Skip Ribbon Commands
Skip to main content

Skip Navigation LinksAN GIANG PHÁT TRIỂN

Chào mừng quý vị đến với Cổng thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh An Giang!
 
AN GIANG PHÁT TRIỂN
Thoại Sơn vươn mình (08/09/2024 14:00:00)
 
 
 

Hoàng Kỳ (*)

 
 
 
 
  
Phân loại
  
  
  
  
  
Tóm tắt
  
  
  
  
Nội dung
An Giang: Nhiều điểm sáng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị 9 tháng năm 2024An Giang 190 nămBài viếtNgọc HânAn Giang: Nhiều điểm sáng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị 9 tháng năm 2024/SiteAssets/AG-diemsang-24-1.jpg
03/10/2024 4:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- 9 tháng đầu năm 2024, trước bối cảnh thuận lợi và khó khăn đan xen nhưng với sự đoàn kết, quyết tâm của cả hệ thống chính trị, sự năng động, linh hoạt của chính quyền các cấp, công tác xây dựng Đảng và Dân vận, tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trên địa bàn tỉnh An Giang có nhiều chuyển biến tích cực

 AG-diemsang-24-1.jpg

Hội nghị sơ kết thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội 9 tháng của năm và bàn nhiệm vụ 3 tháng cuối năm 2024

Nhiều điểm sáng ghi nhận trong 9 tháng năm 2024

Trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và Dân vận được đặc biệt quan tâm, đạt kết quả khá toàn diện. Các ban đảng, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội các cấp đã tham mưu cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai quán triệt nghiêm túc các chủ trương, nghị quyết của Trung ương và của tỉnh, chất lượng sinh hoạt tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên tiếp tục được nâng cao.

Tiếp tục quán triệt thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa 13) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị gắn với thực hiện các quy định của Trung ương, của tỉnh về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên.

Phối hợp tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt Quy định số 144-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới; Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 14 của Đảng; tổ chức thông tin các bài viết, tác phẩm của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng…

Công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng được cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp quan tâm chỉ đạo thực hiện nghiêm túc. Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy, Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng tiêu cực tỉnh thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành rà soát các vụ việc, vụ án, kéo dài để sớm giải quyết dứt điểm, ổn định tình hình.

Lãnh đạo tổ chức thành công Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh lần thứ 11; Đại hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam tỉnh lần thứ 9.

Về lãnh đạo phát triển kinh tế - xã của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực, tiếp tục tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) tăng 6,54%, cao hơn mức tăng của cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 6,41%), các khu vực kinh tế đều tăng trưởng. Sản xuất nông, lâm, thủy sản phát triển ổn định. Sản xuất công nghiệp - xây dựng phát triển khá tốt. Lĩnh vực thương mại - dịch vụ tiếp tục phát triển, doanh thu bán buôn, bán lẻ hàng hóa, dịch vụ đạt 170.342 tỷ đồng (tăng 15,01% so với cùng kỳ); đón khoảng 8,5 triệu lượt khách tham quan (tăng 7,6%), doanh thu từ hoạt động du lịch đạt 9.700 tỷ đồng (tăng 80%). Kim ngạch xuất khẩu đạt 930 triệu USD (tăng 6,31%). Tổng thu ngân sách nhà nước từ kinh tế địa bàn đạt 6.382 tỷ đồng (tăng 12,36% so cùng kỳ). Tiến độ giải ngân vốn đầu tư công đạt 55,33% kế hoạch.

Ở lĩnh vực văn hóa – xã hội, tỉnh đã long trọng tổ chức Lễ hội Vía Bà Chúa xứ Núi Sam 2024, 10 năm lễ hội được công nhận di sản cấp quốc gia; phối hợp tổ chức lễ thông xe cầu Châu Đốc, lễ khánh thành dự án tuyến nối Quốc lộ 91 và tuyến tránh thành phố Long Xuyên góp phần hoàn thiện hệ thống giao thông và tạo đòn bẩy thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới. 

Công tác phòng, chống dịch bệnh được kiểm soát tốt. Các lĩnh vực văn hóa, an sinh xã hội được quan tâm thực hiện, nhất là công tác chăm lo cho các đối tượng chính sách, người lao động, người nghèo.Thực hiện tốt công tác tuyển quân năm 2024 đạt 100% chỉ tiêu kế hoạch. Quốc phòng, an ninh được đảm bảo; an ninh tuyến biên giới, trong dân tộc, tôn giáo được tăng cường, ổn định. Tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố Long Xuyên, thị xã Tịnh Biên năm 2024 đảm bảo chặt chẽ, nghiêm túc, đạt mục đích, yêu cầu đề ra…

HN-BCH17-24-1.jpg
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang phát biểu tại Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ 17

Nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm đến cuối năm 2024 và định hướng năm 2025

Phát biểu kết luận tại Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ 17, chỉ đạo những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm đến cuối năm 2024 và định hướng năm 2025, Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang yêu cầu các cấp uỷ đảng, chính quyền và các ngành, các cấp, nhất là người đứng đầu nêu cao tinh thần trách nhiệm, năng động, sáng tạo; thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo; việc thực hiện quy chế, nền nếp làm việc, kỷ cương, kỷ luật, đạo đức công vụ... quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị năm 2024, cụ thể:

Thứ nhất, về 6 nhiệm vụ trọng tâm: (1) Tiếp tục rà soát, cập nhật kết quả thực hiện những mục tiêu, chỉ tiêu để đề ra giải pháp bổ sung cần thiết thực hiện phù hợp trong 3 tháng cuối năm nhằm thực hiện đạt kế hoạch năm 2024, làm cơ sở xây dựng kế hoạch năm 2025 và phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 11, nhiệm kỳ 2020 - 2025, nhất là tập trung thực hiện các giải pháp cụ thể để hoàn thành các chỉ tiêu còn thấp; (2) Lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 14/6/2024 của Bộ Chính trị, Kế hoạch số 190-KH/TU, ngày 27/8/2024 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Hướng dẫn số 02-HD/TU, ngày 30/8/2024 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 14 của Đảng. Tiểu ban Văn kiện và Tiểu ban Nhân sự Đại hội lần thứ 12 Đảng bộ tỉnh, nhiệm kỳ 2025 – 2030 khẩn trương thành lập các Tổ soạn thảo, Bộ phận giúp việc để triển khai kế hoạch công tác. Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ khẩn trương rà soát, đăng ký các công trình, sự kiện có ý nghĩa thiết thực, tạo khí thế thi đua sôi nổi để hướng tới chào mừng đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 – 2030; (3) Khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và triển khai Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 làm cơ sở xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời gian tới; (4) Hoàn thành công tác tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ các địa phương theo kế hoạch: Huyện Chợ Mới (tháng 10/2024), huyện Thoại Sơn (tháng 11/2024); đảm bảo an toàn, đúng mục đích; trên tinh thần tiết kiệm, tránh phô trương, hình thức, kiên quyết phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm; (5) Chuẩn bị chu đáo tổ chức các sự kiện, hoạt động từ nay đến cuối năm: Lễ đón Bằng công nhận Trường Chính trị Tôn Đức Thắng đạt chuẩn mức 1; các hoạt động kỷ niệm 200 năm hoàn thành Kênh Vĩnh Tế (1824- 2024), tưởng niệm 198 năm ngày mất Bà Châu Thị Tế (1826-2024) – Tổ chức vào tháng 11/2024; (6) Hoàn thành các nội dung phục vụ Đoàn công tác của tỉnh tham gia kỳ họp xét duyệt hồ sơ Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại tại Paraguay (từ 02/12 đến 07/12/2024).

Thứ hai, về công tác xây dựng Đảng và Dân vận

Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm Kết luận số 21-KL/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Tôn Đức Thắng; Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 09/5/2024 của Bộ Chính trị về "Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới".

Tăng cường nắm bắt và dự báo tình hình tư tưởng, tâm trạng, dư luận xã hội. Chú trọng định hướng chính trị, tư tưởng; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch.

Tiếp tục củng cố, kiện toàn các chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp; hoàn chỉnh bổ sung quy hoạch cán bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020 - 2025, 2021 - 2026 và 2025 - 2030, 2026 - 2031. Rà soát, thẩm định, thẩm tra, xác minh kết luận tiêu chuẩn chính trị phục vụ công tác nhân sự đại hội. Kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng, đảng viên, tập thể, cá nhân năm 2024. Lãnh đạo, chỉ đạo công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo đảm an toàn, an ninh trật tự phục vụ đại hội đảng các cấp theo chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư.

Đẩy mạnh công tác dân vận trong hệ thống chính trị; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả của các mô hình "dân vận khéo", "dân vận khéo trong xây dựng nông thôn mới".

 Làm tốt công tác tuyên truyền, vận động Nhân dân chấp hành tốt chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước, gắn với bảo đảm an sinh xã hội. Kịp thời nắm bắt, xử lý tình hình Nhân dân, đoàn viên, hội viên và trong dân tộc, tôn giáo.

Thứ ba, phát triển kinh tế - xã hội

Tổ chức sản xuất thắng lợi vụ Thu Đông năm 2024 và chủ động triển khai các giải pháp chuẩn bị sản xuất vụ Đông Xuân 2024-2025. Theo dõi sát tình hình sụt lún, sạt lở bờ sông, kênh, rạch; chủ động triển khai thực hiện các biện pháp phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn.

 Đẩy mạnh thực hiện các chủ trương của Trung ương và của tỉnh trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn: (1) Đề án cơ cấu lại ngành nông nghiệp, (2) Đề án "Phát triển bền vững một triệu héc ta lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030" gắn với thúc đẩy liên kết sản xuất các ngành hàng Nông nghiệp theo chuỗi giá trị, nâng cao hiệu quả liên kết sản xuất; (3) Xây dựng nông thôn mới.

 Đẩy nhanh tiến độ giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2024, vốn thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia. Thường xuyên kiểm tra, đẩy nhanh tiến độ thực hiện Dự án tuyến đường bộ cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng đảm bảo đạt, vượt kế hoạch đề ra và các công trình, dự án trọng điểm của tỉnh như: Nhà hát tỉnh, Sân vận động tỉnh, tuyến đường liên kết vùng đoạn từ thị xã Tân Châu đến thành phố Châu Đốc, Bệnh viện Sản - Nhi An Giang…; đồng thời, kịp thời tháo gỡ khó khăn đối với các dự án đang triển khai để đẩy nhanh tiến độ. Quá trình thực hiện phải đảm bảo trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật; kiên quyết phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, lợi ích nhóm.

Tăng cường công tác quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ các nguồn tài nguyên, khoáng sản, trong đó thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác khoáng sản tại các mỏ cát được cấp Bản xác nhận; kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm; xử lý nghiêm các hành vi khai thác, vận chuyển, mua bán trái phép tài nguyên (đất, cát, đá, rừng...).

Tăng cường quảng bá tiềm năng, thế mạnh, cơ hội đầu tư tại tỉnh. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh; tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp triển khai thực hiện các dự án, sản xuất kinh doanh trên địa bàn đúng quy định pháp luật.

Tiếp tục triển khai hiệu quả các chính sách an sinh xã hội; thường xuyên nắm chắc tình hình lao động việc làm; kịp thời đề xuất, kiến nghị cấp có thẩm quyền bảo vệ lợi ích chính đáng cho người lao động, đặc biệt trong những tháng cuối năm. Chuẩn bị các phương án, kế hoạch vận động, chăm lo gia đình chính sách, người nghèo, có hoàn cảnh khó khăn vui xuân, đón Tết Ất Tỵ 2025.

 Tăng cường quản lý nhà nước về du lịch; đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá, liên kết du lịch. Theo dõi và kịp thời phối hợp, chỉ đạo, giải quyết khó khăn trong quá trình trình UNESCO công nhận Khu di tích khảo cổ Óc Eo - Ba Thê là Di sản văn hóa thế giới.

Thứ tư, về quốc phòng - an ninh, nội chính và đối ngoại

Các lực lượng chức năng tập trung tấn công, trấn áp các loại tội phạm, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; phối hợp tuần tra, kiểm soát tuyến biên giới, thực hiện tốt công tác phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, kết hợp với bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia.

Tăng cường công tác giám sát, nắm tình hình hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên để kịp thời phát hiện, chủ động kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm. Lãnh đạo, chỉ đạo tốt công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo đảm an toàn, anh ninh trật tự phục vụ đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội 14 của Đảng.

Lãnh đạo tăng cường công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án nghiêm trọng, phức tạp trên địa bàn tỉnh, nhất là các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Ban Chỉ đạo tỉnh, Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy theo dõi, chỉ đạo. Thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng, đối ngoại Nhân dân; tạo môi trường hòa bình, ổn định.

Kế thừa kết quả đạt được, với tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước Nhân dân, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tăng cường đoàn kết, đồng thuận, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện có hiệu quả các chương trình hành động và kết luận của Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ 17; phấn đấu hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị năm 2024, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025./.

NGỌC HÂN (tổng hợp)

Thoại Sơn: Điểm sáng về chăm lo đời sống nhân dânAn Giang 190 nămBài viếtKim CươngThoại Sơn: Điểm sáng về chăm lo đời sống nhân dân/SiteAssets/TS-vuon-minh-pt-5.jpg
13/09/2024 9:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, song Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân huyện Thoại Sơn luôn chung sức, đồng lòng, nỗ lực phấn đấu giành nhiều thành tựu trên các lĩnh vực. Trong đó, phải kể đến là đầu tư nâng cấp, hoàn thiện kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, đèn chiếu sáng các tuyến trọng điểm trên địa bàn huyện; xây dựng và phát triển hệ thống Quỹ Khuyến học - khuyến tài trên địa bàn huyện Thoại Sơn. Đây là cơ sở vững chắc, tạo điều kiện thuận lợi cho huyện Thoại Sơn phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Qua đó, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện đã đề ra.

TS-vuon-minh-pt-4.jpg 

Đường tỉnh 943

Nhìn những con đường nhựa, bê tông trải dài liên ấp, liên xã, liên huyện, những chiếc cầu bê tông vững chắc nối liền đôi bờ, ai cũng phấn khởi, tự hào. Đó là kết quả của sự đoàn kết, chung lòng của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tạo ra sự đột phá về cơ sở hạ tầng giao thông đồng bộ, khang trang, sạch đẹp. Đảm bảo kết nối liên xã, liên vùng, liên huyện, mở ra nhiều cơ hội cho người dân trong các hoạt động thương mại, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp được thông suốt hơn. Với sự chăm lo và đầu tư của Đảng và chính quyền, hiện nay, huyện có 12 tuyến đường huyện với tổng chiều dài 144,3 km; và 11 tuyến đường xã dài 42,9 km, đều được nhựa hóa hoặc bê tông hóa. Trong đó, có 02 tuyến đường cấp V dài 29,4km và 10 tuyến còn lại là đường cấp VI, hiện đang được đầu tư nâng cấp, mở rộng đạt chuẩn đường cấp V đồng bằng, các cầu bê tông đã kết nối với tỉnh và thông suốt từ huyện đến các xã, thị trấn. Điển hình một số công trình như: Tuyến đường NTM nối liền ba xã Định Mỹ - Mỹ Phú Đông - An Bình chiều dài hơn 17 km, chiều rộng mặt đường 5,5m (đoạn từ đường tỉnh 943 – đường tỉnh 947); Tuyến Tây Rạch Giá – Long Xuyên (Thoại Giang – Định Mỹ) có tổng chiều dài 7km, nền đường rộng 6,5m; mặt đường 5,5m. Đây là những tuyến đường liên xã, huyết mạch kết nối giao thông giữa các xã với các vùng lân cận và  là một trong những công trình tạo nên điểm nhấn trên bức tranh xây dựng NTM nâng cao của ba địa phương. Đặc biệt, công trình nâng cấp, mở rộng đường vào Khu Di tích đặc biệt Óc Eo – Ba Thê, thuộc Đường tỉnh 943 có tổng chiều dài 14,768 km; điểm đầu ở cầu Thoại Giang, điểm cuối ở cầu Mướp Văn; bề rộng nền đường 9m; đoạn qua thị trấn Óc Eo có bề rộng nền đường 10m. Và còn rất nhiều công trình khác đã tạo cho Thoại Sơn có một hệ thống giao thông rất thuận lợi.

Ông Trương Anh Dũng người dân xã Thoại Giang vui mừng chia sẻ: “Tôi là người kinh doanh, khi đường tỉnh lộ 943 từ xã Thoại Giang đến cầu Mướp Văn, xã Vọng Thê được nâng cấp, mở rộng chúng tôi rất vui mừng vì giúp cho việc giao, nhận hóa dễ dàng, thuận lợi hơn. Tôi nghĩ rằng trong tương lai với sự phát triển về đường như thế này, huyện ngày càng phát triển hơn nữa”.

Ông Võ Hữu Đầy người dân xã An Bình chia sẻ: “Những chủ trương của Đảng và chính quyền mình rất hay, đặc biệt trong quá trình xây dựng NTM, chúng tôi rất ủng hộ, phải nói đường giao thông được láng nhựa hết, được mở rộng, cả tuyến đường vào ruộng cũng bê tông, kéo theo là nâng cao đời sống của người dân về mọi mặt”.

