắm chắc tình hình quân địch, đêm 16/9/1964 Tiểu đoàn quyết định dùng một trung đội của đại đội bộ binh 1 và 2 tiểu đội du kích xã Lê Trì, Ba Chúc bao vây các đồn ở chân núi Tượng. Đại đội bộ binh 2, 2 trung đội của đại đội bộ bình 1 và số đồng chí của Trường quân chính phục kích đánh địch từu Lạc Quới vào cứu viện cho các đồn ở núi Tượng.

Trận vây đồn phục kích đánh quân địch của Tiểu đoàn 364 tại khu vực Ba Chúc, Lê Trì giành thắng lợi to lớn, đánh dấu bước trưởng thành của lực lượng vũ trang địa phương về trình độ chiến thuật, chỉ huy và tác chiến hiệp đồng.  Chiến thắng tại ấp chiến lược Hoạch Lân năm 1964 của quân và dân Lê Trì góp phần thay đổi cán cân quân sự trên địa bàn Bảy Núi nói riêng và chiến trường An Giang nói chung, tạo điều kiện cho nhân dân trong vùng đứng lên đấu tranh với địch, góp phần đánh bại kế hoạch bình định gom dân kiểu mới của đế quốc Mỹ.

Chiến thắng Hoạch Lân thể hiện sáng tạo, thông minh trong việc bố trí trận địa, tấn công địch từ phía ngoài ấp chiến lược Hoạch Lân, làm cho quân địch mất phương hướng, bị hốt hoảng. Trận chiến đấu ngoan cường, quyết liệt đã đánh tan rã đội lính bảo an, đánh tiêu hao lực lượng địch và giành được thắng lợi to lớn. Đó không chỉ là một chiến công đơn thuần trên trường chiến, mà còn là bài học đáng tự hào về tinh thần và khát vọng giành tự do của quân dân An Giang.  Nhìn lại quá khứ, chiến thắng Hoạch Lân đã góp phần to lớn vào việc đánh sập chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm. Đây cũng là bước ngoặt quan trọng tạo điều kiện cho phong trào cách mạng tiếp tục dâng cao, vùng giải phóng mở rộng…

Gần nửa thế kỷ đã trôi qua, chúng tôi trở lại Lê Trì, đứng trên vùng đất ấp chiến lược xưa, những thước phim lịch sử như hiện về, một thời khói lửa, đạn bom, một thời anh dũng, kiên cường… Những con người đã làm nên lịch sử. Vang dội trong tôi lời ca hào hùng: “Đường qua Ba Chúc mênh mông lúa rờn xanh, xôn xao lá ngụy trang. Bờ đề in dấu chân anh giải phóng quân hiên ngang lập chiến công trận đánh Hoạch Lân.  Dù cho mưa rét gian lao, chờ khi chúng kéo qua là anh ôm khẩu A Ka bật lê xáp lá cà. Kèn vang anh thét xung phong, giặc rơi ngã dưới chân. Anh hùng thay anh giải phóng quân, hoa nở chào đón anh. Viện binh do Mỹ chỉ huy. Ngụy quân chẳng dám đi, dại chi vô chốn hiểm nguy, vùi thây đất Lê Trì. Bà con trong xóm đón thăm, ngợi khen chiến công anh. Chị em thân thiết nắm tay, ấm mãi trong lòng… trai” (Chiến thắng Hoạch Lân - Trình Minh).

Và Lê Trì hôm nay…

Chúng tôi về xã Lê Trì vào một ngày giữa mùa thu tháng Tám. Con đường nhựa nối liền từ trung tâm huyện vào xã được rải nhựa phẳng lỳ, hai bên đường dân cư ở đông đúc. Nằm nép mình dưới chân núi Dài “hùng vĩ” nhất trong dãy Thất Sơn, vùng chiến địa xưa nay đã đổi thay rất nhiều. Trong mầu xanh của cây trái, những ngôi nhà đúc khang trang, kiên cố mọc lên ngày càng nhiều, hệ thống điện lưới quốc gia vươn dài theo những triền đồi đến tận các phum sóc, làng ấp xa xôi. Trên các con đường liên ấp, liên sóc đang rộn rã tiếng máy cày, tiếng cười nói của người dân lên đồng lên rẫy, tiếng vui đùa của trẻ thơ cắp sách đến trường trong những bộ áo quần gọn gàng, sạch đẹp. Nhìn cảnh tượng ấy ít ai nghĩ trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nơi đây là nổi kinh hoàng của quân địch, với sự dũng cảm, mưu trí của ‘du kích núi dài” đã làm nên những chiến thắng vang dội như cầu sắt Vĩnh Thông, Hoạch Lân, Bến Bà Tri…  


Hôm nay vùng đất Lê Trì đang hướng tới tương lai. Công viên văn hóa gắn với lịch sử chiến thắng Hoạch Lân và nữ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân  Lê Thị Sy đang được xây dựng, là nơi tôn vinh những chiến công và ghi dấu những câu chuyện hùng tráng của quân và dân Lê Trì. Đó sẽ là không gian thiêng liêng để chúng ta tưởng nhớ những anh hùng đã hy sinh, đồng thời truyền cảm hứng và ý nghĩa về tình yêu quê hương, đất nước cho thế hệ mai sau.

Dưới chân núi Dài hôm nay, Đảng bộ và Nhân dân Lê Trì đang cùng nhau gìn giữ những giá trị văn hóa và lịch sử của quê hương, để vùng đất này luôn mãi xinh đẹp và bình yên. Tuy thời gian trôi đi, nhưng tinh thần bất khuất và tình yêu quê hương sẽ mãi mãi hiện hữu trong lòng mỗi người dân nơi đây.

Đứng ở khu vực trung tâm xã, chỉ tay về phía con đường nhựa dẫn ra huyện, Bí thư Ðảng ủy, chủ tịch UBND xã Nguyễn Hoàng Vĩnh không giấu được niềm vui cho biết: Tuy là một xã đặc biệt khó khăn, nhưng các ngả đường từ xã về trung tâm huyện đều được tráng nhựa phẳng lỳ, muốn đi đường nào cũng được, chẳng còn phải chịu cảnh bụi mù, lầy lội như trước đây. Các đường đi lối lại trong các phum sóc, các ấp của xã cũng được nhựa hóa, với hồ chứa nước Núi Dài 2, rộng 22 ha cơ bản phần nào đảm bảo nước tưới tiêu cho xã. Hệ thống điện, trường học, trạm y tế, thủy lợi, nước sinh hoạt phục vụ dân sinh hiện cũng khá hoàn chỉnh. Lê Trì đang đẩy mạnh phát triển nhà vườn cây ăn trái kết hợp với du lịch sinh thái như Hợp tác xã xoài Bến Bà Tri, tổ hợp tác cây ăn trái Ô Vàng gồm bơ, bưởi, sầu riêng… Điều kiện đó đã tạo động lực cho Lê Trì phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, nhiều hộ gia đình đã vươn lên làm giàu ngay trên mảnh đất của mình.

Vùng đất Lê Trì, nơi đã chứng kiến những trận đánh quyết liệt và chiến thắng lịch sử, ngày nay trở thành một biểu tượng về sự bất khuất và dũng cảm của dân tộc. Các cộng đồng tại đây đã tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng một cộng đồng đoàn kết và giàu mạnh.

“Ðiều đáng phấn khởi là đồng bào Kinh, Khmer ở đây luôn sống đoàn kết và tương thân, tương ái hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng vươn lên xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc ngay dưới chân núi Dài “hùng vĩ”, bao đời nay vẫn đứng sừng sững ôm ấp, che chở sự bình yên cho phum sóc, xóm làng” - Bí thư Nguyễn Hoàng Vĩnh vui mừng nói tiếp.

Nhìn về mạch truyền lịch sử và những bài học quý giá từ quá khứ, người dân Lê Trì hôm nay càng trân trọng và tận dụng mọi cơ hội để phát triển quê hương.

Vĩ thanh

Chiến thắng Hoạch Lân và vùng đất Lê Trì đã giáo dục cho chúng ta một điều quan trọng: giá trị hòa bình. Nhìn về cuộc chiến trong quá khứ, chúng ta nhận ra tầm quan trọng của hòa bình và sự đoàn kết giữa các dân tộc hôm nay. Mỗi ngày, chúng ta cùng vun đắp, xây dựng một cuộc sống yên bình, không bạo lực và gắn kết, để mọi người có cơ hội làm ăn, phát triển.

Chiến thắng Hoạch Lân là những ký ức không thể nào quên trong lòng người dân nơi đây. Nó giữ mãi một vị trí đặc biệt trong trái tim và tâm hồn của họ, là nguồn cảm hứng để họ vượt qua mọi khó khăn, xây dựng quê hương ngày càng yên bình, no ấm.

Vùng đất Lê Trì và chiến thắng Hoạch Lân không chỉ là một trang sử hào hùng trong quá khứ, mà còn là nguồn cảm hứng vô tận cho thế hệ mai sau. Những bài học quý giá về sự dũng cảm, mưu trí và lòng yêu nước đã truyền cảm hứng và lan tỏa qua nhiều thế hệ. Hình ảnh những người anh hùng đã hy sinh trong cuộc chiến tranh để bảo vệ quê hương, làng xóm là nguồn động viên, khích lệ cho các thế hệ trẻ hôm nay tiếp tục vươn lên, kiên trì đối mặt với những thách thức và khó khăn, xây dựng tương lai tươi mới cho vùng đất dưới chân núi Dài yên bình này.

Trần Nhiên

Lễ kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng (20/8/1888 - 20/8/2023)TinNgọc HânLễ kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng (20/8/1888 - 20/8/2023)/SiteAssets/Le-135-Bac-Ton-7a.jpg
19/08/2023 9:00 CHNoĐã ban hành

​(TUAG)- Tối ngày 19/8, tại Quảng trường Hai Bà Trưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh An Giang long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng (20/8/1888 - 20/8/2023).

 Le-135-Bac-Ton-1.jpg

Quang cảnh buổi lễ

Le-135-Bac-Ton-2.jpg

 Lãnh đạo Trung ương, Lãnh đạo tỉnh dự lễ

Dự Lễ kỷ niệm có đồng chí Võ Văn Thưởng, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết; nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang; nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc; nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng; Đại tướng Lê Hồng Anh, nguyên Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng; nguyên Lãnh đạo Đảng, Nhà nước; Lãnh đạo các cơ quan Trung ương; đại diện Lãnh đạo các tỉnh, thành; thân tộc Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh An Giang.

Về phía tỉnh An Giang dự Lễ kỷ niệm có đồng chí Lê Hồng Quang, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang; đồng chí Lê Văn Nưng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang; đồng chí Nguyễn Thanh Bình, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang; Mẹ Việt Nam anh hùng, các đồng chí lão thành Cách mạng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới; Lãnh đạo các sở, ban, ngành tỉnh; nguyên Lãnh đạo tỉnh; Ban Thường vụ Tỉnh ủy An Giang qua các thời kỳ; Lãnh đạo các địa phương trong tỉnh.

Nhân Lễ Kỷ niệm, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang trân trọng đón nhận lẵng hoa chúc mừng của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

 Le-135-Bac-Ton-3.jpg

 Le-135-Bac-Ton-4.jpg

 Le-135-Bac-Ton-5.jpg

Chương trình sân khấu hóa

Chương trình Lễ Kỷ niệm gồm 03 phần chính:Chương trình sân khấu hóa với chủ đề “Chủ tịch Tôn Đức Thắng danh sáng muôn đời”; nghi thức Lễ Kỷ niệm và Chương trình nghệ thuật với chủ đề “An Giang - Khát vọng thăng hoa”.

 Le-135-Bac-Ton-6.jpg

Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang đọc diễn văn Lễ Kỷ niệm

Trình bày Diễn văn Lễ Kỷ niệm, đồng chí Lê Hồng Quang, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang ôn lại cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Chủ tịch Tôn Đức Thắng sinh vào ngày 20/8/1888 tại Cù lao Ông Hổ, làng An Hòa, tổng Định Thành, hạt Long Xuyên,  nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Với 92 tuổi đời, 70 năm hoạt động cách mạng, Chủ tịch Tôn Đức Thắng có công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, với phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, góp phần vun đắp tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới.

Bác được Đảng, Nhà nước tặng Huân chương Sao Vàng; Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao Liên Xô tặng Huân chương Lê-nin; Ủy ban Giải thưởng quốc tế trao tặng Giải “Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc”; và nhiều phần thưởng, danh hiệu cao quý khác. Trong lời phát biểu tại lễ trao tặng Huân chương Sao Vàng cho Bác Tôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:“Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: Suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân”.

Le-135-Bac-Ton-7.jpg

Chủ tịch nước Võ  Văn Thưởng thừa ủy quyền Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tặng quà cho Đảng bộ và Nhân dân An Giang

Trải qua hơn 93 năm từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo, Đảng bộ và Nhân dân An Giang kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; noi gương Chủ tịch Tôn Đức Thắng, luôn đoàn kết, phấn đấu hoàn thành tốt mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng.