Có thể khẳng định rằng, từ sự tin tưởng, đồng thuận của người dân đã tạo ra sức mạnh vượt qua mọi khó khăn, để chính quyền và Nhân dân cùng hướng về một mục tiêu chung xây dựng quê hương Thoại Sơn ngày càng phát triển.

TS-vuon-minh-pt-5.jpg

Tặng quà cho các em học sinh dân tộc Khmer

Một trong những điểm sáng về chăm lo đời sống của người dân phải kể đến công tác khuyến học, khuyến tài của huyện. Khắc sâu lời Bác dạy “Chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Công tác đó phải làm kiên trì, bền bỉ…”. Chính vì thế, trong nhiều năm qua, huyện đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc lĩnh vực giáo dục, chăm lo cho thế hệ tương lai của đất nước. Đề án 04 “Đề án xã hội hóa hoạt động xây dựng và phát triển hệ thống Quỹ Khuyến học - khuyến tài trên địa bàn huyện Thoại Sơn” được ban hành, đã nhận được sự quan tâm, ủng hộ từ các tổ chức, doanh nghiệp và nhà hảo tâm chăm lo sự nghiệp giáo dục huyện nhà, khơi dậy phong trào học tập rộng khắp… Điển hình, 23 quỹ khuyến học ở các trường tiểu học, THCS, THPT trên địa bàn huyện, với tổng số tiền trên 23 tỷ đồng. Trong đó, Quỹ Học bổng Nguyễn Văn Thoại đã đạt 5,2 tỷ đồng. Từ các nguồn quỹ này tạo điều cho các em học sinh nghèo được tiếp bước đến trường và kịp thời động viên, khích lệ các em vượt khó vươn lên trong học tập. Điểm chung của các quỹ là bảo toàn tuyệt đối nguồn quỹ, đi đôi với không ngừng tạo nguồn bổ sung phát triển quỹ. Có kế hoạch sử dụng đúng mục đích nguồn lãi kết dư định kỳ từ hệ thống quỹ, theo tôn chỉ mục đích và điều lệ quỹ quy định, chi phải đảm bảo thực sự hiệu quả, hợp lý giữa hoạt động khuyến học và hoạt động khuyến tài góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo và chủ động tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ mới, đáp ứng sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của huyện nhà.

Cô Trương Thị Mỹ Đẹp hơn 47 năm gắn bó với công tác giáo dục và khuyến học của địa phương, đã chứng kiến bao thâm trầm, thay đổi của quê hương từ vùng đất thường xuyên lũ lụt, đời sống người dân nghèo khó. Nhờ những chủ trương của Đảng và chính quyền qua từng giai đoạn về nông nghiệp, nông thôn, xây dựng NTM… để ngày hôm nay vươn lên đạt nhiều thành tựu đáng tự hào. Trong đó, phải kể đến lĩnh vực giáo dục, công tác khuyến học, khuyến tài. Cô Đẹp chia sẻ: “Thoại Sơn có được nguồn quỹ trên nhờ tâm quyết của các đồng chí lãnh đạo tỉnh, huyện khởi xướng, thành lập. Từ khi có quỹ khuyến học, khuyến tài chăm lo cho học sinh, khen thưởng giáo viên, việc học tập của các em có tiến bộ rõ rệt, khích lệ tinh thần học tập của học sinh, giảng dạy của giáo viên hơn. Đầu năm học hay tổng kết năm học đều có khen thưởng, trao học bổng, trao tập sách, vở, đồng phục… vì vậy tỉ lệ học sinh bỏ học vì nghèo cũng giảm đi đáng kể, sự phát triển giáo dục bền vững hơn”.

Em Nguyễn Hồng Quân – Trường THPT Nguyễn Văn Thoại chia sẻ: “Trong thời gian qua, quỹ học bổng đã giúp em và các bạn có hoàn cảnh khó khăn được bước tiếp trên con đường tri thức. Em sẽ cố gắng học tập thật tốt để món quà này trở nên ý nghĩa hơn bao giờ hết. Mong rằng quỹ học bổng sẽ được duy trì bền vững để hỗ trợ nhiều hơn những bạn học sinh đang ngày đêm nỗ lực trên con đường học tập”.

TS-vuon-minh-pt-6.jpg

Hiện trên địa bàn huyện có 52/67 trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 77,61% (trong đó có 14 trường mầm non; 19 trường tiểu học; 15 trường trung học cơ sở và 4 trường trung học phổ thông). Ghé thăm các ngôi trường trên địa bàn huyện, chúng ta dễ nhận thấy diện mạo mới, khang trang, sáng, xanh, sạch, đẹp, trang bị đầy đủ phòng chức năng, thiết bị phục vụ dạy và học. Tạo môi trường học tập an toàn, thân thiện giúp các em thích thú hơn trong học tập. Huyện Thoại Sơn thực hiện duy trì và nâng cao chất lượng đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học; phổ cập giáo dục trung học cơ sở và xóa mù chữ. Tỉ lệ học sinh khá, giỏi, học sinh đậu vào các trường đại học, cao đẳng cao.

Song song đó, chính quyền địa phương đã không ngừng nỗ lực để chăm lo công tác an sinh xã hội, xem đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên nhằm đảm bảo cuộc sống của người dân ngày càng ổn. Một trong những điểm nổi bật của huyện là việc thành lập được Quỹ Nghĩa tình đồng đội, Quỹ Hưu trí, Quỹ Ân sư, Quỹ Bảo trợ người khuyết tật, bệnh nhân nghèo và bảo vệ trẻ em huyện, Quỹ Hỗ trợ cán bộ từ trần (Nghĩa trang cán bộ), Quỹ Vì người nghèo, Quỹ Đình thần Thoại Ngọc Hầu, Quỹ Hội cựu Công an nhân dân với tổng số tiền trên 30 tỷ đồng. Từ đó, những ngôi nhà tình thương, nhà đại đoàn kết được xây lên đã tạo điều kiện cho các gia đình vươn lên trong cuộc sống. Từ năm 2020 - 2023 đã cất mới và sửa chữa 692 (cất mới 518 căn nhà ĐĐK, sửa chữa 174 căn) vượt kế hoạch giai đoạn 2020 – 2025. Hỗ trợ khám chữa bệnh, học sinh vượt khó; thăm hỏi tặng quà tết, trợ giúp khó khăn đột xuất… cho hàng ngàn lượt người.

TS-vuon-minh-pt-7.jpg

Với khát vọng, quyết tâm xây dựng Thoại Sơn phát triển toàn diện, vượt bậc về mọi mặt, phấn đấu trở thành huyện giàu mạnh hiện đại, văn minh, đời sống Nhân dân ngày càng được nâng cao. Qua 45 năm xây dựng và phát triển, Thoại Sơn giờ đây đã khoác lên mình một diện mạo mới, đầy sức sống, đang vững bước trên con đường phát triển, hướng đến một tương lai tươi sáng hơn.

Kim Cương

Tạo được niềm tin và ủng hộ mạnh mẽ từ Nhân dân, huyện Thoại Sơn đã về đích nông thôn mới nâng cao sớm nhấtAn Giang 190 nămBài viếtKim CươngTạo được niềm tin và ủng hộ mạnh mẽ từ Nhân dân, huyện Thoại Sơn đã về đích nông thôn mới nâng cao sớm nhất/SiteAssets/TS-vuongminh-k2-5.jpg
10/09/2024 6:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Xác định xây dựng NTM là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu, “chỉ có điểm đầu, không có điểm kết thúc”, là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nông thôn, tăng thu nhập của người dân, đầu tư xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng, những năm qua, huyện Thoại Sơn đã có những bước đi và lộ trình thực hiện cụ thể, với những cách làm hiệu quả, giúp cho chương trình xây dựng NTM của huyện phát triển mạnh mẽ, trở thành huyện đi đầu của tỉnh An Giang về xây dựng NTM.

Từ năm 2010, Thoại Sơn chuyển sang một giai đoạn mới, đó là thực hiện công tác an sinh xã hội và xây dựng NTM, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững. Tiếp thu, quán triệt chủ trương, chính sách của cấp trên, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thoại Sơn luôn phát huy trí tuệ tập thể, phân công trách nhiệm rõ ràng cho các đồng chí cấp ủy viên từ huyện đến cơ sở, trong đó, đặc biệt chú ý đến vai trò của người đứng đầu; thận trọng, không nóng vội, mà tiến hành chọn xã điểm chỉ đạo để rút kinh nghiệm. Đồng thời, tập trung chỉ đạo phát triển liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị; thực hiện đề án cơ cấu lại ngành nông nghiệp, đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng công nghệ cao, nhằm nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn, tạo nguồn lực cho đầu tư xây dựng NTM lâu dài; vận dụng linh hoạt và sáng tạo các giải pháp về nguồn vốn và thủ tục đầu tư để thực hiện hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn, tạo sự đột phá cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, an ninh trật tự của địa phương; chú trọng việc xây dựng NTM gắn với việc khai thác triệt để thế mạnh của địa phương.

 TS-vuongminh-k2-1.jpg

Trình diễn máy sạ lúa - Nông dân được tận máy nhìn thấy máy hoạt động, được nhân viên kỹ thuật hướng dẫn cách điều chỉnh máy, lượng giống gieo sạ

Sau 09 năm thực hiện xây dựng NTM, huyện Thoại Sơn đã thật sự thay đổi và phát triển toàn diện: Tốc độ tăng trưởng của huyện bình quân giai đoạn 2011 - 2018 đạt 8,07%/năm, tổng giá trị sản xuất (GO) theo giá thực tế năm 2018 của huyện đạt 19.616 tỷ đồng, trong đó, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 7.679 tỷ đồng; công nghiệp - xây dựng, giá trị sản xuất đạt trên 4.831 tỷ đồng; thương mại, dịch vụ rất ổn định và phát triển; thu ngân sách Nhà nước năm 2018 đạt trên 103% chỉ tiêu tỉnh An Giang giao, tương đương 608 tỷ đồng; thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn huyện đạt trên 47 triệu đồng/người/năm, tăng trên 30 triệu đồng (gấp 3 lần) so với năm 2010; tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn của huyện chỉ còn 1,98%, giảm 2.819 hộ nghèo (tương đương 4,62%) so với năm 2011.

 TS-vuongminh-k2-2.jpg

Mô hình nuôi cá tra tại xã Vĩnh Chánh

Với những thành tựu đã đạt được, huyện Thoại Sơn đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận đạt chuẩn NTM năm 2018, về đích đầu tiên trong tỉnh. Năm 2019, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam cũng xác lập Thoại Sơn là huyện đầu tiên trong cả nước đạt ba danh hiệu: Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới và huyện NTM. Điều đó thể hiện vai trò chỉ đạo đúng hướng, các bước đi trong xây dựng NTM của huyện là phù hợp, hướng tới phục vụ, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của người dân, tạo được niềm tin và ủng hộ mạnh mẽ từ Nhân dân.

 TS-vuongminh-k2-3.jpg

Huyện Thoại Sơn đón Bằng công nhận của Thủ tướng Chính phủ đạt chuẩn Nông thôn mới năm 2018

Ông Trần Hữu Huệ người dân thị trấn Núi Sập cho biết: “Huyện Thoại Sơn trở thành huyện nông thôn mới đầu tiên của cả nước, đó là sự đoàn kết chung sức từ Nhà nước và Nhân dân, để bây giờ huyện tôi rất phát triển những con đường rộng rải, ngôi trường khang trang…, đời sống người dân được nâng lên rất nhiều, mọi người cũng vui vẻ vì được sự quan tâm, chăm lo của Nhà nước, rất tự hào với những tựu của quê hương”.

Sau năm 2018, huyện tiếp tục triển khai nâng chất giữ vững những thành quả đạt được và tiến hành thực hiện các tiêu chí huyện NTM nâng cao. Huyện ủy, UBND huyện đã triển khai Chương trình hành động số 05-CTr/HU ngày 07/12/2020 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thoại Sơn về thực hiện xây dựng huyện NTM nâng cao giai đoạn 2021 - 2025, và UBND huyện đã ban hành Kế hoạch số 21/KH-UBND ngày 20/01/2021 về việc thực hiện lộ trình các xã đạt chuẩn NTM nâng cao, kiểu mẫu và các tiêu chí huyện NTM nâng cao giai đoạn 2021 – 2025. Từ những chủ trương, chính sách trên, không chỉ nhiệt tình, tích cực đóng góp ngày công lao động, của cải vật chất, người dân đóng góp ý kiến vào quá trình thực hiện các chính sách, kế hoạch của địa phương. Được thể hiện rõ nét nhất qua các công trình xây dựng cầu, đường nông thôn, xây nhà đại đoàn kết, các công trình phục vụ nông nghiệp….trong đó, có sự giám sát, kiểm tra của người dân. Điều này tạo sự thống nhất, gắn bó giữa chính quyền địa phương với nhân dân góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của huyện.

 TS-vuongminh-k2-4.jpg

Qua hơn 3 năm, huyện Thoại Sơn đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, hệ thống hạ tầng giao thông nông thôn của huyện không ngừng được đầu tư và mở rộng; kinh tế - xã hội có bước phát triển khá, diện mạo nông thôn có sự thay đổi; đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân được nâng lên. Với quyết tâm phục hồi và phát triển kinh tế, tạo đà để hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Riêng sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản được mùa, được giá nên có mức tăng trưởng khá cao, tiếp tục là bệ đỡ vững chắc cho nền kinh tế. Ước tổng giá trị sản xuất ngành nông, lâm, thủy sản đạt 10.642 tỷ đồng (giá thực tế), tăng 5,46% so năm 2018. Tổng giá trị sản xuất ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đạt 5.855 tỷ đồng (theo giá thực tế), tăng 15,53% so năm 2018.

Là huyện đầu tiên của tỉnh có 100% số xã đạt chuẩn NTM nâng cao. Trong đó, năm 2020 có 08 xã đạt chuẩn NTM nâng cao (Vĩnh Trạch, Thoại Giang, Định Thành, Định Mỹ, Bình Thành, Vọng Đông, An Bình và Vĩnh Phú) và năm 2021 có 06 xã đạt chuẩn NTM nâng cao (Tây Phú, Vọng Thê, Vĩnh Khánh, Mỹ Phú Đông, Vĩnh Chánh và Phú Thuận). Năm 2023 xã Định Thành và Vĩnh Trạch đạt chuẩn xã NTM kiểu mẫu. Có được kết quả đó Huyện ủy, HĐND, UBND đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên, đoàn viên và nhân dân tích cực hưởng ứng cuộc vận động và phong trào thi đua “Toàn dân chung sức xây dựng NTM” đã tạo được sự lan tỏa mạnh mẽ, xuất hiện nhiều mô hình hay như “Hành lang giao thông thông thoáng, mỗi nhà làm hàng rào cây xanh, cột cờ thẳng tắp”, “Ấp tự quản bảo vệ môi trường”, mô hình tiêu biểu gắn với “Dân vận khéo” về xây dựng cầu, đường, nhà, làm kinh tế… góp phần quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, tập hợp quần chúng nhân dân, tạo sự đồng thuận của toàn xã hội trong xây dựng NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu.

Cùng với đó, đã triển khai thực hiện hỗ trợ phát triển sản xuất gắn với mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên 14 xã với 116 mô hình với tổng kinh phí 31 tỷ đồng, trong đó vốn hỗ trợ từ Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng NTM 7,5 tỷ đồng, phát triển 22 sản phẩm đạt OCOP 3 sao trở lên, các sản phẩm chủ lực này được các cơ sở, hộ kinh doanh đưa bán trên các kênh thương mại điện tử góp phần mang lại thu nhập cao cho người sản xuất. Từ đó, hộ nghèo trên địa bàn huyện cuối năm 2023 còn lại là 501/42.938 hộ, chiếm tỷ lệ 1,17% so với năm 2010 giảm 5,43% và giảm 1,93 % so thời điểm được công nhận huyện NTM năm 2018.

Là chủ trang trại nuôi bò thịt tuần hoàn, theo chu trình khép kín đã đem lại thu nhập ổn định cho gia đình và tạo thêm việc làm cho 2 lao động ở địa phương. Ông Diệp An Hòa - ấp Hòa Tân xã Định Thành chia sẻ: “Với tổng số vốn đầu tư 573 triệu đồng, trong đó nguồn kinh phí từ Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng NTM 200 triệu đồng, tôi đầu tư diện tích trang trại 1,5 ha, trong đó 1 ha tôi trồng cỏ và 0,5 ha diện tích chuồng trại và hệ thống làm mát giúp bò phát triển tốt hơn. Nhờ ứng dụng quy trình chăn nuôi tuần hoàn, nguồn phân thải ra trong quá trình chăn nuôi được xử lý bằng chế phẩm sinh học đã trở thành nguồn phân bón cho ruộng cỏ và bán lại cho các hộ trồng cây trong xã”.

Từ những thành tựu quan trọng đó, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Đây không chỉ là thành quả của sự nỗ lực từ phía chính quyền và Nhân dân mà còn là nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững trong tương lai.

 TS-vuongminh-k2-5.jpg

Huyện Thoại Sơn đón Bằng công nhận của Thủ tướng Chính phủ đạt chuẩn Nông thôn mới nâng cao năm 2023

Sáng 9/9, UBND tỉnh An Giang tổ chức Lễ Kỷ niệm 45 năm ngày tái lập huyện Thoại Sơn (23/8/1979 - 23/8/2024) và công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ công nhận huyện Thoại Sơn đạt chuẩn Nông thôn mới nâng cao năm 2023. Thoại Sơn vinh dự  trở thành 1 trong 3 huyện đầu tiên của vùng Đồng bằng sông Cửu Long được công nhận huyện nông thôn mới nâng cao. Tổ chức Kỷ lục Việt Nam cũng đã  trao bằng xác lập Kỷ lục Việt Nam là huyện vận động xã hội hóa được nhiều nguồn quỹ nhất để phục vụ công tác an sinh xã hội (với 31 nguồn quỹ thiện nguyện).

Phát biểu tại Lễ công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ công nhận huyện Thoại Sơn đạt chuẩn Nông thôn mới nâng cao, Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Lê Văn Phước đã ghi nhận, biểu dương những thành tựu mà huyện Thoại Sơn đạt được trong 45 năm tái lập và phát triển. Đồng chí đề nghị: Các cấp uỷ, chính quyền tiếp tục quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo; phát huy vai trò người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể trong tổ chức, triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới tại địa phương; hướng đến xây dựng các xã nông thôn mới nâng cao đạt chuẩn xã nông thôn mới kiểu mẫu trong thời gian tới. Tiếp tục huy động nguồn lực xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại gắn với việc phát triển các đô thị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, nhất là người dân ở nông thôn. Quan tâm phát triển bền vững và bảo vệ môi trường nông nghiệp, nông thôn theo hướng sạch, xanh và bền vững gắn với phát triển du lịch (du lịch tâm linh, du lịch nông nghiệp, du lịch sinh thái, du lịch trải nghiệm..), chuyển đổi số quốc gia. Đặc biệt, triển khai có hiệu quả Đề án “Phát triển bền vững 01 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhằm góp phần nâng cao thu nhập của người dân khu vực nông thôn…

(Còn tiếp) Kỳ cuối: Điểm sáng về chăm lo đời sống Nhân dân

Kim Cương

Thoại Sơn vươn mìnhBài viếtKim CươngThoại Sơn vươn mìnhhttps://www.angiang.dcs.vn/Imagesnews/2019-12/Ho-ong-thoai-1.jpg
08/09/2024 2:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Thấm nhuần quan điểm "lấy dân làm gốc," Đảng bộ huyện Thoại Sơn luôn đặt lợi ích và nguyện vọng của người dân lên hàng đầu trong mọi chủ trương, chính sách. Đảng bộ luôn lắng nghe và đồng hành cùng Nhân dân, còn người dân thì luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện qua việc cùng nhau chung sức vượt qua những khó khăn, gian khó, đồng lòng xây dựng huyện Thoại Sơn đạt được những tựu nổi bật như: Anh hùng lực lượng vũ trang năm 2000, Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới năm 2009 và huyện Nông thôn mới (NTM) năm 2018, huyện NTM nâng cao năm 2023. Chính sự chung sức, đồng lòng ấy đã góp phần xây dựng một Thoại Sơn ngày càng giàu đẹp, văn minh, trở thành niềm tự hào của tất cả những người dân gắn bó với mảnh đất này.

Kỳ 1: Nỗ lực vượt khó, bứt phá vươn lên, xứng danh Anh hùng Lao động

Thoại Sơn chính thức có tên trên bản đồ hành chính từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công. Qua nhiều lần chia tách, sáp nhập địa giới hành chính, ngày 23/8/1979, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 300/CP tái lập huyện Thoại Sơn.

TS-vuon-minh-pt-1.jpg
Cầu Thoại Giang (thị trấn Núi Sập) trước đây

Trong những ngày đầu tái lập, Thoại Sơn phải đối mặt với muôn vàn khó khăn thử thách, là địa phương chịu ảnh hưởng khá nặng nề do hậu quả của chiến tranh để lại nên cơ sở hạ tầng về nông nghiệp, giao thông nông thôn, văn hóa, y tế, giáo dục yếu kém. Với địa hình "sáu tháng mùa khô, sáu tháng đi trên mặt nước", quanh năm người dân đi lại bằng xuồng ghe, kinh tế thuần nông chủ yếu là độc canh cây lúa mùa nổi, đời sống người dân khó khăn, số hộ nghèo chiếm 50%.

Vạn sự khởi đầu nan, với quyết tâm "Phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân", Đảng bộ huyện Thoại Sơn đã lãnh đạo, phát động thi đua lao động sản xuất kinh doanh đưa huyện nhà đi lên bằng sự đoàn kết, cố gắng, nỗ lực vượt khó và sáng tạo trên tinh thần "Dám nghĩ, dám làm, biết làm và dám chịu trách nhiệm".

Ông Hồ Việt Hiệp, nguyên Phó Chủ tịch UBND tỉnh cho biết: Đảng bộ huyện Thoại Sơn luôn trăn trở tìm con đường, hướng đi để vươn lên. Khát vọng đó bùng phát khi tiếp nhận luồng gió đổi mới từ Đại hội lần thứ VI của Đảng và Đại hội Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ IV. Thoại Sơn đã linh động vận dụng một cách sáng tạo, cụ thể các nghị quyết của Tỉnh ủy vào đặc thù của địa phương với quyết tâm đổi mới tạo bước chuyển mình từ sản xuất nông nghiệp.

Trên cơ sở chủ động bàn bạc với dân, đánh giá đúng thực tiễn, huyện đã mạnh dạn giao đất để nông dân tự chủ trong sản xuất; giao máy móc lại cho chủ cũ để sản xuất và làm dịch vụ, xóa bỏ hẳn khái niệm "xâm canh". Những đột phá trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng đã tạo được dấu ấn mạnh mẽ của huyện Thoại Sơn phải kể đến như: Đột phá về cơ chế khoán trong sản xuất nông nghiệp; về cơ chế phân phối, lưu thông làm giàu cho ngân sách huyện; về cơ chế phân phối lương thực nên đã giải quyết được vấn đề ổn định lương thực và thực hiện một số chính sách xã hội, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội...

Xác định thủy lợi là khâu đột phá khai thông huyết mạch cho ngành nông nghiệp, chỉ trong thời gian ngắn huyện đã huy động hàng trăm xáng cạp, máy móc để đào mới 48 tuyến kinh cấp 2, với tổng chiều dài 331.000 m, việc rửa phèn và nguồn nước tưới tiêu được bảo đảm, tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân sản xuất, năng suất và sản lượng lúa tăng lên đáng kể. Đến năm 1990 huyện đã thực hiện thành công chủ trương chuyển vụ, chuyển từ sản xuất lúa một vụ sang hai vụ/năm với hơn 37.000 ha, đã làm tăng vòng quay của đất. Thành công của công tác chuyển vụ tạo ra một bước chuyển mới trong sản xuất, làm cho bộ mặt nông thôn thay đổi nhanh chóng. Đồng thời, đây cũng là tiền đề để giải quyết tốt các vấn đề về văn hóa, giáo dục, y tế... và nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân.

TS-vuon-minh-pt-2.jpg
Thị trấn Núi Sập hiện nay

Giai đoạn từ năm 2000-2005 có thể xem là thời gian đặt nền móng cho việc bứt phá, tăng tốc khi huyện đề ra chiến lược phát triển bằng việc tổ chức thực hiện 13 đề án kinh tế - xã hội như: Xây dựng giao thông nông thôn, xây dựng hệ thống đê bao kiểm soát lũ, xây dựng hệ thống đèn đường với chủ trương "Nhà nước và Nhân dân cùng làm"… Nhờ đó mà các thế mạnh của huyện được phát huy cao độ, những đột phá mạnh mẽ về nông nghiệp, nông thôn, nông dân đã góp phần quyết định đưa Thoại Sơn từ một huyện nghèo, yếu kém ít người biết đến trở thành huyện ở tốp đầu của tỉnh trong phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội.

TS-vuon-minh-pt-3.jpg
Nhiều tuyến đường nông thôn được đầu tư xây dựng khang trang

Đến năm 2008, GDP tăng lên 2.295 tỷ đồng (2003 là 952 tỷ đồng), tốc độ tăng trưởng 15,63% nằm trong tốp đầu của tỉnh. GDP bình quân đầu người đạt hơn 19 triệu đồng/năm tăng gấp 2,37 lần so với năm 2003. Việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, tổ chức sản xuất vụ 3 mang tính đột phá nhằm nâng cao sản lượng, góp phần đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu. Từ đó đã kích thích ngành công nghiệp xây dựng, thương mại và dịch vụ phát triển nhanh tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh, đúng hướng. Kinh tế phát triển tạo điều kiện đầu tư cơ sở hạ tầng, văn hóa xã hội ngày càng mạnh mẽ, chất lượng hoạt động của ngành giáo dục, y tế, văn hóa được nâng lên; công tác an sinh xã hội và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.

Đặc biệt, huyện đã hình thành hệ thống đường giao thông nông thôn với tổng chiều dài 400 km, 197 cây cầu bê tông, cầu treo và gần 270 km đèn đường chiếu sáng nông thôn, tổng kinh phí đầu tư gần 800 tỷ đồng. Đây là bước ngoặt quan trọng để huyện đón nhận danh hiệu "Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới" do Chủ tịch nước phong tặng năm 2009.

(Còn tiếp) Kỳ 2: Tạo được niềm tin và ủng hộ mạnh mẽ từ Nhân dân, huyện Thoại Sơn đã về đích nông thôn mới nâng cao sớm nhất

Kim Cương

Bác Tôn - nhà lãnh đạo yêu nước, thương dânAn Giang 190 nămBài viếtHoàng KỳBác Tôn - nhà lãnh đạo yêu nước, thương dân/SiteAssets/Bithu-tu-danghuong-bacton-24-8.jpg

Hoàng Kỳ (*)

19/08/2024 4:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Chủ tịch Tôn Đức Thắng - nhà lãnh đạo mẫu mực, người cộng sản kiên trung, người bạn chiến đấu thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời - suốt đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với 92 tuổi đời, gần 70 năm liên tục hoạt động cách mạng, được Đảng, Nhà nước phân công giữ nhiều trọng trách, Chủ tịch Tôn Đức Thắng là người chiến sĩ kiên cường và mẫu mực, vị lãnh tụ kính mến và thân thiết, trọn đời đấu tranh vì độc lập, tự do cho Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân. Đồng chí là tấm gương sáng để các thế hệ học tập, noi theo.

Bithu-tu-danghuong-bacton-24-8.jpg

Lãnh đạo tỉnh dâng hương nhân kỷ niệm 136 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng

Cách đây 136 năm, ngày 20/8/1888, Chủ tịch Tôn Đức Thắng được sinh ra trong một gia đình nông dân ở Cù lao Ông Hổ, làng An Hòa, tổng Định Thành Hạ, hạt Long Xuyên, nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Thân phụ là cụ Tôn Văn Đề và thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Dị, đều là những nông dân cần cù, hiền lành, chất phác. 

Tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc

Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng sôi nổi, phong phú, đầy gian lao, thử thách và vinh quang của Chủ tịch Tôn Đức Thắng mà đồng bào, đồng chí trìu mến gọi là Bác Tôn gắn liền với lịch sử đấu tranh oanh liệt của dân tộc ta trong thế kỷ XX. Là người con ưu tú của quê hương An Giang giàu truyền thống yêu nước anh hùng và cách mạng, ngay từ khi còn là học sinh, Đồng chí đã sớm giác ngộ cách mạng, tham gia phong trào yêu nước chống thực dân Pháp. Trong những năm tháng tuổi trẻ bôn ba ở nước ngoài, hoạt động trong phong trào công nhân Pháp, Đồng chí đã tham gia cuộc nổi dậy của Hải quân Pháp ở Biển Đen ngày 20/4/1919, ủng hộ cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, chống sự can thiệp vũ trang của các nước đế quốc đối với Nhà nước Xôviết non trẻ, góp phần bảo vệ thành trì của cách mạng vô sản thế giới.

Năm 1920, Bác Tôn đã bí mật tổ chức, tập hợp lực lượng công nhân, thành lập Công hội bí mật với mục đích là đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau và đấu tranh chống áp bức bóc lột của chính quyền thực dân, bênh vực quyền lợi của công nhân, từng bước chuyển phong trào công nhân Việt Nam từ giai đoạn "tự phát" sang giai đoạn "tự giác", tạo nên cơ sở xã hội quan trọng để giai cấp công nhân vươn lên tiếp nhận học thuyết cách mạng, khoa học, tiên tiến của thời đại.

Những năm tháng bị tù đày gian khổ trong ngục tù đế quốc, lòng yêu nước, thương dân không ngừng được hun đúc trong con người Tôn Đức Thắng với đức hy sinh và tình thương yêu đối với đồng chí, anh em. Hình ảnh người chiến sĩ cách mạng chân chính, gần gũi, phương pháp thuyết phục, sự quan tâm chăm sóc sức khỏe các bạn tù, đồng thời vững vàng, gan góc trước bọn cai ngục, thậm chí sẵn sàng che thân hứng chịu những trận đòn roi tàn bạo của kẻ thù để che chở cho đồng chí, đồng đội đã tạo sự cảm phục, tin yêu đối với tù nhân. Đồng chí đã tổ chức sáng lập Chi bộ đặc biệt ở Nhà tù Côn Đảo và trở thành một trong những người lãnh đạo của các tù nhân Côn Đảo. Cùng với các chiến sĩ cộng sản khác, Đồng chí đã tích cực đấu tranh đòi cải thiện điều kiện sinh hoạt và biến chốn lao tù đế quốc tăm tối, tàn bạo thành trường học cách mạng.

Cách mạng Tháng Tám thành công, từ nhà tù Côn Đảo trở về, vừa đặt chân lên đất liền, Bác Tôn đã tham gia ngay vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tháng 3/1946, Bác Hồ và Chính phủ đón Bác Tôn ra Hà Nội. Bác được Đảng, Nhà nước phân công đảm nhận nhiều trọng trách quan trọng: Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch danh dự Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Chủ tịch Hội Việt - Xô hữu nghị, Ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới, Phó Chủ tịch nước. Ngày 22/9/1969, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa III, Đồng chí được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất vào tháng 7/1976, Đồng chí được bầu làm chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng chí từ trần ngày 30/3/1980 tại thủ đô Hà Nội, hưởng thọ 92 tuổi.

Bithu-tu-danghuong-bacton-24-9.jpg

Lãnh đạo tỉnh dâng hương nhân kỷ niệm 136 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng

Nhà lãnh đạo mẫu mực, nghĩa tình và liêm khiết

Bác Hồ từng dạy: "Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa" và chính Bác Tôn đã lĩnh hội chủ nghĩa Mác - Lênin theo tinh thần nhân văn cao cả đó: Bác thương những người ruột thịt trong gia đình, bà con hàng xóm, thương những người thợ cùng làm, cùng cảnh ngộ, thương đồng bào bị bóc lột, đàn áp; sống chí tình, chí nghĩa với đồng chí, bạn bè.

Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng khẳng định: Bác Tôn muốn sống như một con người thật bình thường. Chính vì thế, Bác Tôn vĩ đại... Bác thích một vị trí đảng viên cộng sản như mọi đảng viên, thích vị trí công dân trung thực, lương thiện, cố mang điều tốt, cố mang niềm vui, cố giảm nỗi đau cho đồng bào. Nhớ Bác Tôn, nhớ bài học mà Bác lấy cả đời mình làm mẫu, chính là tìm cái vĩ đại trong cái bình thường của một con người coi như đơn giản mà cực kỳ phức tạp khó khăn đối với những ai nắm quyền trong tay.

Trải qua nhiều trọng trách được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó, Bác Tôn là tấm gương mẫu mực về tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh cách mạng kiên cường, lòng trung thành, tận tụy; đạo đức trong sáng, mẫu mực, đức tính khiêm tốn, giản dị; tình thương yêu đồng chí, đồng bào; tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc và tình đoàn kết quốc tế vô sản trong sáng.

Trên cương vị Chủ tịch nước, dù bận rất nhiều công việc, Bác Tôn vẫn quan tâm thăm hỏi, động viên các đồng chí thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ. Hằng năm, vào dịp Ngày thương binh, liệt sĩ 27/7, Bác thường gửi thư thăm hỏi ân cần đến các đồng chí thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội. Bác động viên anh em yên lòng chữa bệnh và nhắc nhở cán bộ, nhân viên điều trị hết lòng chăm sóc, chữa bệnh cho anh em thương binh, bệnh binh.