Từ tỉnh thiếu lương thực trong những năm 1975 sau giải phóng, đến nay, An Giang trở thành một trong các tỉnh đứng đầu cả nước về sản lượng nông nghiệp, góp phần quan trọng đảm bảo an ninh lương lực quốc gia và xuất khẩu; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng; quốc phòng - an ninh được bảo đảm, chủ quyền biên giới được giữ vững; tình hữu nghị giữa tỉnh An Giang và Vương quốc Campuchia được củng cố; khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường; đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện; quyền làm chủ của Nhân dân được tôn trọng, phát huy.

Những năm gần đây, mặc dù tình hình thế giới, trong nước gặp không ít khó khăn, thách thức do tác động của đại dịch COVID-19 và những ảnh hưởng khách quan khác, nhưng với quyết tâm chính trị, tinh thần đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng bộ, sự đồng lòng ủng hộ của Nhân dân, tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì, khôi phục và phát triển; thu nhập bình quân đầu người tăng hàng năm.

Văn hóa - xã hội chuyển biến tích cực; các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, chăm lo đồng bào dân tộc và xây dựng nông thôn mới được thực hiện tốt. Lĩnh vực Y tế được quan tâm, cơ sở vật chất, đảm bảo yêu cầu khám, chữa bệnh cho Nhân dân. Các giá trị văn hóa được bảo tồn, phát huy.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh được đặc biệt quan tâm. Trong đó, việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với học tập tấm gương đạo đức Chủ tịch Tôn Đức Thắng và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII), Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trở thành việc làm thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng.

Bằng tất cả lòng thành kính tri ân, Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang đề nghị các cấp, các ngành, các địa phương và toàn thể Nhân dân tỉnh An Giang, nhất là thế hệ trẻ hôm nay nêu cao tinh thần trách nhiệm, phát huy truyền thống yêu nước, anh hùng và cách mạng; không ngừng học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và tấm gương sáng ngời của người cộng sản Tôn Đức Thắng.

Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang khẳng định: Nhân Kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, ôn lại cuộc đời hoạt động cách mạng và những cống hiến to lớn của Người, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang nguyện đoàn kết một lòng; ra sức học tập, công tác; nêu cao ý chí tự lực tự cường; phát huy tinh thần năng động, sáng tạo; khai thác tiềm năng thế mạnh; tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, xây dựng tỉnh An Giang ngày càng giàu đẹp - văn minh; như kỳ vọng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua 4 câu thơ đề tặng An Giang nhân dịp về thăm, làm việc năm 2018:

“An Giang đã nói là làm,

Đã đi là đến, đã bàn là thông;

Đã quyết là dốc một lòng,

Quê hương vẫy gọi, Đảng mong, dân chờ”.

Lễ kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng nhằm thể hiện truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, sự tôn kính và lòng biết ơn vô hạn của đất nước nói chung, của Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân An Giang nói riêng đối với Bác Tôn. Thông qua các hoạt động chào mừng góp phần tuyên truyền, giáo dục sâu rộng giúp cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong tỉnh hiểu sâu sắc hơn về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng, tư tưởng, đạo đức, phong cách và cống hiến to lớn của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, qua đó góp phần bồi đắp tình yêu quê hương, đất nước, tạo khí thế cách mạng, niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, tạo tinh thần thi đua sôi nổi trong toàn Đảng và xã hội, tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước, hăng hái thi đua trong học tập, lao động, sản xuất, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI đã đề ra./.

Le-135-Bac-Ton-8.jpg

Le-135-Bac-Ton-9.jpg

Chương trình nghệ thuật

NGỌC HÂN

Chuyện về những thuyết minh viên Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức ThắngBài viếtTrung HiếuChuyện về những thuyết minh viên Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng/SiteAssets/Thuyet-minh-vien-Bac-Ton-2.jpg
19/08/2023 8:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Tọa lạc tại xã Mỹ Hòa Hưng (TP Long Xuyên, tỉnh An Giang), Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng là điểm đến văn hóa lịch sử, giúp người dân cả nước hiểu rõ hơn về cuộc đời, thân thế, sự nghiệp cách mạng của Bác Tôn. Ở đó, các thuyết minh viên phát huy vai trò dẫn dắt, truyền cảm hứng cho người dân, du khách về vùng đất cù lao Ông Hổ, nơi gắn liền với thời niên thiếu và là động lực làm nên khí chất con người Tôn Đức Thắng.

 Thuyet-minh-vien-Bac-Ton-1.jpg

Chị Thái Ngọc Xuân Trang thuyết mình về đền thờ Chủ tịch Tôn Đức Thắng

Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng có 3 điểm tham quan chính, bao gồm: Đền tưởng niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Nhà trưng bày giới thiệu về thân thế và sự nghiệp Bác Tôn, Nhà lưu niệm thời niên thiếu Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Ngoài ra, nơi đây còn trưng bày chiếc máy bay YAK 40 - chuyên cơ chở Chủ tịch Tôn Đức Thắng từ Hà Nội vào Sài Gòn dự lễ mít-tinh mừng chiến thắng mùa Xuân, thống nhất đất nước (được tổ chức ngày 15/5/1975), mô hình nhà lán của Bác Tôn ở ATK Thái Nguyên, tàu giang cảnh, chiếc xe đưa rước Bác Tôn khi làm việc ở Hà Nội... Mỗi khu vực có một vẻ đẹp riêng, được thiết kế lồng ghép với hệ thống công viên, cây xanh, với những con đường nội bộ thoáng mát và hài hòa với thiên nhiên.

Giám đốc Ban Quản lý Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng Nguyễn Thị Mỹ Diệu cho biết, có 3 điểm được bố trí nhân viên thuyết minh phục vụ người dân và du khách: Đền thờ, ngôi nhà sàn thời niên thiếu và nhà trưng bày hiện vật, tài liệu, hình ảnh về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Tôn Đức Thắng. “Ngoài việc phải học thuộc lời giới thiệu từng khu thì thuyết minh viên phải biết cách truyền tải tình cảm vào các câu chuyện kể một cách hợp lý, làm sống động các hình ảnh, hiện vật, kỷ vật của Bác Tôn, giúp người nghe hiểu rõ hơn về cuộc đời và sự nghiệp của Bác. Do đó, các thuyết minh viên phải thường xuyên học tập, trau dồi kinh nghiệm, nâng cao kỹ năng diễn đạt của mình” - chị Diệu thông tin.