Trong cuộc sống hằng ngày, Bác Tôn rất khiêm tốn, giản dị, thanh bạch, liêm khiết, chính trực và nghĩa tình. Bác ghét thói đặc quyền, đặc lợi, không bao giờ lợi dụng vị trí công tác của mình để mưu cầu hạnh phúc riêng cho gia đình, cá nhân. Cả ba lần Trung ương định xây nhà cho Bác và người thân, nhưng Bác đều từ chối. Bác cho rằng, trong khi đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, mình ở như thế là tốt lắm rồi. Bác chỉ ở cùng gia đình trong căn nhà số 35, Trần Phú, Hà Nội. Sau khi Bác gái qua đời, khi thấy mình tuổi đã cao, Bác Tôn liền đề nghị chuyển gia đình các con ra ngoài ở để chuẩn bị sau này khi Bác qua đời, dễ bề trả lại ngôi nhà cho Nhà nước. Một hành động nhỏ nhưng chứa đựng cả một triết lý nhân sinh vô cùng cao đẹp, thể hiện nếp sống giản dị, liêm khiết của vị Chủ tịch nước đáng kính.

Có lần, một cán bộ chuẩn bị vượt Trường Sơn về Nam công tác, trước khi rời Hà Nội đồng chí đến thăm sức khỏe và chào Bác Tôn. Hôm đó thấy Bác mặc chiếc áo cũ bị rút ngắn, Bác may nối thêm một khúc. Đồng chí hỏi: "Bác ơi, làm Chủ tịch nước sao Bác mặc áo cũ nối thế này?". Bác cười độ lượng trả lời: "Chủ tịch nước mặc áo nối thì dân mới có đủ cơm ăn". Đồng chí rưng rưng nước mắt trước tấm lòng yêu nước, lo cho dân của Bác Tôn. Niềm vui và nỗi đau của đất nước chính là nhịp đập chung của trái tim giàu lòng nhân ái, cả cuộc đời chăm lo cho sự nghiệp chung, không màng danh vọng cá nhân.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng vẻ vang của mình, dù gặp muôn vàn gian nan, thử thách, Bác Tôn luôn nêu cao khí phách của người chiến sĩ cách mạng, một lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Tấm gương sáng ngời của Chủ tịch Tôn Đức Thắng là hiện thân tiêu biểu cho tính cách, khí chất, phong thái và nét văn hóa đặc sắc của người Nam Bộ nói chung và An Giang nói riêng: Thương người, hào sảng, trọng nghĩa, bao dung độ lượng, hết lòng vì bạn bè, đồng chí, dũng cảm, mưu trí, vượt mọi khó khăn trở ngại vì nghĩa lớn. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận xét: "Di sản quý nhất mà đồng chí Tôn Đức Thắng để lại cho Nhân dân là chất NGƯỜI Tôn Đức Thắng, sản phẩm tổng hợp của chất hào hiệp Nam Bộ, chất kiên cường và tài năng sáng tạo Việt Nam, chất tiên phong của giai cấp công nhân, chất cách mạng của người yêu nước, người cộng sản, chất nhân đạo của con người. Tinh túy của chất ấy là lòng yêu nước, thương dân, niềm ưu ái với đồng bào, đồng chí; niềm tin sắt đá vào thắng lợi của cách mạng, mặc dù mọi khó khăn gian khổ, tinh thần một lòng một dạ phục vụ Nhân dân, đức chí công vô tư quên mình, sự khiêm tốn, giản dị, hồn nhiên, trong sáng"[1].

Năm 1958, nhân kỷ niệm sinh nhật lần thứ 70 của Bác Tôn (20/8), Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định tặng Bác Tôn Huân chương Sao Vàng. Tại lễ trao tặng, trước khi gắn tấm Huân chương Sao Vàng lên ngực áo Bác Tôn, Bác Hồ rất vui và xúc động phát biểu: "Đồng chí Tôn Đức Thắng là người con ưu tú của Tổ quốc, suốt 50 năm đã không ngừng hoạt động cách mạng. 17 năm bị thực dân Pháp cầm tù, chín năm tham gia lãnh đạo kháng chiến, bốn năm phấn đấu để bảo vệ hoà bình thế giới và đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà. Đồng chí Tôn Đức Thắng 70 tuổi nhưng rất trẻ, đối với Đảng, đồng chí là 28 tuổi; đối với nước Việt Nam độc lập, đồng chí là 13 tuổi... Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: Suốt đời cần kiệm liêm chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân… Thay mặt Nhân dân và Chính phủ, tôi trân trọng trao tặng đồng chí Tôn Đức Thắng Huân chương Sao Vàng, là Huân chương cao quý nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà đồng chí Tôn Đức Thắng là người đầu tiên và là người rất xứng đáng được tặng Huân chương ấy".

Bac-Ton-nhan-huanchuongsaovang.jpg

Trái tim luôn hướng về quê hương

Sớm thoát ly gia đình tham gia hoạt động cách mạng nên tình yêu và nỗi nhớ quê hương luôn da diết khôn nguôi, Bác luôn dành những tình cảm sâu nặng đối với quê hương. Trong trái tim Bác lúc nào cũng nghĩ tới đồng bào Miền Nam, về quê hương An Giang ruột thịt. Vào dịp Tết nguyên đán, hội đồng hương Long Châu Hà thường tổ chức họp mặt, Bác đều đến dự. Bác ân cần hỏi thăm sức khỏe mọi người, âu yếm ôm hôn các bé, tặng quà và nói chuyện thân mật với những người họp mặt. 

Trong bài viết gởi về miền Nam nhân dịp Quốc khánh 2/9/1959, Bác tâm sự: "Có những đêm khuya, bên bàn làm việc, có những buổi mai vừa thức giấc, hoặc những buổi chiều suy nghĩ, bâng khuâng, nhìn tấm bản đồ nước ta, hình dung non sông gấm vóc từ Nam Quan đến Cà Mau liền một dải, sao đôi mắt mình bỗng mờ đi khi dừng lại ở ranh giới giả tạo mà quân thù Mỹ - Diệm cố tình chia cắt nước ta".

    Phát biểu tại Hội nghị chính trị đặc biệt ngày 27/3/1964, trên cương vị Phó Chủ tịch nước, Bác Tôn chia sẻ: "Tôi muốn được nói với đồng bào miền Nam rằng, từng giờ, từng phút tôi luôn nghĩ đến miền Nam ... nhớ đến đồng bào miền Nam ruột thịt đã chịu bao đau thương tang tóc, đang chiến đấu anh dũng chống bọn cướp nước hại dân vô cùng hung ác. Tôi muốn được sát cánh với đồng bào trong cuộc đấu tranh, cùng đồng bào chia sẻ những gian khổ hy sinh để giải phóng quê hương yêu dấu nhưng đáng tiếc là chưa có điều kiện".

Sau bao năm xa cách, tháng 10/1975, Bác Tôn có dịp về thăm quê hương An Giang. Chuyến về thăm quê tuy ngắn ngủi nhưng hết sức xúc động. Trong buổi họp mặt đại biểu nhân dân An Giang, Bác Tôn xúc động nói: "Hôm nay, Đảng và Nhà nước cho phép tôi về thăm quê nhà. Chưa bao giờ tôi thấy sung sướng như lúc này, khi cả nước được độc lập, tự do, Bắc - Nam thống nhất. Tôi chẳng mong gì hơn là An Giang trở thành tỉnh xuất sắc, giàu mạnh, Nhân dân được ấm no, ai cũng được học hành như Bác Hồ mong muốn trong Di chúc lịch sử của Người".

Tinh hoa dân tộc, cốt lõi miền đất phóng khoáng và mộc mạc An Giang, tính cách người thợ thành phố Sài Gòn và phong trào công nhân, chủ nghĩa Mác -Lênin, lý tưởng cộng sản, trí tuệ và đức độ Hồ Chí Minh - tất cả tổng hợp nên một Tôn Đức Thắng, gia tài của dân tộc, của Nam bộ và An Giang.

An Giang học tập và làm theo tấm gương Bác Tôn

Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương, học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Tôn, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang  không ngừng đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, phát huy ý chí tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung, vận dụng sáng tạo những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với đặc điểm, tình hình của địa phương, đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân ngày càng cải thiện, quốc phòng – an ninh được đảm bảo.

Từ một tỉnh thiếu lương thực trong những năm đầu sau giải phóng, đến nay An Giang trở thành một trong các tỉnh đứng đầu cả nước về sản lượng, góp phần đảm bảo an ninh lương lực quốc gia và xuất khẩu, sản lượng lúa duy trì khoảng 04 triệu tấn/năm. Giai đoạn 2000 - 2023, tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì mức bình quân 7,3%/năm, cao hơn mức bình quân chung của cả nước. GRDP bình quân đầu người năm 2023 ước đạt 60,55 triệu đồng/người/năm.

Cùng với phát triển kinh tế, công tác an sinh xã hội luôn được cấp ủy, chính quyền đặc biệt quan tâm, thật sự trở thành điểm sáng, niềm tự hào của địa phương. Đến nay, tỉnh đã cơ bản xây dựng hệ thống an sinh xã hội khá đồng bộ, nhất là các chính sách về tạo việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu cho người dân; cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, chính sách ưu đãi đối với người có công.

Học tập lối sống nhân hậu, nghĩa tình của Bác Tôn, những năm qua An Giang phát triển đa dạng các mô hình xã hội từ thiện dựa vào cộng đồng, góp phần chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân: Cất nhà Đại đoàn kết, xây cầu, làm đường, các công trình công cộng, nghĩa trang nhân dân... được đông đảo Nhân dân đồng tình, ủng hộ. Chỉ riêng giai đoạn 2020 - 2023, quỹ "Vì người nghèo" các cấp trong tỉnh đã tiếp nhận tiền và hiện vật trị giá trên 307, 2 tỷ đồng. Kết quả chi hỗ trợ sửa chữa, cất mới hàng ngàn căn nhà Đại đoàn kết; thăm hỏi, tặng quà cho hộ nghèo; trợ giúp khó khăn đột xuất; trợ giúp học sinh học khó khăn; hỗ trợ khám bệnh cho người nghèo; thực hiện chương trình an sinh xã hội,v.v.. Toàn tỉnh hiện có trên 200 xe chuyển bệnh miễn phí, trong đó 180 xe chuyên dụng, trị giá trên 120 tỷ đồng. Tất cả 11 huyện, thị xã, thành phố đều phát triển mô hình mua xe chuyển bệnh bằng hình thức xã hội hóa.

Thời gian tới, để đẩy mạnh học tập và làm theo Bác Tôn về tấm lòng yêu nước, thương dân, An Giang sẽ tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội xác định chăm lo đời sống nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và thực hiện với quyết tâm chính trị cao hơn. Theo đó, các cấp ủy tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các cấp, các địa phương, cơ quan, đơn vị có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm không ngừng nâng cao đời sống của vật chất và tinh thần của Nhân dân. Tập trung, nỗ lực, huy động tốt các nguồn lực của Nhà nước và cộng đồng xã hội để xây dựng quê hương An Giang ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Thứ hai, mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự quý trọng dân, thương yêu, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân. Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của Đảng và của Nhân dân lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình; hết lòng hết sức phục vụ Nhân dân; luôn khắc sâu vào tâm trí mình đạo lý "yêu nước, thương dân", phải "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân". Mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của Nhân dân.

Thứ ba, việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm; việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh, tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh. Trong nhận thức và hành động, mỗi cán bộ, đảng viên tuyệt đối không xâm phạm đến lợi ích, quyền lợi hợp pháp, không xúc phạm Nhân dân. Nêu cao ý thức tôn trọng và giữ gìn của công và của Nhân dân. Không được phung phí thời gian, nhân lực vật lực của dân, tránh làm những điều có hại cho đời sống nhân dân. Thường xuyên nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng và kịp thời giải quyết những khó khăn, bức xúc của dân, phải biết giúp đỡ Nhân dân.

Thứ tư, dựa vào dân, đem tài dân, sức dân, của dân, trí dân để làm lợi cho dân. Mục đích của phát triển kinh tế - xã hội suy đến cùng là phục vụ Nhân dân, do đó phải động viên toàn dân, dựa vào dân, biết phát huy sức người, sức của, tinh thần làm chủ, tổ chức và giáo dục Nhân dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của Nhân dân và tạo điều kiện cho Nhân dân tự xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc của mình.

Thứ năm, thực hiện tốt phong trào thi đua chăm lo đời sống nhân dân. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức phát động, triển khai thực hiện nghiêm túc phong trào thi đua sâu rộng trong mỗi đơn vị, địa phương, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân phong trào chung tay chăm lo đời sống nhân dân. Các tập thể, cá nhân phải có kế hoạch cụ thể, thiết thực để cùng đồng hành chăm lo tốt đời sống nhân dân, đảm bảo cho mọi người có cuộc sống ngày càng no ấm, văn minh, an toàn và tiến bộ. Phát triển đa dạng các mô hình xã hội từ thiện, đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia giúp đỡ những người yếu thế, coi trọng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Kỷ niệm 136 năm Ngày sinh Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng là dịp để chúng ta ôn lại, tưởng nhớ, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với công lao to lớn của Người đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc Việt Nam. Với quyết tâm chính trị cao của các cấp ủy, cùng với sự đoàn kết, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, chúng ta tin tưởng rằng việc học tập và làm theo tấm gương Bác Tôn sẽ tiếp tục đạt nhiều kết quả to lớn hơn nữa và ngày càng thấm sâu, lan tỏa "như muôn mạch nước nhỏ hòa thành dòng sông lớn" để những điều tử tế, tốt đẹp trong cuộc sống ngày càng được vun đắp và phát huy, góp phần chăm lo đời sống nhân dân An Giang ngày càng ấm no, hạnh phúc, xứng đáng là quê hương của Chủ tịch Tôn Đức Thắng./.

                                                                    (*) TS Lê Hồng Quang

                                                               Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,

                                                                               Bí thư Tỉnh ủy An Giang

____________

[1] Phạm Văn Đồng: Bác Tôn - Nhà cách mạng bất tử, trong cuốn Tôn Đức Thắng, người cộng sản mẫu mực, biểu tượng của đại đoàn kết (Hồi ký), Nxb. Chính trị quốc gia, H.2003, tr.24.

Bác Tôn - một “gương mẫu đạo đức cách mạng”An Giang 190 nămBài viếtQ.HBác Tôn - một “gương mẫu đạo đức cách mạng”/SiteAssets/Chutich-tonducthang-24.jpg
16/08/2024 4:00 CHNoĐã ban hành

​(TUAG)- Chúc mừng Bác Tôn thọ 70 tuổi (1958), Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân". Cả cuộc đời trọn vẹn phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Bác Tôn để lại cho hậu thế biểu tượng sáng ngời về “chất cách mạng tinh khiết không gì làm phai nhạt được, từ thuở thanh niên đến cuối đời, vượt qua muôn trùng thử thách, ngày càng ngời lên vẻ đẹp đẽ và cao quý” (Phạm Văn Đồng).

Chutich-tonducthang-24.jpg

Miền quê Mỹ Hòa Hưng hiền hòa ven bờ sông Hậu đón tiếng khóc chào đời của người con ưu tú Tôn Đức Thắng vào ngày 20 tháng 8 năm 1888. Sinh trưởng trong một gia đình nông dân khá giả, sau khi tốt nghiệp bậc học cơ sở ở Long Xuyên, năm 1906, chàng thanh niên Tôn Đức Thắng đến với thành phố Sài Gòn để học việc và trở thành người thợ máy. Ở đây, Người đã sớm tham gia và hòa nhập cuộc sống của những người thuộc lớp cần lao.

Năm 1912, Tôn Đức Thắng tham gia lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân xưởng Ba Son và vận động học sinh Trường Bách Nghệ Sài Gòn bãi khóa. Những cuộc đấu tranh đầu tiên đó của giai cấp công nhân đã giành được thắng lợi và biểu lộ sức mạnh của lực lượng xã hội mới, làm cho bọn thống trị phải lo lắng và hoảng sợ. Để tránh sự truy nã của bọn chúng, Tôn Đức Thắng sang làm thợ máy tại một quân cảng ở miền nam nước Pháp và trở thành “người công nhân Việt Nam đầu tiên hoạt động trong phong trào công nhân Pháp và xây dựng mối tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt-Pháp”[1].

Tháng 4/1919, người thợ máy Tôn Đức Thắng đã cùng với anh em binh lính Pháp kéo lá cờ đỏ phản đối chiến tranh lên trên chiến hạm Phrăng-xơ trước cửa thành Xê-vat-tô-pôn. Bằng hành động đó, Tôn Đức Thắng là một trong những người Việt Nam đầu tiên tham gia đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng tháng Mười và xây đắp tình hữu nghị Việt-Xô. Sau này, qua lãnh đạo công nhân Ba Son bãi công, kéo dài thời gian sửa chữa đô đốc hạm Mitchelet đang trên đường sang đàn áp cách mạng Trung Quốc, Bác Tôn lại một lần nữa trở thành lớp người đầu tiên xây đắp tình đoàn kết Việt-Trung.

Năm 1920, đồng chí Tôn Đức Thắng trở về Tổ quốc và Người tiếp tục cuộc đời làm thợ và lao ngay vào những hoạt động yêu nước và cách mạng.

Trong những năm 1920-1921, cùng với một số người cùng chí hướng, đồng chí Tôn Đức Thắng đã sáng lập và là Hội trưởng tổ chức Công hội bí mật đầu tiên ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Đây được xem là tổ chức tiên tiến nhất trong lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam cho đến thời điểm này, chuẩn bị tiền đề để đưa giai cấp công nhân Việt Nam từng bước lên vũ đài chính trị. Từ năm 1925, Công hội bí mật là cơ sở cho sự phát triển của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Sài Gòn và Nam Bộ, giữ vai trò quan trọng giúp cho giai cấp công nhân Việt Nam tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin. Do đó, cùng với lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Tôn Đức Thắng là lớp người đầu tiên tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào giai cấp công nhân Việt Nam và tham gia hoạt động tích cực trong quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Gần 17 năm bị tù đày, trong đó có 15 năm bị tù đày ở "địa ngục" Côn Đảo là thử thách lớn trong cuộc đời người chiến sĩ cách mạng Tôn Đức Thắng. Trong những tháng năm thử thách khốc liệt, Tôn Đức Thắng luôn tỏ rõ là một người cách mạng chân chính, có nghị lực phi thường, trung thành vô hạn với Đảng, với cách mạng. Bản lĩnh và hành động của Người làm kẻ thù phải e dè, kính nể, đồng chí, bạn bè càng quý trọng, kính phục. Tôn Đức Thắng chiến thắng kẻ thù ngay trong lòng nó.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Tôn Đức Thắng và các chiến sĩ cách mạng được đón về đất liền và tiếp tục công cuộc kháng chiến kiến quốc, chống thực dân Pháp đến ngày toàn thắng. Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, giành độc lập - tự do - thống nhất Tổ quốc, Người đã dành những tình cảm sâu nặng nhất cho cuộc chiến đấu cực kỳ gian khổ của đồng bào miền nam, ra sức cùng với toàn Đảng, Nhà nước tăng cường lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc - hậu phương lớn của công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, để làm tròn nghĩa vụ đối với miền nam tiền tuyến lớn anh hùng.

Là Đại biểu Quốc hội từ khóa I (1946) đến khóa V (1980), liên tục là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ năm 1951-1980, đồng chí Tôn Đức Thắng đã được Đảng và Nhà nước ta đề cử giữ nhiều trọng trách: Trưởng Ban Thường trực Quốc hội (9/1955), Phó Chủ tịch nước (1960) và đồng chí vinh dự được bầu làm Chủ tịch nước (1969-1980) - kế nhiệm Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trong những cương vị trọng trách của mình, cùng với Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, đồng chí Tôn Đức Thắng đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đồng chí Tôn Đức Thắng là người đầu tiên được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Sao Vàng – Huân chương cao quý nhất của nước ta – do đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng.

Tháng 12/1955, đồng chí Tôn Đức Thắng là người Việt Nam đầu tiên vinh dự được Ủy ban giải thưởng Hòa bình Quốc tế Lênin của Liên Xô trao tặng giải thưởng Lênin Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc.

Tháng 11/1967, do những cống hiến lớn lao với sự nghiệp hòa bình thế giới. Đoàn Chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô quyết định tặng đồng chí Tôn Đức Thắng huân chương Lênin - huân chương cao quý nhất của Nhà nước Liên Xô. Vinh dự đặc biệt đó không chỉ dành cho đồng chí Tôn Đức Thắng, mà còn là vinh dự chung cho cả nhân dân Việt Nam ta.

Lẽ tất nhiên chẳng phải ai muốn cũng trở thành vĩ nhân. Chỉ có những người gian truân trong khổ luyện, nhiệt thành trong cống hiến, dạt dào tình yêu thương mới có thể hòa nhập vào quần chúng nhân dân mà tỏa sáng. Bác Tôn của chúng ta là người như thế. Cả cuộc đời Bác, từ lúc sinh ra trong một gia đình khá giả đến khi trường kỳ nếm trải gian khổ của cuộc đời cách mạng, cả lúc trở thành người đứng đầu Nhà nước ta, xuyên suốt là một quá trình nỗ lực tự rèn luyện đức và tài.

Đó là cuộc đời của một học trò sau khi mãn khóa không chọn con đường làm thầy thông, thầy ký cốt sao “béo tấm thân, phì gia đình, lợi dòng tộc” mà chọn con đường làm thợ, mà lại là thợ rất giỏi tay nghề, để rồi trở thành người sáng lập công hội đỏ - tổ chức cách mạng tiên phong của công nhân Việt Nam. Sự lựa chọn bắt nhịp đúng với xu thế thời đại của anh thanh niên Hai Thắng cho chúng ta thấy rằng thanh niên cần phải có một cái đầu “tỉnh” và lá gan “dũng cảm” để biết loại bỏ những cám dỗ lợi ích vật chất trước mắt, chọn đúng đường đi cho mình - con đường mà đích đến sẽ là lòng tri ân và tôn kính của người đời vì những đóng góp cho xã hội.

Đó là cuộc đời của một nhà hoạt động cách mạng không nề hà khó khăn, ngại khổ cực. Một người mà đến khi đứng đầu Nhà nước ta vẫn giản dị trong chiếc áo vá nối miễn sao nhân dân no ấm. Một người chứa trong mình ngọn lửa kiên trung sắt đá và cao ngất dũng khí của hào kiệt Lạc Việt ngàn đời, tỏa sáng ngay trong nơi tối tăm nhất - nhà tù thực dân.

Đó là một con người suốt đời rèn luyện đạo đức cách mạng, suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Mặc dù là người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Tôn Đức Thắng lúc nào cũng giữ được phong cách công nhân trong sáng của mình: khiêm tốn, giản dị, chân thành, luôn hòa mình trong quần chúng. Người luôn đi sâu đi sát cơ sở, lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân và kiểm tra hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Mặc khác, không những bản thân gương mẫu thực hiện, mà Người còn luôn luôn căn dặn, nhắc nhở, giáo dục cán bộ lãnh đạo các cấp chính quyền từ Trung ương đến cơ sở phải hết lòng vì dân, vì nước và luôn phải coi nhân dân là gốc của cách mạng. Bác Tôn - một người mà đạo đức đã phục được nhân tâm của quảng đại nhân dân Việt Nam, trở thành người tiêu biểu cho chính sách đại đoàn kết của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bác Tôn luôn là con người của hành động, từ những hành động mang tính tự phát được kích thích bởi tấm lòng yêu nước, ủng hộ lẽ phải đến những đấu tranh không mệt mỏi cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam, rộng hơn là cách mạng thế giới. Đó là một người giản dị nhưng vĩ đại!


Nguồn: Báo Nhân dân

...............

[1] Tỉnh ủy An Giang - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Tôn Đức Thắng với cách mạng Việt Nam và quê hương An Giang, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004, tr. 186.


Dấu ấn Thoại Sơn qua 45 năm tái lập huyệnAn Giang 190 nămBài viếtTTCTTTDấu ấn Thoại Sơn qua 45 năm tái lập huyện/Imagesnews/2019-12/Ho-ong-thoai-1.jpg
08/08/2024 5:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Trong hành trình xây dựng và phát triển qua 45 năm tái thành lập, Đảng bộ huyện Thoại Sơn phát huy truyền thống đoàn kết, huy động nguồn lực từ niềm tin, sự đồng lòng, ý chí và khát vọng vươn lên, đạt được những thành tựu nổi bật trên nhiều lĩnh vực. Dấu ấn nổi bật nhất chính là đổi mới phong cách lãnh đạo, tinh thần quyết tâm, sáng tạo, lựa chọn chính xác những mục tiêu trọng điểm, những nhiệm vụ trọng tâm để tập trung chỉ đạo và hoàn thành thắng lợi xây dựng huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.


Thoại Sơn là vùng đất có bề dày lịch sử và giàu truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm. Qua hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Thoại Sơn đã trở thành căn cứ địa cách mạng vững chắc nuôi dưỡng phong trào cách mạng; nơi đây đã in đậm dấu ấn của các chiến công vang dội, góp phần quan trọng trong công cuộc giải phóng quê hương. Sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, quân dân Thoại Sơn lại ra sức đóng góp sức người, sức của cho cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia. Biết bao người con yêu dấu của Thoại Sơn đã ngã xuống hoặc để lại một phần máu xương nơi chiến trường ác liệt. Toàn huyện có 3.886 người có công, trong đó có 709 liệt sĩ; 299 thương binh, 44 mẹ Việt Nam Anh hùng; 3 anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân….

Sau khi huyện được tái thành lập năm 1979, qua nhiều giai đoạn khó khăn, thách thức, Đảng bộ, quân và dân Thoại Sơn luôn nỗ lực, kiên trì trong từng bước đi, cách làm đưa Thoại Sơn từ một vùng quê nghèo, đã làm nên những điều kỳ diệu. Kinh tế - xã hội có những bước phát triển vượt bậc, bảo đảm quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, là lá cờ đầu trong xây dựng nông thôn mới, đóng góp cho sự phát triển chung của tỉnh An Giang.

Dấu ấn đậm nét nhất phải kể đến là quá trình xây dựng nông thôn mới. Xác định xây dựng nông thôn mới “Có điểm khởi đầu, không có điểm kết thúc”, ngay từ năm 2010, Thoại Sơn đã đẩy mạnh thực hiện Phong trào thi đua “An Giang chung sức xây dựng nông thôn mới” mang lại nhiều kết quả tích cực, đến năm 2019, huyện Thoại Sơn được Thủ tướng Chính phủ Quyết định công nhận đạt chuẩn huyện nông thôn mới. Không dừng lại, Thoại Sơn tiếp tục duy trì, nâng chất chuẩn nông thôn mới đạt được, đến nay huyện đạt chuẩn “Huyện Nông thôn mới nâng cao” theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh.


Nếu như năm 1979 nền kinh tế chủ yếu là thuần nông với tỷ trọng nông nghiệp chiếm trên 85% thì đến nay, tỷ trọng khu vực nông, lâm, thủy sản chiếm tỷ trọng 46,15%; công nghiệp - xây dựng chiếm 19,16% và thương mại - dịch vụ chiếm 34,69%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 73,5 triệu đồng/người/năm và giá trị sản xuất bình quân/ha đất nông nghiệp đạt 215 triệu đồng/ha,  tỉ lệ hộ nghèo giảm dần theo hàng năm, dự kiến đến cuối năm 2024 giảm còn 0,74%. Hệ thống hạ tầng giao thông nông thôn của huyện không ngừng được đầu tư và mở rộng với 435km là đường nhựa, bê tông nhựa, 75km đường bê tông xi măng, 3.186 cầu bê tông đã kết nối với tỉnh và thông suốt từ huyện đến các xã, thị trấn.

Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, các cấp lãnh đạo của huyện và toàn hệ thống chính trị luôn quan tâm đến các chương trình xã hội mang tính nhân văn. Đến nay, đã vận động các mạnh thường quân đóng góp trên 57 tỷ đồng, để thành lập 31 nguồn quỹ trên địa bàn huyện và được Viện Kỷ lục Việt Nam công nhận Thoại Sơn là “Huyện xây dựng và vận động xã hội hoá được nhiều nguồn Quỹ nhất để phục vụ công tác an sinh xã hội và xoá đói giảm nghèo, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân trên địa bàn”. Đời sống văn hoá và tinh thần người dân này càng nâng cao, Thoại Sơn giữ gìn và phát huy tối đa các di tích cấp Quốc gia, di tích cấp tỉnh, Di sản văn hóa phi vật thể, đặc biệt là Di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Óc Eo-Ba Thê (An Giang).


Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có chuyển biến tiến bộ trên nhiều mặt. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện luôn ra sức thực hiện phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Chỉ đạo nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo chuẩn và bố trí sử dụng cơ bản phù hợp với trình độ đào tạo và sở trường nên chất lượng có nâng lên; công tác kiểm tra giám sát được các cấp ủy lãnh đạo thực hiện chặt chẽ, kịp thời ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, sai phạm và nâng lên tinh thần trách nhiệm, tiêu biểu, nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Những ngày đầu thành lập Đảng bộ huyện chưa đến 100 đồng chí đảng viên thì đến nay toàn Đảng bộ đã có 4.708 đồng chí với 56 chi, đảng bộ cơ sở, Đảng bộ huyện liên tiếp nhiều năm liền được công nhận trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu.

Ghi nhận công lao, thành tích vượt trội của huyện Thoại Sơn trong kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ đổi mới, trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đến nay, huyện Thoại Sơn vinh dự và tự hào được Nhà nước phong tặng là huyện đầu tiên trong cả nước đạt cả 3 danh hiệu: Anh hùng lực lượng vũ trang năm 2000, Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới năm 2009 và được Hội đồng thẩm định Trung ương xét công nhận huyện Nông thôn mới nâng cao năm 2023. Với những danh hiệu cao quý đó, càng đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của toàn Đảng bộ để giữ vững và phát huy truyền thống anh hùng của quê hương. Với đội ngũ cán bộ, đảng viên từng bước được tôi luyện và trưởng thành qua các thời kỳ, có nhiều kinh nghiệm trong quá trình đổi mới, xây dựng và phát triển, là tiền đề vững chắc đưa huyện Thoại Sơn tiến lên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh và bền vững.


Có được thành quả trên là do: (1) Sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng bộ; (2) Tin vào dân, dựa vào dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp nhân dân; (3) Mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự tiên phong, gương mẫu, nêu gương trong các phong trào hành động cách mạng ở địa phương và (4) Giữ vững và phát huy truyền thống Anh hùng của quê hương Thoại Sơn.

Tiếp tục sự nghiệp của cha anh, những người đã đổ xương máu bảo vệ quê hương, những người con của Thoại Sơn hôm nay tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng, đoàn kết, sáng tạo xây dựng quê hương thêm giàu đẹp. Giữ vững niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, ra sức thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội nhằm đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân, thực hiện các chính sách “đền ơn, đáp nghĩa” theo đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, Đảng bộ và Nhân dân Thoại Sơn đã và đang từng bước tiến lên với nhiều bài học quý báu của quá khứ hào hùng và tinh thần cách mạng tiến công, để Thoại Sơn mãi xứng danh: “Đất linh thiêng, người đi vào huyền thoại”.

Nguyễn Như Anh

TUV, Bí thư Huyện ủy Thoại Sơn

An Giang mãi khắc ghi công lao to lớn  của Tổng Bí thư Nguyễn Phú TrọngBài viếtHoàng KỳAn Giang mãi khắc ghi công lao to lớn  của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng/SiteAssets/AG-ghi-nho-TBT-NPT-1.jpg

Hoàng Kỳ (*)

30/07/2024 3:35 CHNoĐã ban hành

(TUAG) Trong nhiều ngày qua, trong sâu thẳm trái tim của người dân Việt Nam khắp mọi miền Tổ quốc và bạn bè quốc tế rất đau buồn, tiếc thương trước sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chúng ta như đã mất đi điều gì rất thiêng liêng, ấm áp, thân quen. Những cơn mưa hòa cùng dòng lệ tiếc thương tiễn biệt anh linh nhà lãnh đạo kiệt xuất, mẫu mực, liêm khiết; đã hiến dâng cả đời mình cho lý tưởng cách mạng của Đảng, sự trường tồn của đất nước, vì hạnh phúc Nhân dân.

Với 80 tuổi đời, gần 57 năm tuổi Đảng, hơn 13 năm trên cương vị Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn 02 năm trên cương vị Chủ tịch nước, hơn 05 năm là Chủ tịch Quốc hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hiến dâng cả cuộc đời phục vụ đất nước, Nhân dân cho đến hơi thở cuối cùng.

AG-ghi-nho-TBT-NPT-1.jpg
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng và đất nước

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Trong mọi hoàn cảnh, Đồng chí luôn tỏ rõ bản lĩnh, trí tuệ của người cộng sản kiên trung, mẫu mực; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giữ gìn, nêu cao và lan tỏa phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, tính tiền phong, gương mẫu; không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Bác Hồ vĩ đại.

Trải qua nhiều cương vị quan trọng do Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó như: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ khoá VII đến khóa XIII; Ủy viên Bộ Chính trị từ khoá VIII đến khóa XIII; Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; Bí thư Thành ủy Hà Nội; Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương; Chủ tịch Quốc hội; Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Tổng Bí thư từ khoá XI đến khóa XIII, đồng chí Nguyễn Phú Trọng có nhiều cống hiến to lớn, quan trọng cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, nhất là trong công cuộc đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí thể hiện rõ vai trò hạt nhân lãnh đạo, cùng tập thể Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động trong Đảng, qua đó đã tạo được sự thống nhất cao trong hệ thống chính trị với tinh thần "tiền hô hậu ủng, nhất hô bá ứng, trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt". Đồng chí đã lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn, thách thức, đạt nhiều thành tựu rất quan trọng, nổi bật, làm cho cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng cao.