 Thuyet-minh-vien-Bac-Ton-2.jpg

Chị Tôn Thị Kim Ba thuyết minh về Nhà lưu niệm thời niên thiếu Chủ tịch Tôn Đức Thắng

Công tác tại Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng hơn 8 năm là chừng ấy kinh nghiệm làm thuyết minh, chị Thái Ngọc Xuân Trang bộc bạch: “Việc truyền tải thông tin giúp du khách, người dân hiểu rõ hơn về thân thế, cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Tôn và vùng đất, con người xứ cù lao Ông Hổ. Đó là những bài học về đức tính hiếu thảo, giản dị, khiêm tốn, tình nghĩa, trong sáng và luôn quan tâm đến mọi người. Những chuyện kể về Bác Tôn dù được lưu giữ trong nhiều quyển sách, mẫu chuyện song vẫn khiến người nghe xúc động”.

Chị Trang kể, dù trong chiến tranh đầy gian khổ, Bác Tôn vẫn không quên thương nhớ mẹ già và các em. Từ chiến khu Việt Bắc, Bác đã viết thư gửi về Long Xuyên thăm mẹ. Trong thư, Bác viết: “Kính thưa mẹ! Từ nơi xa con kính gửi thư này về thăm mẹ. Con rất đỗi buồn lo không biết mẹ còn sống với con cháu không? Mẹ đã luống tuổi rồi. Chẳng may mẹ có bề nào mà chẳng thấy mặt con, và con không thọ được tang cho phải đạo làm con, thì đau đớn biết nhường nào. Giặc còn giày xéo quê hương, con bận lo việc nước chưa tròn, chữ trung chưa trọn, chữ hiếu cũng chưa xong. Xin mẹ hiểu lòng con, tha lỗi cho con…”. Bác đã chụp một bức ảnh gửi về gia đình, phía sau bức ảnh Bác ghi: “Kính biếu mẹ già và các em, ngày 9/4/1951”. Nhưng tiếc thay mẹ Bác mất năm 1947, do Bác ở xa nên không được tin.

Là người thường xuyên phụ trách thuyết minh tại Nhà trưng bày giới thiệu về thân thế và sự nghiệp Bác Tôn, chị Trần Thị Ngọc Trúc nhớ từng hiện vật giản dị của Bác. Đang trò chuyện với chúng tôi, chị Trúc chỉ tay về phía khu vực trưng bày hiện vật của Bác Tôn, nói: “Đó là bộ đồ đại cán, đôi giầy và quần áo của Bác được nhà nước may tặng. Riêng đôi giầy này do Trung đoàn Bảo vệ 66 tặng Bác, trong quá trình mang có phần hơi bị đau chân do chân Bác bị gù và chai. Bác vốn là người giản dị và tiết kiệm nên đã tự tay khoét 2 lỗ bên hông và phía trước cho đỡ đau chân và tiếp tục sử dụng”.

Trong tủ trưng bày một số hiện vật trong gia đình, có chiếc cối xay tiêu. Nhân dịp nhận giải Hòa bình Quốc tế Lê-nin tại Liên Xô, Bác Tôn đã mua về tặng bác gái, vì lúc sinh thời Bác Tôn thích nhất là món cá rô kho tộ, bỏ thật nhiều tiêu, chiều nào bác gái cũng đem tiêu bỏ vào chén đâm thì tiêu sẽ văng ra ngoài rất nhiều. Mắt bác gái bị mờ nên cứ mò mẫm tìm từng hạt tiêu mà bỏ vào. Bác Tôn nhớ lại tình cảm của vợ dành cho mình nên đã mua chiếc cối xay tiêu về tặng vợ. “Qua những mẫu chuyện về Bác Tôn, khiến tôi càng thêm kính trọng và cảm phục Bác thật nhiều. Bác là tấm gương sáng để thế hệ trẻ như chúng tôi học tập và noi theo” - chị Ngọc Trúc chia sẻ.

 Thuyet-minh-vien-Bac-Ton-3.jpg

Thuyết minh cho du khách về hình ảnh, cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Tôn Đức Thắng

Nghề thuyết minh cũng như bao nghề khác nhưng là niềm vinh dự và rất đỗi tự hào đối với những con người nơi xứ cù lao. Chị Tôn Thị Kim Ba (cháu đời thứ 4 của bác Tôn Đức Nhung - em trai của Chủ tịch Tôn Đức Thắng) chia sẻ: “Mỗi lần có đoàn khách đến, yêu cầu được thuyết minh là chúng tôi luôn sẵn lòng, dù vào giờ nghỉ trưa hay xế chiều, chập tối. Chúng tôi ý thức rằng, mình không những đại diện cho người dân địa phương, mà cả Nhân dân tỉnh An Giang giới thiệu đến người dân và du khách mọi miền đất nước về Chủ tịch Tôn Đức Thắng kính yêu. Tôi rất tự hào là con, cháu của Bác Tôn và thật vinh dự khi được giới thiệu về quê hương, thân thế, cuộc đời của Bác để mọi người hiểu biết một cách sâu sắc nhất về Chủ tịch Tôn Đức Thắng - vị anh hùng kính yêu của dân tộc Việt Nam”.

TRUNG HIẾU

Cù lao xanh giữa dòng sông HậuBài viếtCù lao xanh giữa dòng sông Hậu/SiteAssets/My-Hoa-Hung-nh%C3%A0-s%C3%A0n-BT.jpg
17/08/2023 9:05 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Nằm giữa dòng sông Hậu, được phù sa bồi đắp quanh năm, xã Mỹ Hòa Hưng hay còn gọi là Cù Lao Ông Hổ (thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang) quanh năm cây trái trĩu cành, đồng lúa rập rờn xanh tốt, không gian thoáng đãng, hiền hòa… Nơi đây đã sinh ra người cộng sản trung kiên, nhà lãnh đạo cách mạng kiệt xuất, người con ưu tú của quê hương: Chủ tịch Tôn Đức Thắng…

My-Hoa-Hung.JPG

Cù lao Ông Hổ (Mỹ Hòa Hưng) - Điểm đến hấp dẫn ở An Giang

Những ngày giữa tháng Tám, chúng tôi về xã Mỹ Hòa Hưng trong không khí lễ hội tưng bừng diễn ra. Chính quyền và nhân dân An Giang đang chuẩn bị lễ kỉ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Đối với Nhân dân Mỹ Hòa Hưng nói riêng và Nhân dân An Giang nói chung, mỗi dịp sinh nhật Bác Tôn đều như những ngày hội. Năm 2012, Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại Mỹ Hòa Hưng đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận Di tích lịch sử cấp Quốc gia đặc biệt. Đây là niềm vui lớn cho quê hương Bác Tôn và Nhân dân tỉnh An Giang.

Bến phà Ô Môi ngày đêm không biết bao nhiêu lượt đưa đón khách qua lại. Tháng Tám, dòng nước sông Hậu đỏ quạch phù sa, vỗ vào mạn phà dào dạt, với từng cơn gió phóng túng thổi vào hành khách cũng dạt dào những dòng ký ức. Và trong đó có những dòng ký ức về chuyến đò trên bến Ô Môi đã đưa chàng trai Tôn Đức Thắng, người con của cù lao Ông Hổ ra đi làm cách mạng... Để ngày ngày, chuyến đò trên bến Ô Môi vẫn chờ đợi Người về...