Với trí tuệ uyên bác, sắc sảo, một nhân cách lớn, nhân văn và nghĩa tình, đồng chí đã để lại cho toàn Đảng, toàn Dân, toàn Quân ta hệ thống tư tưởng và lý luận quý giá về con đường Cách mạng Việt Nam thời đại mới. Kiên định, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn đất nước, góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng cả lý luận lẫn thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế... Di sản vô giá đồng chí để lại đã củng cố niềm tin mãnh liệt về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; đóng góp quan trọng cho sự phát triển của phong trào cộng sản quốc tế; phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thời đại mới.

Trong quan hệ mật thiết với Nhân dân, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách và làm theo lời dạy của Bác Hồ. Đồng chí luôn tâm niệm và yêu cầu toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị "phải có trách nhiệm cao nhất với dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân", "liên hệ chặt chẽ với Nhân dân là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng, là nhân tố quyết định tạo ra sức mạnh của Đảng". Bằng tấm gương sáng của mình, Đồng chí truyền cảm hứng cho tất cả cán bộ, đảng viên trong từng lời nói, việc làm, thể hiện sự chính trực, phong thái điềm tĩnh, giản dị, khiêm nhường.

Tâm huyết cả đời cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng

Là người kế thừa những thành tựu, kinh nghiệm của các bậc tiền bối, hơn ai hết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn đau đáu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân". Vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Đồng chí cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng hoạch định và lãnh đạo thực hiện thắng lợi các chủ trương chiến lược về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kiên quyết, kiên trì chống chủ nghĩa cá nhân, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chống tham nhũng, tiêu cực trong Đảng.

Với quyết tâm chính trị rất cao, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là trung tâm đoàn kết, đầu tàu trong nỗ lực xốc lại tinh thần đấu tranh, xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh hơn. Trong đó, công cuộc "đốt lò" phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được xem là bước đột phá, tạo ra những kết quả nổi bật. Kết quả này không thể tách rời tài năng, bản lĩnh, phẩm cách, đạo đức của "người đốt lò". Chính sự gương mẫu, quyết liệt, "nói đi đôi với làm", "làm đi đôi với nói" của Đồng chí là chỗ dựa vững chắc, sự bảo đảm về mặt chính trị và tạo động lực to lớn cho công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, được Nhân dân tin tưởng, ủng hộ.

Nhắc lại điều này để thấy rằng vì sao liên tiếp 03 nhiệm kỳ Đại hội, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII và Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" và các giải pháp cụ thể, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, mà trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

Vị Tổng tư lệnh của lòng dân

Trong suy nghĩ và tình cảm của hơn 05 triệu đảng viên, trên 100 triệu người dân Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một người lãnh đạo mẫu mực, liêm khiết, suốt đời toàn tâm, toàn ý chăm lo cuộc sống ấm no, hạnh phúc của Nhân dân và sự phát triển hùng cường, thịnh vượng của đất nước. Trong mọi hoàn cảnh, Đồng chí luôn là người giữ vững bản lĩnh, trí tuệ của người cộng sản kiên cường, kiên định; giữ gìn, nêu cao, lan tỏa phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng; tính tiền phong, gương mẫu và liêm khiết.

AG-ghinho-TBT-NPT-2.jpg

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với lãnh đạo tỉnh An Giang

Nhiều tư tưởng, quan điểm, phương châm chỉ đạo, nguyên tắc hành động phòng, chống tham nhũng, tiêu cực do Tổng Bí thư khởi xướng đã phát huy hiệu quả rõ rệt, khẳng định qua thực tiễn với nhiều bài học kinh nghiệm quý cho Đảng ta trong quá trình tự chỉnh đốn, tự gột rửa, lấy cái đẹp dẹp bỏ cái xấu, giữ gìn danh dự, niềm tin, sức mạnh cho Đảng.

Hơn ai hết, Tổng Bí thư nhìn rõ những nguy cơ của nạn tham nhũng, tiêu cực đối với niềm tin của Nhân dân, sự tồn vong của Đảng và chế độ. Do đó, với trí tuệ, bản lĩnh chính trị và phẩm chất trong sáng, Đồng chí đã thức tỉnh và phất lên ngọn cờ tiên phong đúng lúc, đúng chỗ, hiệu triệu được toàn Đảng, toàn dân ủng hộ tuyệt đối cuộc đấu tranh chống "giặc nội xâm" cam go, quyết liệt. Mặc dù có người lúc đầu còn hoài nghi về tính khả thi của cuộc đấu tranh này, nhưng sau đó đều thừa nhận "cái lò chống tham nhũng" do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhóm lên được cháy bằng ngọn lửa của lương tâm, công lý và đạo lý ngàn đời dân tộc: Yêu cái tốt, ghét cái xấu, quyết loại bỏ "giặc nội xâm" để tập trung nguồn lực lo cho Nhân dân được ấm no, hạnh phúc.

Nhà lãnh đạo khiêm tốn, gần gũi, giản dị và thanh bạch

Trong cuộc sống và công việc, Tổng Bí thư là người rất khiêm tốn, giản dị, gần dân, sát dân; luôn vì lợi ích của dân và có một trái tim nhân hậu. Khi phát biểu trước Quốc hội tại Lễ nhậm chức Chủ tịch nước, Tổng Bí thư bộc bạch tâm sự với 02 câu thơ đầy khiêm tốn: "Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn/ Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay". Khi tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, với sự tín nhiệm gần như tuyệt đối, Tổng Bí thư đã chia sẻ: "Bây giờ tôi không được khỏe lắm, tuổi cũng đã cao, cũng xin nghỉ rồi, thế nhưng Đại hội bầu phải làm, đảng viên thì phải chấp hành". Qua đây, thấy được lòng tự trọng của một người lãnh đạo, nhưng cũng vẫn phải làm tròn trách nhiệm của một người đảng viên được Đảng phân công.

Bày tỏ vinh dự khi được nhận Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng - một phần thưởng cao quý đúng vào dịp kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chia sẻ: Trong suốt hơn 55 năm được đứng trong hàng ngũ của Đảng, tôi đã được Đảng giáo dục, rèn luyện, dìu dắt rất nhiều, nhờ đó mà tôi từng bước trưởng thành và phấn đấu làm được một số việc. Tuy nhiên, tất cả những gì tôi đã làm là vô cùng nhỏ bé so với công lao giáo dục, rèn luyện của Đảng; sự kèm cặp, chỉ bảo của các đồng chí đảng viên đi trước; sự cộng tác, giúp đỡ của đồng chí, đồng nghiệp; sự động viên, ủng hộ của Nhân dân, mà trực tiếp là những cơ quan - nơi tôi từng học tập, công tác và làm việc. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Đảng, Nhà nước và Nhân dân; cảm ơn các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo qua các thời kỳ và toàn thể các đồng chí. Tôi xin nguyện suốt đời phấn đấu, hy sinh, tuyệt đối trung thành với lý tưởng, sự nghiệp cách mạng của Đảng, ra sức tu dưỡng, rèn luyện; cố gắng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh để xứng đáng là một đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, như lời của một bài hát: "Nếu là hoa hãy là hoa hướng dương; nếu là chim hãy là chim câu trắng; nếu là đá hãy là đá kim cương; nếu là người hãy là người cộng sản!".

Tổng Bí thư sống mãi trong lòng Nhân dân An Giang

Là người có trái tim nhân hậu, nghĩa tình, Tổng Bí thư luôn dành tình yêu thương bao la cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, trong đó, Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân An Giang mãi khắc ghi tình cảm chân thành, sâu nặng, thắm thiết và những chỉ đạo sâu sắc của Tổng Bí thư dành cho quê hương của Chủ tịch Tôn Đức Thắng.

Cách đây 13 năm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có chuyến thăm, làm việc tại tỉnh An Giang. Trong buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh, Tổng Bí thư đã nhấn mạnh vai trò, vị trí chiến lược quan trọng của An Giang trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, đó là một vùng đất giàu truyền thống cách mạng, kiên cường trong kháng chiến, năng động, sáng tạo trong công cuộc đổi mới. Đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu lãnh đạo tỉnh cần quyết tâm cao hơn nữa, khắc phục một số tồn tại, hạn chế, nhất là trong việc khai thác những tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Đồng chí căn dặn cán bộ, đảng viên cần có nhiều tìm tòi, sáng kiến, sáng tạo trong công việc, trong từng vị trí công tác để thực hiện hiệu quả hơn nữa các nghị quyết của Trung ương, địa phương nhằm đưa nghị quyết vào cuộc sống.

Bằng tình cảm ấm áp, sâu nặng và quý mến đối với Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân An Giang, trong chuyến thăm, làm việc tại tỉnh vào tháng 4/2018, Tổng Bí thư dành tặng An Giang 04 câu thơ nhằm biểu dương, kỳ vọng về sự phát triển của tỉnh:

"An Giang đã nói là làm

Đã đi là đến, đã bàn là thông

Đã quyết là dốc một một lòng

Quê hương vẫy gọi Đảng mong dân chờ"

Sau gần 60 năm hoạt động cách mạng bền bỉ, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, trái tim của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Người chiến sĩ cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo xuất sắc, trí tuệ, bản lĩnh, một nhân cách lớn và nghĩa tình đã ngừng đập vào 13 giờ 38 phút ngày 19/7/2024. Sự ra đi của Đồng chí là tổn thất to lớn, không thể bù đắp của toàn Đảng, Dân tộc và Nhân dân ta. Đất nước ta mất đi nhà lãnh đạo mẫu mực, tài năng và đức độ; phong trào cộng sản, tiến bộ thế giới mất đi nhà lý luận sắc bén, người suốt đời đấu tranh cho hòa bình và công lý; bạn bè quốc tế mất đi người bạn chân thành, người đồng chí thân thiết.

AG-ghinho-TBT-NPT-3.jpg

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm, làm việc tại xã Vĩnh Phú (huyện Thoại Sơn) năm 2011.

Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang xin kính cẩn nghiêng mình tiễn biệt anh linh Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nguyện một lòng thực hiện ước nguyện của Đồng chí, khắc cốt ghi tâm lời căn dặn "Nếu là người, hãy là người Cộng sản", "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài", "Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất", hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, kiên định con đường mà Đảng, Bác Hồ và các thế hệ đi trước, trong đó có Tổng Bí thư đã lựa chọn; đoàn kết, thống nhất; chung sức, đồng lòng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện, Nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Dẫu biết rằng, "sinh, lão, bệnh, tử" là quy luật khắc nghiệt của tạo hóa, nhưng sự ra đi của Tổng Bí thư đã để lại trong lòng mỗi chúng ta niềm tiếc thương vô hạn. "Có cái chết hóa thành bất tử"! Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã về với thế giới người hiền, về với Bác Hồ, Bác Tôn và các bậc tiền bối của Đảng. Song, chúng ta có niềm tin mãnh liệt rằng, những đóng góp to lớn là di sản mà Đồng chí để lại cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta sẽ mãi mãi đi vào vinh quang của lịch sử dân tộc Việt Nam văn hiến và anh hùng.

"Quốc thổ vinh danh rạng sơn hà,

Dân tộc anh hùng xuất thế gia.

Ghi công người lái xuyên Đông Hải,

Tạc dạ, tấc thành lặng phong ba".

(*) TS Lê Hồng Quang

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,

Bí thư Tỉnh ủy An Giang

 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sống mãi trong tim người dân Vĩnh PhúAn Giang 190 nămBài viếtPhương LanTổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sống mãi trong tim người dân Vĩnh Phú/SiteAssets/TBT-NPT-voi-dan-VinhPhu-1.jpg
25/07/2024 2:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Với người dân xã Vĩnh Phú, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một nhân cách lớn của dân tộc, một nhà lãnh đạo kiệt xuất, và cũng là một con người giản dị, khiêm nhường, vô cùng gần gũi.

 TBT-NPT-voi-dan-VinhPhu-1.jpg

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gần gũi với người dân Vĩnh Phú. Ảnh: địa phương cung cấp.

"Dưới làn áo mỏng này, là một trái tim…"

Năm 2011, trong chuyến làm việc tại tỉnh An Giang, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã về thăm và kiểm tra tình hình phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở xã Vĩnh Phú. Từ ngày đó, hình ảnh "ông cụ mắt sáng ngời, áo nâu túi vải" về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn in đậm trong tâm trí người dân Vĩnh Phú. Đặc biệt, trong ký ức các cụ cao niên - những người đã từng vinh dự được Bác thăm hỏi, trò chuyện, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn là người lãnh đạo giản dị, đáng kính, gần dân, hiểu dân và nghe dân. Khí chất cao quý ấy toát ra từ ánh mắt cương nghị, khuôn mặt hiền từ, và cả phong thái nữa… Từ khi hay tin Tổng Bí thư từ trần, bà con vùng quê Vĩnh Phú khôn nguôi thương nhớ.

Một buổi chiều mưa rả rích, chúng tôi được chính quyền địa phương xã Vĩnh Phú dẫn đến thăm ông Thạch Văn Thơ (74 tuổi, ngụ ấp Trung Phú 1, xã Vĩnh Phú). Ông Thơ là người từng rất vinh dự được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến thăm, tặng quà và có những phút giây trò chuyện rất thân tình. Ở tuổi xế chiều, những căn bệnh tuổi già cũng thi nhau kéo đến, khiến sức khỏe ông Thơ giảm sút rất nhiều. Khi được hỏi về những hồi ức với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cách đây 13 năm, ông Thơ cố nén cảm xúc nhưng làm sao giấu đi đôi mắt đang nhòe đi vì ngấn lệ. 

Giọng nghẹn ngào, ông Thơ hồi tưởng: "Tôi nhớ rất rõ lúc đó, ngay khi gặp tôi, Tổng Bí thư đã dành cái ôm tình cảm và bắt tay rất ấm áp. Lúc ấy, tôi run và hồi hộp lắm nhưng lại vui đến lạ thường vì lần đầu tiên tôi được diện kiến và trò chuyện với vị lãnh đạo cấp cao của đất nước. Cũng tại bộ bàn ghế nơi phòng khách này, Tổng Bí thư đã niềm nở hỏi thăm đời sống của vợ chồng tôi. Chỉ vỏn vẹn khoảng 15 phút thôi, bằng sự quan tâm sâu sắc, Tổng Bí thư đã hỏi thăm tình hình làm ăn, sản xuất, vụ mùa của gia đình và nhắn nhủ hãy tiếp tục ra sức lao động, sản xuất, góp sức xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp. Từ những rụt rè ban đầu, tôi đã cảm thấy sự ấm áp lan tỏa từ Bác, để rồi cởi mở trò chuyện rất vui vẻ. Lần gặp ấy, đối với tôi là một vinh dự vô cùng lớn. Mấy ngày hôm nay tôi thường lấy hình ảnh chụp cùng với Tổng Bí thư để nhìn ngắm lại. Tất cả như mới diễn ra ngày hôm qua thôi…!".

Ngày Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về thăm Vĩnh Phú, cô Võ Thị Mỹ Hương (Trưởng Ban công tác Mặt trận, ấp Trung Phú 2, xã Vĩnh Phú) khi đó là Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Vĩnh Phú. Bày tỏ cảm xúc về lần hiếm hoi được gặp Tổng Bí thư khi đó, cô Hương mỉm cười rất tự hào: "Tôi vui lắm! Bấy giờ, tôi chỉ đứng ở xa nhìn Bác thôi nhưng bấy nhiêu cũng rất vinh dự rồi. Như cảm nhận của bao người, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất bình dị, gần gũi. Kỷ niệm sâu sắc nhất của tôi về ông chính là bức ảnh hồi 13 năm trước. Khi Tổng Bí thư đã xong việc, chuẩn bị rời xã, như quên điều gì rất quan trọng, ông từ tốn: "Nãy giờ chụp hình với lãnh đạo nam cũng nhiều, giờ sắp về rồi, Bác chụp 1 tấm với các cháu nữ để làm kỷ niệm nha!". Bấy nhiêu cũng đủ thấy Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ là lãnh đạo kiệt xuất mà còn là người rất tình cảm".

Từ ngày 19/7, khắp nơi trên đất nước Việt Nam, gần như câu chuyện nào cũng là thông tin về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Sự tiếc thương vô hạn và nước mắt của hàng triệu người đã rơi khi hay tin vị Tổng Bí thư đáng kính đã về với thế giời "người hiền". Mỗi người theo cách của riêng mình, ai cũng tưởng nhớ về Tổng Bí thư. "Tôi chỉ là một người dân bình thường, nhưng tôi luôn biết rằng Tổng Bí thư đã cống hiến cả đời cho đất nước, là người lãnh đạo dẫn dắt nước Việt Nam có "vị thế" như hôm nay. Sau khi hay tin Tổng Bí thư ra đi, tôi cũng như hàng triệu người dân của cả nước vô cùng thương tiếc. Mọi dự định vui chơi của riêng mình, tôi đều gác lại để tưởng nhớ về vị Tổng Bí thư đáng kính của dân tộc" - anh Nguyễn Duy Nam (ngụ ấp Trung Phú 2, xã Vĩnh Phú) chia sẻ.