Không nhớ rõ đây là lần thứ mấy tôi đến Mỹ Hòa Hưng, nhưng mỗi lần đến trong tôi lại mang nhiều cảm giác khác nhau. Không chỉ là sự ngưỡng vọng, tôn kính trước tấm gương của một người cộng sản bất khuất, một nhân cách sống mẫu mực, một đạo đức cách mạng trong sáng; mà còn được đắm mình trong một không gian thoáng đãng, khí hậu trong lành, yên ắng, khác xa với sự ồn ào, hối hả và ngột ngạt nơi phố thị. Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng được bao bọc bởi một vườn cây mát mẻ, những thảm cỏ xanh tươi.

 My-Hoa-Hung-nhà-sàn-BT.jpg

Ngôi nhà sàn thời niên thiếu Bác Tôn ở. Ảnh: HB.

Cứ mỗi lần trở lại Mỹ Hòa Hưng, tôi đều đến ngôi nhà thời niên thiếu Bác từng sống, để nhớ lại một thời tuổi thơ Người ở nơi đây, và mảnh đất này, ngôi nhà này đã hun đúc nên ý chí của một người cộng sản kiên trung. Ngôi nhà được xây theo kiểu nhà sàn ba gian, một kiểu nhà truyền thống của người dân Nam Bộ, có chân tán, cột gỗ, nền sàn lót ván, mái lợp ngói âm dương. Bên trong ngôi nhà còn lưu giữ nhiều hiện vật như bộ ngựa gỗ, tủ thờ cẩn ốc xà cừ… Phía sau ngôi nhà là phần mộ song thân của Bác. Dù đã được nhiều lần trùng tu, tôn tạo, nhưng khu này vẫn được bảo tồn nguyên trạng. Mỗi lần tham quan xong ngôi nhà thời niên thiếu của Người, tôi thường đứng trầm mặc rất lâu, mọi sự vật xung quanh dường như cũng im ắng, theo những dòng suy nghĩ của tôi. Trong ngôi nhà đó, tôi cảm thấy, từng thước đất đều mang đậm dấu ấn và hơi ấm của Người. Mỗi câu chuyện về Bác và gia đình Bác đều làm cho người người khâm phục, mến yêu lẫn kính trọng. Như nhà thơ Bảo Định Giang đã từng viết: "Miền Nam thương nhớ Bác nhiều/Bác đi để lại gương treo giữa đời...".

 My-Hoa-Hung-hocsinh-thivetranh.jpg

Các em học sinh thi vẽ tranh tại Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Ảnh: HB.

Đến Mỹ Hòa Hưng, không những chúng ta được nghe nhiều mẩu chuyện về Bác Tôn và gia đình Bác, mà còn được nghe nhiều giai thoại về vùng đất và con người nơi đây. Trong những giai thoại đó, có giai thoại vì sao nơi đây mang tên là Cù lao Ông Hổ. "Truyền thuyết kể rằng thuở khai khẩn đất cù lao, có vợ chồng người nông dân cứu được hổ con trong lúc sắp chết, đem về nuôi dưỡng. Lúc này, nơi đây còn hoang sơ lắm, dân cư thưa thớt, rừng rậm, người và hổ mến nhau. Khi người nông dân qua đời, hổ thương tiếc, suốt ngày quanh quẩn quanh ngôi mộ. Sau đó, do càng ngày dân cư càng đông lên, khai phá rừng, mất nơi trú ngụ nên hổ tản về Thất Sơn nhưng lòng luôn nhớ về chốn cũ. Mỗi năm vào ngày mất của chủ, hổ mang về nai, heo rừng... làm lễ vật và phủ phục bên mộ tạ ơn ân nhân quá cố. Nhân dân trong vùng cảm thương con vật có nghĩa, không hại hổ, lại tôn là "Ông Hổ" và lập miếu thờ. Vùng đất cồn từ đó mang tên cù lao Ông Hổ, ngày nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, An Giang". Và còn rất nhiều giai thoại về vùng đất này, con người sống chan hòa và cảm hóa được thú dữ… Đó là giai thoại đẹp về một thời khẩn hoang lập ấp.

Mỹ Hòa Hưng hôm nay đang thay đổi từng ngày, đời sống kinh tế người dân được nâng lên, nhà cửa kiên cố, khang trang hơn, đường xá giao thông được nhựa hóa, thuận lợi cho xe cộ lưu thông. Chạy xe một vòng quanh Mỹ Hòa Hưng, chúng tôi cảm nhận được không khí lễ hội đang hiển hiện trên từng con đường, ngôi nhà và trên khuôn mặt những người dân ở nơi đây. Hình như mọi người, ai ai cũng đang hân hoan, tất bật, sửa soạn lại nhà cửa, hàng rào, vệ sinh đường sá... như khoác lên mình chiếc áo mới, tinh tươm để "đón khách" khắp nơi về với Mỹ Hòa Hưng bằng tất cả tấm lòng đầy tự hào. Bác Tám Tri, năm nay đã hơn 70 tuổi vui vẻ nói với tôi: "Mấy chục năm rồi chú ơi, cứ mỗi độ Tháng Tám là dân xứ cồn này rộn ràng ngày hội. Bởi chúng tôi biết, rất đông người sẽ đổ về đây viếng Chủ tịch Tôn Đức Thắng và tham quan xứ sở cù lao, nên nhân dân ở đây phải chuẩn bị sẵn sàng để "đón khách" cũng là một cách thể hiện tấm lòng tôn kính đối với Bác Tôn...".

 My-Hoa-Hung-hocsinh-thive.jpg

Năm tháng trôi qua đã chứng minh một điều, xứ cù lao tạo nên những thế hệ con người Mỹ Hòa Hưng nghĩa khí hào hiệp, nhân ái, luôn vượt lên số phận để làm giàu cho gia đình và làm đẹp cho quê hương. Những thế hệ nối tiếp nhau sống ở cù lao này đã dày công vun đắp, gắn sức tạo nên mảnh đất cù lao xanh tươi, nước sông quanh năm bốn mùa uốn lượn như một bức tranh thơ mộng. Ta cảm nhận được sự nhiệt huyết, sự bền bỉ và tinh thần tương thân tương ái. Họ đã gieo mầm tình người vào từng cánh hoa Ô Môi, làm cho quê hương thêm xinh đẹp, thêm tươi mát. Dẫu xa xôi nơi nào, mỗi khi nhớ về Mỹ Hòa Hưng, ta thấy lòng mình cùng hòa vào khúc ca vĩnh cửu của đất trời An Giang.

Hè đến, Ô Môi nở hoa rực rỡ, mỗi cánh hoa như nụ cười dịu dàng, kêu gọi từng bước chân của người con xa xứ quay về. Trong tiếng ve, trong nắng vàng trải mặt đồng, mảnh đất này ẩn chứa những kỷ niệm thanh xuân và những ước mơ tươi trẻ. Thời gian có thể trôi qua, nhưng tình yêu quê hương vẫn mãi nguyên vẹn trong lòng. Ô Môi nở hoa, thắp sáng tâm hồn, tạo nên một bức tranh tươi đẹp về xứ cù lao. Cảm giác ấm áp và an lành trong từng khoảnh khắc, như thể những vòng tay quen thuộc của gia đình đang ôm ấp ta.

Chuyến phà Ô Môi đưa chúng tôi rời Mỹ Hòa Hưng, đứng trên phà ngoái lại nhìn quê hương Bác Tôn bao bọc bởi một màu xanh tươi mát và đầy hy vọng... Rồi đây, trên con đường đến Khu lưu niệm của Người, mỗi khi hè đến sẽ rực lên những cánh hoa Ô Môi li ti ửng hồng một góc trời, như mời gọi, như là điểm nhấn để mỗi lần du khách qua Mỹ Hòa Hưng lưu luyến khôn nguôi... Trong đầu tôi lại ngân lên giai điệu mượt mà, dìu dặt trong bài vọng cổ "Đôi mắt nhớ" của soạn giả Hà Nam Quang. Giai điệu ấy giản dị nhưng chứa đựng cả một tấm lòng kính yêu chân thành với Bác Tôn:

"…Mùa hè ở Mỹ Hòa Hưng bông ô môi thắm nở,

Bác hướng xa đôi mắt nhớ một đời.

Đôi mắt nhớ bến Ô Môi

Đôi mắt nhớ cả đất trời An Giang

Bác Tôn là của chúng con

Bởi đôi mắt Bác nhớ thương thật đầy..."

TRẦN SANG

Học tập tấm gương Chủ tịch Tôn Đức Thắng Bài viếtAn BìnhHọc tập tấm gương Chủ tịch Tôn Đức Thắng /SiteAssets/Lan-to-cuocthi-Bac-Ton-135-1.jpg
15/08/2023 10:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng - nhà lãnh đạo mẫu mực, người cộng sản kiên cường, người bạn chiến đấu thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng - đã suốt đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 


Chủ tịch Tôn Đức Thắng trở về thăm quê sau ngày thống nhất đất nước, ảnh: Tư liệu.

Tấm lòng yêu nước, thương dân và tinh thần đấu tranh cách mạng

Cách đây 135 năm, vào ngày 20/8/1888, Bác Tôn được sinh ra trong căn nhà sàn trên đất cù lao Ông Hổ bốn bề sông nước. Tuổi thơ của Bác Tôn gắn liền với bến đò Ô Môi qua lại chợ Long Xuyên, với con rạch Cái Sơn êm đềm trước nhà thầy nho Nguyễn Thượng Khách, với hàng me của Trường tiểu học làng Bình Đức năm xưa. 

Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng sôi nổi, phong phú, đầy gian lao, thử thách của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng mà đồng bào, đồng chí trìu mến gọi là Bác Tôn kính mến gắn liền với lịch sử đấu tranh oanh liệt của dân tộc ta trong thế kỷ XX. Là người con ưu tú của quê hương An Giang giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, ngay từ khi còn là học sinh, Bác Tôn đã sớm giác ngộ cách mạng, tham gia phong trào yêu nước chống thực dân Pháp. Trong những năm tháng tuổi trẻ bôn ba ở nước ngoài, hoạt động trong phong trào công nhân, công đoàn Pháp, Bác Tôn đã tham gia cuộc nổi dậy của Hải quân Pháp ở Biển Đen ngày 20/4/1919, ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, chống sự can thiệp vũ trang của các nước đế quốc đối với Nhà nước Xô-viết non trẻ, góp phần bảo vệ thành trì của cách mạng vô sản thế giới. Sau cuộc binh biến ở Biển Đen, Bác Tôn bị trục xuất về nước.

Người sáng lập, tổ chức công hội đầu tiên ở Việt Nam

Trở về nước năm 1920, với lòng yêu nước nhiệt thành, Bác Tôn đã kết hợp kinh nghiệm hoạt động của phong trào công nhân, công đoàn Pháp với thực tiễn phong trào yêu nước, phong trào công nhân Việt Nam, trước hết là phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn, để tìm ra những hình thức, phương pháp tổ chức đấu tranh thích hợp. Cuối năm 1920, cùng với một số anh em công nhân, Bác Tôn đã lập ra Công hội bí mật ở Sài Gòn - tổ chức công hội đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Bác Tôn, Công hội bí mật đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh, tiêu biểu nhất là cuộc bãi công vào tháng 8-1925 của hơn 1.000 công nhân xưởng Ba Son ủng hộ giai cấp công nhân Trung Quốc, phản đối sự cấu kết giữa thực dân Pháp với chính quyền Tưởng Giới Thạch đàn áp công nhân ở thành phố Quảng Châu. Cuộc bãi công Ba Son là một mốc son đánh dấu bước trưởng thành, trình độ tự giác của giai cấp công nhân Việt Nam; thể hiện năng lực tổ chức, ý thức giác ngộ, đoàn kết giai cấp, đoàn kết quốc tế; kết hợp chặt chẽ giữa khẩu hiệu đấu tranh kinh tế với mục tiêu đấu tranh chính trị. Thành công của cuộc đấu tranh cho thấy sức mạnh của Công hội và vai trò, uy tín của người đứng đầu là Bác Tôn.


Người chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất

Tháng 7/1929, Bác Tôn bị thực dân Pháp bắt giam tại Khám Lớn (Sài Gòn) và một năm sau bị đày ra Côn Đảo. Gần mười bảy năm bị giam ở ngục tù, Bác Tôn luôn tỏ rõ là một nhà yêu nước vĩ đại, một chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất, đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù; thương yêu đồng chí và những người cùng cảnh ngộ. Bác Tôn đã đề xướng việc thành lập Hội cứu tế tù nhân - hội tù Côn Đảo đầu tiên; góp phần quan trọng vào việc thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở nhà tù Côn Đảo, mở ra thời kỳ đấu tranh mới của tù nhân Côn Đảo, thời kỳ đấu tranh có tổ chức, có phương pháp, với mục tiêu cụ thể trước mắt và lâu dài. Đặc biệt, khi Chi bộ thực hiện chủ trương biến "nhà tù thành trường học cộng sản", Bác Tôn tích cực hưởng ứng, gương mẫu học tập và tham gia vào truyền bá những kiến thức về lý luận cơ bản và nội dung huấn luyện cho các tù nhân. Nhờ sự bí mật, khôn khéo, Bác Tôn đã giúp Chi bộ vừa chuyển được thư từ, tài liệu ở Côn Đảo về Sài Gòn, vừa nhận được nhiều sách lý luận gồm những tác phẩm kinh điển Mác, Ăngghen, Lênin... dùng làm tài liệu học tập trong tù.