 TBT-NPT-voi-dan-VinhPhu-2.jpg

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm, làm việc tại xã Vĩnh Phú năm 2011. Ảnh: Địa phương cung cấp.

Phấn đấu không ngừng để xứng đáng kỳ vọng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Trở về năm 2011, báo cáo với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về "nông nghiệp, nông dân, nông thôn", Đảng ủy xã Vĩnh Phú thông tin, việc huy động sức dân để xây dựng nông thôn từ năm 2001 đến năm 2009 được triển khai thực hiện theo quy chế dân chủ cơ sở, đã tạo sự đồng tình hưởng ứng của Nhân dân nhất là những hộ có đất sản xuất nông nghiệp (hằng năm mỗi hộ đóng góp ít nhất là 100.000 đồng và cao nhất là 5 triệu đồng). Từ đó đã tạo dần ý thức trong Nhân dân, nên khi đi vào thực hiện xây dựng nông thôn mới phần lớn nguồn lực xã hội hóa được Nhân dân đồng tình, tích cực hưởng ứng.

Theo đó, diện tích đất trồng lúa trên địa bàn xã 3.153 ha, trong đó có 3.051 ha sản xuất 3 vụ ở 6 tiểu vùng với 16 trạm bơm điện đáp ứng 100% bơm tiêu. Chương trình "Ba giảm ba tăng" được nhân rộng trong toàn xã với 95% diện tích, trong đó ứng dụng "Một phải năm giảm" chiếm 30%. Xã có 2 tổ sản xuất giống với diện tích 315ha/vụ, mỗi năm diện tích trồng lúa Nhật từ 200 - 300 ha. Tổng sản lượng lương thực hằng năm đạt khoảng 60.000 tấn. Thực hiện cơ gới hóa 100% trong sản xuất như cày xới, 95% diện tích gặt đập liên hợp (49 máy); lò sấy tại xã đảm bảo đạt 50% diện tích.

Khi đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, địa phương đã đạt nhiều thành tích nổi bật trong phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn theo phương thức Nhà nước và Nhân dân cùng làm, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, thực hiện cơ giới hóa trong nông nghiệp... Đồng thời, mong muốn địa phương tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục các tồn tại, hạn chế, khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh vốn có.

Khắc ghi lời căn dặn đó, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã Vĩnh Phú không ngừng phấn đấu, linh hoạt và sáng tạo trong việc đưa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước vào cuộc sống. Địa phương được công nhận là xã nông thôn mới đầu tiên của huyện (năm 2015). Đó là tiền đề giúp xã Vĩnh Phú đưa kinh tế - xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất, tinh thần người dân không ngừng được nâng cao; quốc phòng - an ninh được giữ vững.

TBT-NPT-voi-dan-VinhPhu-3.jpg 

Ông Thạch Văn Thơ chia sẻ kỷ niệm được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ghé thăm hỏi.

"Sau khi về đích nông thôn mới, xã đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo để tiếp tục nâng cao chất lượng các tiêu chí, chỉ tiêu. Quá trình đó, Đảng bộ xã đã thực hiện tốt phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm"; chú trọng công tác tuyên truyền, vận động, tạo sự chuyển biến căn bản trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và Nhân dân về chương trình, nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Từ đó, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị vào cuộc. Vĩnh Phú đã hoàn thành 19/19 tiêu chí, 35/35 chỉ tiêu theo Quyết định số 1005 của UBND tỉnh và được UBND tỉnh công nhận đạt chuẩn "Xã nông thôn mới nâng cao" năm 2020" - Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy xã Vĩnh Phú Nguyễn Ngọc Huy cho hay.

Trong quá trình xây dựng nông thôn mới nâng cao, địa phương đã huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2016 - 2020 hơn 17 tỷ đồng, trong đó từ nguồn vốn Trung ương, ngân sách tỉnh, huyện, xã, vốn huy động khác là hơn 8 tỷ, Nhân dân đóng góp hơn 9 tỷ đồng để thực hiện với những kết quả vượt bật trên mọi lĩnh vực. Nếu năm 2011, thu nhập bình quân đầu người xã Vĩnh Phú chỉ hơn 19 triệu đồng/người/năm, đến nay đã đạt trên 73 triệu đồng/người/năm. Đó là minh chứng sống động cho thấy sự phát triển từng ngày trên vùng quê ngày nào Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng kỳ vọng!

PHƯƠNG LAN

Công lao to lớn của danh thần Thoại Ngọc Hầu đối với vùng đất An GiangBài viếtHoàng KỳCông lao to lớn của danh thần Thoại Ngọc Hầu đối với vùng đất An Giang/SiteAssets/Bithu-tt-le-TNH-3.jpg

​HOÀNG KỲ(*)

11/07/2024 7:10 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Thoại Ngọc Hầu, một danh thần của nhà Nguyễn, công thần trong việc gầy dựng cơ nghiệp của Vua Gia Long (Nguyễn Ánh), người có nhiều công lao to lớn đối với đất nước, vùng đất Nam Bộ và đặc biệt là vùng đất An Giang. Tầm nhìn chiến lược và những công trình của Ông để lại hậu thế không những đã đặt nền móng cho quá trình khẩn điền, mở cõi vùng Nam Bộ trong thế kỷ XIX mà còn mang ý nghĩa đặc biệt đến hôm nay và mai sau.

 Bithu-tt-le-TNH-3.jpg

Tượng Danh thần Thoại Ngọc Hầu tại lăng Thoại Ngọc Hầu

Danh thần Thoại Ngọc Hầu tên thật là Nguyễn Văn Thoại, sinh ngày 26 tháng 11 năm Tân Tỵ (1761), niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 22, tại làng An Hải, tổng An Lưu Hạ, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng). Thân sinh của Ông, cụ ông Nguyễn Văn Lượng và cụ bà Nguyễn Thị Tuyết. Từ nhỏ, Ông theo gia đình di cư vào Nam, định cư tại cù lao Dài (nay thuộc 02 xã Thanh Bình và Quới Thiện của tỉnh Vĩnh Long).  

Chánh thất của ông Nguyễn Văn Thoại là bà Châu Thị Vĩnh Tế, sinh tháng 4 năm Bính Tuất (1766), con cụ ông Châu Vĩnh Huy và cụ bà Đỗ Thị Toán. Vào những năm giữa thế kỷ XVIII, gia đình bà Châu Thị Vĩnh Tế cũng từ miền Trung vào Nam, đến vùng đất cù lao Dài khai khẩn, biến vùng đất này trở thành nơi trù phú.

Đến mùa Xuân năm 1777, chúa Nguyễn Ánh tổ chức mộ binh tại Ba Giồng (Định Tường), Nguyễn Văn Thoại đầu quân cho chúa Nguyễn. Là một người thông minh, linh hoạt, lại tinh thông võ nghệ, đã lập được nhiều chiến công, Ông được chúa Nguyễn phong làm Khâm sai Thượng đạo Đại tướng quân, rồi đến Khâm sai Thượng đạo Bình Tây tướng quân. Ông từng giữ chức Quản suất biền binh lưu thủ Bắc Thành, Trấn thủ Lạng Sơn, rồi trở về Nam giữ chức Trấn thủ Định Tường (1808). Đến tháng 9, năm Quý Dậu (1813), vua Gia Long sắc phong cho Nguyễn Văn Thoại lãnh ấn Bảo hộ Cao Miên.

Năm 1817, Ông được triều đình triệu hồi về nước, cử làm Trấn thủ Vĩnh Thanh. Sau đó, Ông đã bắt tay ngay vào việc chấn chỉnh các cơ sở hành chánh, xử lý những quan lại tham ô, hạch sách người dân. Mặt khác, Ông triển khai thực hiện các chính sách của triều đình để phát triển kinh tế, mở mang các trục giao thông đường thủy, tạo điều kiện cho người Khmer, người Minh Hương, người Chăm, người Việt đến khai khẩn những vùng đất còn hoang vu ven các nhánh sông Tiền, sông Hậu để tạo lập xóm làng, cùng khai khẩn đất hoang.

Lúc bấy giờ, nhận thấy việc đi lại, trao đổi, mua bán ở vùng đất này còn nhiều khó khăn, sông rạch tự nhiên rất quanh co, việc trao đổi hàng hóa với Rạch Giá, Hà Tiên phải đi vòng đường biển. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải khơi nguồn, tháo lũ của sông Hậu ra biển Rạch Giá, Ông đã dâng biểu tấu trình hoàng thượng việc đào kênh, mở giao thông thủy đi tắt từ Đông Xuyên đến Rạch Giá.  

Tấu sớ của Ông được Triều đình chấp thuận. Tháng 11 năm Đinh Sửu (1817), Triều đình lệnh cho Ông chuẩn bị đào kênh Tam Khê[1]. Đến mùa Xuân Mậu Dần (1818), Ông được Vua giáng chỉ đào kênh Tam Khê với mục đích tạo thành giao thông thủy chiến lược quan trọng ở phía Tây sông Hậu nối liền hai trấn Hà Tiên và Vĩnh Thanh. Đây là bước tiến lớn, lần đầu tiên một con kênh dài được đào bằng sức người tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tạo điều kiện cho việc hình thành xóm làng để khai khẩn đất hoang, phát triển kinh tế trên vùng đất An Giang xưa.

Nhận được chỉ dụ, Ông cho xúc tiến đào kênh theo một lạch nước cũ, nối rạch Đông Xuyên (rạch Long Xuyên) tại Vĩnh Trạch kéo dài theo hướng Tây Nam, ngang qua chân núi Sập tiếp giáp sông Kiên Giang đổ ra biển ở cửa Rạch Giá. Ông huy động khoảng 1.500 dân, quân luân phiên đào kênh liên tục. Việc đào kênh rất khổ cực và nguy hiểm, nhất là những đoạn băng qua "rừng thiên nước độc, lam sơn chướng khí" cùng với thú dữ tấn công… có nhiều dân phu gặp nạn. Tuy nhiên, công tác hậu cần được Vợ Ông là bà Châu Thị Vĩnh Tế hết lòng giúp đỡ, thông qua huy động thân nhân của những người trực tiếp đào kênh chăm lo cho người thân của mình.

Kênh Tam Khê được hoàn thành trong thời gian một tháng[2], đáp ứng nguyện vọng của người dân, giúp quá trình quy dân tạo ấp lập làng, phục vụ sản xuất nông nghiệp, giao lưu trao đổi mua bán giữa các vùng được thuận lợi, đảm bảo an toàn trong khu vực được giao quyền trấn thủ. Việc này được Ông nói rõ trong Bia Thoại Sơn: "Ngày thụ mệnh Vua, sớm khuya kính sợ, đốn cây rậm, bới bùn lầy, đào kênh dài 12.410 tầm, trải qua một tháng thì xong việc, nghiễm nhiên trở thành một con sông to, luôn luôn ghe thuyền qua lại tiện lợi"[3]. Ông cho vẽ họa đồ và làm sớ tâu lên Vua Gia Long. Nhận thấy những lợi ích vượt ngoài mong đợi của dòng kênh mới, Vua Gia Long đã cho phép lấy tên Ông để đặt tên kênh là Thoại Hà, vua đổi tên núi Sập thành Thoại Sơn để biểu dương công lao của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại.

Đây là cột mốc quan trọng đối với cuộc đời làm quan của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại. Để ghi nhớ ơn Vua, Ông đã soạn một áng văn khắc vào bia đá và lập miếu thờ Sơn thần bên triền núi Sập để tiến hành dựng bia phía trước. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), Ông mở hội làm Lễ dựng bia và khánh thành Thần miếu; đầu bia được chạm to hai chữ "Thoại Sơn", mặt bia được khắc đúng 629 chữ, để lưu lại hậu thế, trong đó có đoạn: "Kính dựng một miếu thờ thần nơi chân núi, chạm đá làm bia, ghi rõ hai chữ Thoại Sơn, cùng kể rõ nguyên lai tên núi, ngõ hầu lưu lại đời đời không mất"[4]. Bên cạnh đó, Ông còn thực hiện truyền dụ của Vua đứng ra chiêu mộ dân đến núi Sập tạo lập xóm làng, tiến hành khai khẩn đất đai dọc hai bên kênh, biến những vùng đất hoang vu này thành vùng đất trù phú, sung túc, xóm làng được đặt tên là Thoại Sơn để ghi nhớ công ơn của Ông.

 Bithu-tt-le-TNH-1.jpg

Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang lãnh đạo tỉnh dâng hương tại lăng Thoại Ngọc Hầu

 Từ kết quả của việc đào kênh Thoại Hà, Vua Gia Long càng quyết tâm phải đào cho được con kênh thông từ Châu Đốc đến Hà Tiên. Tuy nhiên, ý định đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên được Vua nghĩ đến từ tháng Giêng, năm Bính Tý (1816), trước khi tiến hành đào kênh Thoại Hà, khi đó Ông đang giữ chức Bảo hộ Cao Miên, sau đó là Trấn thủ Vĩnh Thanh được lệnh Vua xây thành Châu Đốc. Đến cuối năm Bính Tý (1816) thành Châu Đốc được xây xong, Vua Gia Long xem địa đồ miền Châu Đốc, truyền với các quan rằng: "Đất này nay mở đường sông để đi thẳng tới Hà Tiên, làm ruộng đi buôn đều được lợi cả. Sau này dân ở đông đúc, đất mở rộng rãi, có thể thành một trấn to lớn"[5]. Tuy nhiên, sau khi suy xét kỹ lưỡng, Vua Gia Long ngưng ý định đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên, bởi Vua nhận thấy nước Cao Miên mới khắc phục được những rối loạn trong nội bộ, nếu bắt dân tiếp tục phục dịch sẽ làm cho dân lo sợ không yên. Vì vậy, đến tháng 9 năm Kỷ Mão (1819), Vua truyền chỉ cho Gia Định thành và quan Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại chỉ huy binh dân đến Châu Đốc để khởi công đào kênh vào ngày rằm tháng Chạp[6]. Trước đó, Vua Gia Long ra chiếu dụ dân Vĩnh Thanh: "Đào con sông này công việc rất khó nhọc. Kế sách của Nhà nước, mưu hoạch về biên thùy, đều quan hệ không nhỏ. Các ngươi dẫu ngày nay khó nhọc, mà thực có lợi cho muôn đời. Vậy nên bảo nhau, đừng sợ khó nhọc"[7].

Như vậy, ngoài yêu cầu về giao thông, dân cư, mở mang kinh tế, thì theo Vua Gia Long: "Vị thế Châu Đốc - Hà Tiên không kém Bắc Thành". Còn theo Vua Minh Mạng thì đây là "vùng địa đầu quan yếu, ta đã từng xuống chỉ chiêu tập dân buôn bán, cho vay tiền, gạo để lập ấp khẩn điền, quây quần sinh nhai. Đó là ý niệm của ta trong vấn đề củng cố biên cương".

Theo sử liệu triều Nguyễn, công trình đào kênh Vĩnh Tế kéo dài 97 km qua 5 năm thi công (1819 - 1824) với ba đợt. Ngay đợt đầu, đã huy động trên 10.000 nhân lực, bao gồm 5.000 quân dân trong vùng, 500 lính thuộc đồn Uy Viễn, 5.000 dân là người Khmer. Kênh đi qua nhiều đoạn đất cứng rất khó đào, lại gặp phải thời tiết thất thường, nhiều chướng khí, việc huy động nhân lực gặp nhiều khó khăn, nạn thú dữ… làm cho công việc có lúc phải gián đoạn hoặc chậm chạp. Vì vậy, Ông phải tìm cách để khắc phục khó khăn, trở ngại.

Hiểu được khó khăn của Ông, trước khi cho tiến hành kế hoạch đợt hai, Vua Minh Mạng chỉ dụ: "Đường sông Vĩnh Tế liền với Tân Cương, xe thuyền qua lại đều là tiện lợi. Đức Hoàng Khảo Thế Tổ Cao Hoàng Đế ta mưu sâu, tính xa, chú ý việc ngoài biên. Công việc đào kênh mới bắt đầu chưa xong. Nay ta theo chỉ tiên hoàng, cố nghĩ cách khó nhọc một lần mà được thong thả lâu dài về sau".

Sau đó, Vua Minh Mạng lệnh cho Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt huy động thêm nhiều dân binh hơn 55.000 người, chia làm 3 phiên, đào đắp bằng sức người với dụng cụ thô sơ, hàng triệu mét khối đất đá và thay nhau thi công suốt ngày đêm, nhưng hết mùa Xuân sang mùa Hè thì việc đào kênh tiếp tục tạm hoãn vì hạn hán. Với lượng nhân công được huy động lớn như thế, qua 3 tháng thi công, con kênh đào được khoảng 70 km. Công việc chỉ huy dân binh đào kênh Vĩnh Tế giai đoạn 2 kết thúc.

Đợt cuối được tiến hành vào tháng 2 năm Giáp Thân (1824), bề dài của kênh còn lại chỉ khoảng 1.700 trượng từ cuối rạch Giang Thành trở vào tới nơi đã đào xong. Việc đào kênh được tiến hành tích cực với sự hỗ trợ của Phó Tổng trấn Trần Văn Năng và quân, dân lên đến 25.000 người, đào bất kể ngày đêm, đến ngày mùng 01 tháng 05 thì hoàn thành.