Hình ảnh người chiến sĩ cộng sản Tôn Đức Thắng kiên cường, sáng ngời bản lĩnh và niềm tin tất thắng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc để vượt qua sự khốc liệt của ngục tù đế quốc đã làm các đồng chí đảng viên tù Côn Đảo ngưỡng mộ và kẻ thù khiếp sợ.

Nhà lãnh đạo mẫu mực của cách mạng Việt Nam ở thời đại Hồ Chí Minh

Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, từ Côn Đảo trở về đất liền, Bác Tôn được Đảng và Nhà nước ta tin tưởng giao nhiều trọng trách: phụ trách Ủy ban Kháng chiến kiêm Chỉ huy trưởng lực lượng vũ trang Nam bộ, Phó Hội trưởng và Hội trưởng Hội Liên Việt, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Vận động thi đua ái quốc, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt, Trưởng ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch danh dự Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Hòa bình thế giới, Chủ tịch Hội Hữu Nghị Việt - Xô... Dù ở cương vị công tác nào, Bác Tôn cũng luôn nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật của người đảng viên Đảng Cộng sản; gương mẫu đi đầu, sẵn sàng, gánh vác nhiệm vụ khó khăn nhất; có tinh thần đứng mũi, chịu xào, ý thức trách nhiệm cao với công việc; không màng danh lợi cho bản thân, sống bình dị; nêu gương sáng về sự trung thành, lòng tận tụy phục vụ Nhân dân. 

Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về cõi vĩnh hằng, Bác Tôn được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Bác Tôn đã cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc đến thắng lợi cuối cùng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.


Người tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh

Hơn 30 năm trực tiếp lãnh đạo tổ chức xây dựng, mở rộng, phát triển Mặt trận đoàn kết dân tộc ở nước ta, Bác Tôn đã có nhiều đóng góp to lớn trong việc xây dựng, bồi đắp, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; là người tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm cho Mặt trận Dân tộc thống nhất ngày càng mở rộng và củng cố; khẳng định trên thực tế sức mạnh đoàn kết toàn dân là sức mạnh vô địch, là sức mạnh làm nên chiến thắng.

Dưới sự lãnh đạo của Bác Tôn, Mặt trận Liên Việt (sau này là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) đã giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc, đánh thắng các đế quốc xâm lược và mọi thế lực phản động, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.

Trên bình diện quốc tế, là đại diện cho giai cấp công nhân Việt Nam hoạt động trong phong trào công nhân Pháp, Bác Tôn đã biết lựa chọn một chỗ đứng chính trị làm vinh dự cho giai cấp công nhân Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam… đó là ủng hộ Cách mạng Tháng Mười, bảo vệ chính quyền Xô-viết bằng hành động phản chiến - kéo cờ đỏ trên một chiến hạm Pháp trong số các chiến hạm đang tiến đánh nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên. Đây là "một hành động mà lúc bấy giờ được xem là hiếm có, hơn thế nữa, là một hành động xuất chúng".

Tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng

Với 92 tuổi đời, gần 70 năm liên tục hoạt động cách mạng, Bác Tôn đã có nhiều công lao, đóng góp to lớn, góp phần cùng Trung ương Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiến hành thắng lợi các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng vẻ vang của mình, dù gặp muôn vàn gian nan, thử thách, Người vẫn luôn nêu cao tinh thần cách mạng, giữ trọn niềm tin tất thắng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Suốt cả cuộc đời, Người sống khiêm tốn, giản dị, nhân hậu, thủy chung, mẫu mực về đạo đức cách mạng, suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Tấm gương sáng của Bác Tôn là hiện thân tiêu biểu cho tính cách, khí chất, phong thái và nét văn hóa đặc sắc của người Nam Bộ nói chung và An Giang nói riêng: Luôn hào sảng, trọng nghĩa, bao dung độ lượng, hết lòng vì bạn bè, đồng chí, dũng cảm, mưu trí, vượt mọi khó khăn trở ngại vì nghĩa lớn. Đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nhận xét: "Di sản quý nhất mà đồng chí Tôn Đức Thắng để lại cho Nhân dân là chất NGƯỜI Tôn Đức Thắng, sản phẩm tổng hợp của chất hào hiệp Nam Bộ, chất kiên cường và tài năng sáng tạo Việt Nam, chất tiên phong của giai cấp công nhân, chất cách mạng của người yêu nước, người cộng sản, chất nhân đạo của con người".


Cuộc đời của Bác Tôn là một tấm gương sáng ngời về lối sống khiêm tốn, giản dị, chân thành, gần gũi đồng chí, đồng bào, nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều, gần gũi, hòa mình trong cuộc sống đời thường. Nét nổi bật ở Bác Tôn chính là nhân cách của người cộng sản chân chính: tấm lòng yêu nước, thương dân, yêu đồng bào, đồng chí, gần gũi thân thương với tất cả mọi người. Giữa Chủ tịch nước và người dân dường như không có khoảng cách. Với gia đình, vợ con, Bác Tôn sống thủy chung, tình nghĩa, thắm thiết, chăm lo chu đáo hết mực; với thân tộc, với quê hương, bạn bè, bà con, Bác Tôn luôn sống trọn vẹn nghĩa tình.

Kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng là dịp để chúng ta ôn lại, tưởng nhớ, bày tỏ lòng kính trọng, tri ân sâu sắc công lao to lớn của Người. Thế hệ hôm nay nguyện tiếp tục học tập, tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu theo tấm gương Bác Tôn kính yêu; tăng cường giáo dục lý tưởng cộng sản, truyền thống yêu nước và cách mạng cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân, nhất là thể hệ trẻ; bồi dưỡng lòng tự hào, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, góp phần xây dựng quê hương Bác Tôn ngày càng văn minh, giàu đẹp. 

AN BÌNH

Lan tỏa phẩm chất cao quý của Bác Tôn Bài viếtNguyễn HảoLan tỏa phẩm chất cao quý của Bác Tôn /SiteAssets/Lan-to-cuocthi-Bac-Ton-135-4.jpg
10/08/2023 8:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Tổng kết Cuộc thi tìm hiểu “Cuộc đời và sự nghiệp Chủ tịch Tôn Đức Thắng” do Sở Văn hóa, Thể Thao và Du lịch An Giang tổ chức, đã có trên 16.000 bài dự thi của đông đảo Đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, người lao động, học sinh, sinh viên trên địa bàn tỉnh An Giang tham dự.

 Lan-to-cuocthi-Bac-Ton-135-1.jpg

Với phần trả lời 20 câu hỏi trắc nghiệm xoay quanh về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác Tôn và đặc biệt là phần thi bài viết về các chủ đề: Sự kiện nào trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác Tôn làm bạn tâm đắc nhất; Bạn cảm nhận như thế nào về những phẩm chất cao quý của Chủ tịch Tôn Đức Thắng; Phẩm chất đó được bạn áp dụng vào cuộc sống hiện nay như thế nào. Cuộc thi đã mang lại dấu ấn đậm nét, những bài viết sâu sắc, ấn tượng, các tác giả bày tỏ tình cảm chân thành, lòng biết ơn vô hạn với những cống hiến to lớn của Bác Tôn cho quê hương, dân tộc, từ đó có những hành động thiết thực, tích cực học tập và làm theo những đức tính cao đẹp của Chủ tịch Tôn Đức Thắng.

 Lan-to-cuocthi-Bac-Ton-135-2.jpg

Chia sẻ cảm nghĩ khi tham gia cuộc thi, thí sinh Lê Quang Trạng chia sẻ: “Với niềm tự hào là thế hệ trẻ sinh ra và lớn lên trên quê hương Bác Tôn kính yêu, năm 2023, tròn 135 năm ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Cuộc thi tìm hiểu Cuộc đời và sự nghiệp của Bác Tôn vô cùng thiết thực và ý nghĩa, khi đọc từng trang nghiên cứu, tư liệu về Bác Tôn, tôi cảm thấy như mình gặp một người ông, một người cha, một người bà con thân thuộc, từng hành động cách mạng, phẩm chất đối nhân xử thế của Bác đều thấm đậm tình người với một phong cách Nam bộ bình dị, gần gũi, hào sảng, trượng nghĩa mà chứa đựng đầy nhân văn sâu sắc. Chính sự gần gũi trong sự vĩ đại của một nhân cách lớn làm cho tôi vô cùng xúc động và cảm phục. Trong số những phẩm chất nổi bật của Bác Tôn chính là lòng thương người, mà sâu sắc hơn cả trong sự thương người ấy chính là lòng biết ơn những người đã từng cưu mang giúp đỡ mình, đó cũng là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. Cuộc thi tìm hiểu Cuộc đời và sự nghiệp của Bác Tôn cũng chính là một minh chứng sinh động cho việc triển khai, nghiên cứu, học tập chuyên đề năm 2023 của tỉnh An Giang về “Xây dựng văn hóa, con người An Giang theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Cuộc thi lần này với sự tham gia của rất nhiều thí sinh với nhiều thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ, mang ý nghĩa nhân văn, thiết thực, thể hiện tấm lòng tri ân sâu sắc của chúng ta đối với Chủ tịch Tôn Đức Thắng, người anh cả của nhiều thế hệ nhân dân An Giang”.

 Lan-to-cuocthi-Bac-Ton-135-3.jpg

Bà Nguyễn Thị Thùy Trang - Giám đốc Thư viện tỉnh An Giang nhận định: Cuộc thi tìm hiểu “Cuộc đời và sự nghiệp Chủ tịch Tôn Đức Thắng” thực sự là một đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp, thu hút được các đồng chí là cán bộ hưu trí đến các anh em, chị em công nhân, nông dân, kỹ sư, bác sĩ, chiến sĩ LLVT, giáo viên, học sinh đã tích cực tham gia cuộc thi một cách nghiêm túc, bài bản, tạo sức lan tỏa sâu rộng, là một hoạt động thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn, sự tôn kính và lòng biết ơn vô hạn của Đảng bộ và Nhân dân tỉnh An Giang đối với người con ưu tú của tỉnh nhà. Có thể thấy qua mỗi bài dự thi đều có điểm chung là mỗi tác giả đều có đón nhận cuộc thi một cách tự giác, tích cực, bằng  tình cảm chân thành, lan tỏa ý nghĩa, giá trị cao đẹp về những phẩm chất cao quý của Chủ tịch Tôn Đức Thắng về việc học tập và làm theo, từ đó tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, sự phấn khởi, niềm tin và khát vọng đối với sự phát triển của tỉnh nhà. Nhiều bài dự thi có nội dung sâu sắc, sáng tạo, thể hiện sự công phu, tâm huyết trong nghiên cứu, sưu tầm, đặc biệt là sự liên hệ trong học tập và làm theo tấm gương Bác Tôn rất sát với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, nghề nghiệp bản thân của tác giả, đúc kết được nhiều bài học kinh nghiệm thực tiễn để áp dụng trong thực hiện nhiệm vụ được giao.

 Lan-to-cuocthi-Bac-Ton-135-4.jpg

Trao giải cho các tác giả xuất sắc Cuộc thi tìm hiểu “Cuộc đời và sự nghiệp Chủ tịch Tôn Đức Thắng”

Cuộc thi là dấu ấn đậm nét, là điểm nhấn quan trọng trong các hoạt động thiết thực chào mừng Kỷ niệm 135 Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, kết quả cuộc thi không chỉ dừng lại ở các giải thưởng, mà quan trọng hơn là ý nghĩa nhân văn sâu sắc và giá trị tuyên truyền, giáo dục, lan tỏa của cuộc thi, là một cầu nối giữa Đảng và Nhân dân, tạo động lực thúc đẩy, lan tỏa phong trào học thi đua học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác Hồ và Bác Tôn, để việc học tập và làm theo hai Bác đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả.

 Lan-to-cuocthi-Bac-Ton-135-5.jpg

Nhân dịp kỷ niệm 135 năm ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, cuộc thi mang lại ý nghĩa hết sức giá trị, giúp cho các tầng lớp Nhân dân hiểu sâu sắc hơn về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác Tôn, hiểu rõ hơn về những công lao to lớn của Người, để chúng ta biết nâng niu, quý trọng, gìn giữ những giá trị vô giá từ người con ưu tú của quê hương An Giang. Qua đó bồi dưỡng và phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tạo phong trào thi đua lao động, học tập đóng góp sức mình vào sự phát triển của tỉnh nhà, góp phần củng cố và tăng cường niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt ôn lại truyền thống quý báo của dân tộc, về thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, người con ưu tú của dân tộc Việt Nam và của quê hương An Giang, người đồng chí, người bạn chiến đấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam./.

Nguyễn Hảo

1 - 30Next