Bithu-tt-le-TNH-2.jpg

Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang và lãnh đạo tỉnh thắp hương tại phần mộ Danh thần Thoại Ngọc Hầu

Có thể thấy, việc đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên là một thành quả rất to lớn với số nhân công lên đến trên 80.000 người, thời gian đào kênh suốt 05 năm (từ tháng Chạp năm Mẹo (1819) đến tháng 05 năm Thân (1824)), chiều dài 205 dặm rưỡi (tương đương 91 km), rộng 7 trượng 5 thước (tương đương 25 m), sâu 6 thước (tương đương 3 m). Lợi ích lớn nhất của kênh Châu Đốc - Hà Tiên không chỉ ở việc lưu thông bằng ghe thuyền đi lại, trao đổi buôn bán hay đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ cương thổ Quốc gia, mà còn đóng vai trò quan trọng dẫn nước ngọt từ sông Cửu Long vào các khu đồng ruộng, xã phèn, rửa mặn cho mùa màng tươi tốt. Song song việc đào kênh Vĩnh Tế, Ông cho lập ven bờ kênh 05 làng: Vĩnh Nguơn, Vĩnh Tế, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia và Vĩnh Thông.

Một lần nữa bà Châu Thị Vĩnh Tế lại tích cực giúp phu quân trong việc đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên, bà đứng ra tập hợp thân nhân của những người đang trực tiếp đào kênh, cùng nhau chăm lo việc ăn uống, thuốc men, chữa trị cho người thân của họ những lúc bệnh tật, bị tai nạn khi đào kênh hay bị thú dữ tấn công. Dưới sự chăm sóc chu đáo của Bà đã góp phần thúc đẩy việc đào kênh được diễn ra nhanh chóng hơn. Những người trực tiếp đào kênh luôn cảm thấy an tâm.

Khi tin vui về đến Triều đình Huế, Vua Minh Mạng liền ban sắc khen thưởng và ra sắc cho quan địa phương làm bia dựng ở bờ sông, đánh dấu công lao của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại. Vua nhận thấy, bên kia bờ kênh mới đào có núi Sam, có phần giống với núi Sập bên bờ kênh Thoại Hà trước kia và xét thấy Thoại Ngọc Hầu phu nhân, là dòng họ Châu Vĩnh, nhũ danh Thị Tế, người đàn bà đức độ, luôn tận lực phụ giúp chồng trên đường công bộc, có nhiều đóng góp trong công tác hậu cần, có lúc bà thay chồng đôn đốc việc đào kênh. Từ đó, Vua ban đặt tên kênh Châu Đốc - Hà Tiên là "Vĩnh Tế Hà" và tên núi Sam gần bờ kênh là "Vĩnh Tế Sơn", làng cạnh núi là "Vĩnh Tế Thôn".

Khi nói về lợi ích của kênh Vĩnh Tế, sách Đại Nam nhất thống chí viết: "Từ đây đường sông thông, việc biên phòng và việc buôn bán đều được hưởng mối lợi vô cùng". Việc hoàn thành kênh Vĩnh Tế được dân chúng xem là một thành quả to lớn, có ảnh hưởng nhiều mặt đối với cư dân trong vùng. Dân mừng vì có đường giao thông thuận lợi từ Châu Đốc đi Hà Tiên. Giới chức biên phòng thời ấy cũng bớt gánh nặng nhờ có đường nước án ngữ ven biên. Kênh Vĩnh Tế xưa và nay cũng thế, không chỉ là một đường lưu thông thủy tiện lợi hay giữ gìn biên giới mà còn có tác dụng khác là đưa nước ngọt của sông Cửu Long vào tháo chua rửa phèn cho ruộng đồng.

Danh thần Thoại Ngọc Hầu lâm bệnh, tạ thế tại Châu Đốc ngày 6 tháng 6 năm Kỷ Sửu (1829), hưởng thọ 68 tuổi. Lăng mộ Ông nằm dưới chân núi Sam với vẻ đẹp uy nghi, cổ kính; mặt hướng nhìn ra đường, lưng tựa vào vách núi, ung dung, đường bệ trên thềm cao với gần chục bậc thang đứng, xây bằng đá ong. Ông được Vua Minh Mạng truy phong chức Tráng Võ Tướng quân, Trụ quốc Đô thống, thụy Võ Khác.

Với tài kinh bang tế thế, phò tá 02 vua Gia Long và Minh Mạng, đảm nhận nhiều trọng trách, được phong tước Ngọc Hầu, Ông để lại cho đời sau nhiều công trình giá trị, công trạng hiển hách, những văn bia vô giá, lưu danh sử sách. Hiện An Giang có nhiều ngôi đình thờ Ông, trong số đó có hai ngôi đình lớn nhất là Đình Vĩnh Tế ở phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, có sắc phong do Vua Khải Định ban ngày 25 tháng 7 năm Giáp Tý (1924) và Đình Thoại Sơn tại thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn, có sắc phong của Vua Bảo Đại ban ngày 15 tháng 8 âm lịch năm 1943; ngoài ra, tại phường An Hải, Đà Nẵng, quê Ông cũng lập đền thờ. Các đền miếu thờ Ông đều được người đời sau ngưỡng vọng, trùng tu khang trang và tế bái trọng thể.

Tưởng niệm 195 năm ngày mất danh thần Thoại Ngọc Hầu, 200 năm hoàn thành kênh đào Vĩnh Tế là dịp để chúng ta tìm hiểu, ôn lại và tri ân công lao, những đóng góp to lớn của ông đối với đất nước nói chung, với vùng đất Nam Bộ, đặc biệt đối với vùng đất An Giang nói riêng. Với tấm lòng thành kính, tri ân sâu sắc, kế thừa những di sản vô giá của danh thần Thoại Ngọc Hầu và các thế hệ khẩn hoang mở cõi, bảo vệ quê hương. Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân An Giang sẽ tiếp tục phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa, truyền thống yêu nước; sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức; nêu cao ý chí tự lực tự cường, quyết tâm xây dựng quê hương An Giang xứng tầm khu vực và cả nước. Đó chính là việc làm thiết thực nhằm tri ân bậc tiền nhân có công khai mở, vun bồi, bảo vệ vùng đất An Giang - cương thổ Tổ quốc.

(*) TS Lê Hồng Quang

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,

Bí thư Tỉnh ủy An Giang

_________________

[1] Còn có tên khác kênh Đông Xuyên, kênh Thoại Hà.

[2] Đại Nam nhất thống chí chép: "Làm hơn một tháng mới thành". Bia Thoại Sơn ghi "duyệt nguyệt thoan công".

[3] Theo bản dịch của tác giả Nguyễn Văn Hầu (2020), Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, Nxb Khoa học Xã hội, tr.134.

[4] Theo bản dịch của tác giả Nguyễn Văn Hầu (2020), Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, Nxb Khoa học Xã hội, tr.308.

[5] Đại Nam thực lục tập IV, Chính Biên đệ nhất kỷ III, NXB Sử học- Hà Nội, 1963, trang 308.

[6] Quốc triều chánh biên toát yếu, quyển 2, mục Đinh Sửu, tờ 52a.

[7] Đại Nam thực lục tập IV, Chính Biên đệ nhất kỷ III, NXB Sử học- Hà Nội, 1963, trang 390.


An Giang: Những điểm sáng trong phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2024An Giang 190 nămBài viếtTTCTTTAn Giang: Những điểm sáng trong phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2024/SiteAssets/Phattrien-kte-3thang2023.jpg
04/07/2024 9:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Những tháng đầu năm 2024, bối cảnh thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến sự ổn định, phát triển toàn cầu, kinh tế thế giới phục hồi chậm, gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, nền kinh tế  nước ta nói chung và tỉnh An Giang nói riêng đã ghi nhận nhiều điểm nổi bật, điều đó cho thấy sự nỗ lực rất lớn của cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người dân trong tiến trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.


Những điểm sáng trong phát triển kinh tế - xã hội

Trong 6 tháng đầu năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) của tỉnh ước đạt 6,60%, cao hơn so với cùng kỳ (6,50%). Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,84%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 12,13%; khu vực dịch vụ tăng 7,61%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng dần tỷ trọng ở khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Tổng thu ngân sách nhà nước từ kinh tế địa bàn ước đạt 4.525 tỷ đồng, tăng 14,38% so với cùng kỳ.


Nông nghiệp tiếp tục khẳng định là nền tảng của nền kinh tế. Diện tích trồng lúa chất lượng cao ngày càng mở rộng. Nông sản có sự tăng trưởng tốt về sản lượng và chất lượng; giá bán ổn định ở mức cao so cùng kỳ. Đặc biệt trong những tháng đầu năm, tỉnh An Giang đã xuất khẩu thành công 13 tấn xoài hạt lép và 18 tấn xoài keo sang thị trường Hàn Quốc, đánh dấu bước chuyển mình của nông sản tỉnh nhà trong nỗ lực chinh phục các thị trường khó tính trên thế giới. Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tiếp tục được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. Kết quả, từ đầu năm đến nay toàn tỉnh đã công nhận thêm 05 xã nông thôn mới, 05 xã nông thôn mới nâng cao, 02 xã nông thôn mới kiểu mẫu và thống nhất trình Trung ương xem xét, công nhận huyện Thoại Sơn đạt chuẩn huyện nông thôn mới nâng cao.

Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã phục hồi và phát triển mạnh. Công tác giải ngân vốn đầu tư công được Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đặc biệt quan tâm chỉ đạo. Ngay từ đầu năm, tỉnh An Giang đã phân bổ hết 100% kế hoạch vốn được Trung ương giao; tập trung tìm giải pháp, tháo gỡ khó khăn về nguồn cung vật liệu xây dựng; tổ chức kiểm tra công trình trọng điểm, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy tiến độ thi công. Giá trị giải ngân đến hết tháng 6 ước đạt 3.252 tỷ đồng, đạt 40,5% kế hoạch vốn được giao.

Ngoài ra, tỉnh An Giang cũng đã phấn đấu làm tròn trách nhiệm của mình góp phần đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm quốc gia. Cụ thể, đã bàn giao 10 mỏ cát với khối lượng hơn 15 triệu m3 cho các nhà thầu thi công các tuyến cao tốc vùng Đồng bằng sông Cửu Long theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Với những nỗ lực, phấn đấu không ngừng nghỉ của các cấp, các ngành và các đơn vị thi công, vào ngày 23/4/2024, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã tổ chức lễ thông xe cầu Châu Đốc thuộc dự án xây dựng tuyến đường liên kết vùng đoạn từ thị xã Tân Châu đến thành phố Châu Đốc, kết nối với tỉnh Kiên Giang và Đồng Tháp. Phối hợp với Ban Quản lý dự án Mỹ Thuận - Bộ Giao thông vận tải tổ chức Lễ khánh thành dự án Đầu tư xây dựng Tuyến nối quốc lộ 91 và Tuyến tránh thành phố Long Xuyên. Đây là hai dự án trọng điểm, có ý nghĩa đặc biệt về phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà, góp phần từng bước hoàn thiện hệ thống hạ tầng giao thông, tạo điều kiện thuận lợi, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của người dân và doanh nghiệp.

Thương mại, dịch vụ, du lịch phát triển cả về quy mô và chất lượng với nhiều mô hình, hoạt động được đổi mới. Trong đó, tỉnh đẩy mạnh xúc tiến thương mại tại các diễn đàn quảng bá, giới thiệu sản phẩm, hợp tác thương mại, đầu tư, du lịch trên toàn quốc và quốc tế; tăng cường liên kết phát triển du lịch với TP Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố trong vùng; khai trương Cổng thông tin du lịch An Giang (checkinangiang.vn). Ước trong 6 tháng đầu năm, doanh thu bán buôn, bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng đạt 111.993 tỷ đồng, tăng 14,20% so cùng kỳ. Toàn tỉnh đón tổng số 07 triệu lượt khách tham quan, du lịch, tăng 16% so với cùng kỳ. Tổng doanh thu từ hoạt động du lịch ước đạt 8.000 tỷ đồng, tăng 105% so với cùng kỳ.

Bên cạnh đó, tỉnh An Giang đã tổ chức Lễ công bố Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đồng thời trao Biên bản thỏa thuận hợp tác đầu tư giữa tỉnh An Giang với 09 doanh nghiệp, nhà đầu tư lớn có tiềm năng. Qua đó, tạo động lực mới, khí thế mới để thúc đẩy xúc tiến đầu tư, mở ra cơ hội mới cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới.

Công tác đảm bảo an sinh xã hội, chăm lo Tết cho Nhân dân được thực hiện kịp thời, đúng đối tượng, đúng chế độ và có sự đổi mới.


Nhiều chương trình văn hóa, nghệ thuật, tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống của quê hương An Giang; các hoạt động thể dục, thể thao quần chúng được tổ chức thường xuyên, góp phần chăm lo đời sống tinh thần cho Nhân dân. Đặc biệt là chuỗi sự kiện chào mừng và Lễ kỷ niệm 25 năm thành lập thành phố Long Xuyên - Quê hương Chủ tịch Tôn Đức Thắng và Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam năm 2024. Về thể thao thành tích cao, có 02 vận động viên của An Giang xuất sắc giành 2/10 suất của Việt Nam chính thức tham dự Olympic Paris 2024.


Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chuẩn bị chu đáo các nội dung phục vụ diễn tập khu vực phòng thủ của tỉnh năm 2024. Tập trung nắm chắc tình hình, nhất là tình hình an ninh biên giới, các địa bàn trọng điểm; triển khai đồng bộ các biện pháp tấn công, trấn áp tội phạm và đảm bảo an ninh trật tự.

Nhiệm vụ, giải pháp 6 tháng cuối năm

Trong 6 tháng đầu năm, bức tranh kinh tế - xã hội An Giang đã có nhiều điểm sáng, tạo điều kiện thuận lợi cho tăng tốc phát triển trong 6 tháng cuối năm. Để phấn đấu đạt được mục tiêu tăng trưởng GRDP cả năm 2024 từ 7,5 - 8,5% đòi hỏi sự quyết tâm cao, nỗ lực lớn của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân, Ủy ban nhân dân tỉnh đặt ra một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

Tiếp tục thực hiện hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội năm 2024; Kế hoạch và Kịch bản tăng trưởng kinh tế tỉnh An Giang năm 2024 đã đề ra.

Chủ động triển khai các giải pháp tổ chức sản xuất thắng lợi vụ Hè Thu và Thu Đông năm 2024; phòng, chống thiên tai, giông lốc...; theo dõi sát tình hình sụt lún, sạt lở bờ sông, kênh, rạch. Phát triển nông nghiệp bền vững, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.

Khẩn trương xây dựng Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công. Thường xuyên kiểm tra, đẩy nhanh tiến độ thực hiện Dự án tuyến đường bộ cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng đoạn qua địa phận tỉnh An Giang và các công trình trọng điểm khác của tỉnh (Bệnh viện Tim mạch tỉnh, nhà hát, sân vận động tỉnh…). Tăng cường công tác quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ các nguồn tài nguyên, khoáng sản.

Triển khai thực hiện công tác xúc tiến đầu tư năm 2024, đặc biệt là các hoạt động xúc tiến, mời gọi đầu tư vào 06 lĩnh vực, ngành nghề ưu tiên. Tháo gỡ, khơi thông nguồn lực đầu tư, tháo gỡ vướng mắc của các dự án đang triển khai để đẩy nhanh tiến độ thực hiện.

Tiếp tục xúc tiến thương mại, phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ; tăng cường công tác quản lý nhà nước về du lịch; đẩy mạnh hợp tác phát triển du lịch giữa An Giang với TP Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Thúc đẩy hợp tác, liên kết vùng trong phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là với các địa phương mà tỉnh An Giang đã ký kết hợp tác như Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Đồng Tháp, tỉnh Tuyên Quang.


Lập hồ sơ, trình UNESCO công nhận Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và công nhận Khu di tích khảo cổ Óc Eo - Ba Thê là Di sản văn hóa thế giới. Từ đó, tạo tiền đề cho việc đầu tư và thu hút đầu tư phát triển du lịch của tỉnh.

Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành. Đẩy mạnh việc rà soát, ban hành các giải pháp, tạo đột phá mạnh mẽ để nâng cao hiệu quả cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính gắn với chuyển đổi số.

Với kết quả đạt được trong 6 tháng đầu năm và những nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong 6 tháng cuối năm, Ủy ban nhân dân tỉnh mong muốn các cấp chính quyền, Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp sẽ tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, chung sức, đồng lòng bằng niềm tin và khát vọng mạnh mẽ vươn lên, quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng tốt thời cơ thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2024.

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH

Tự hào những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hóa của báo chí tỉnh nhà Bài viếtNgọc HânTự hào những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hóa của báo chí tỉnh nhà /SiteAssets/Bao-chi-cacchmang-vn-7.jpg
20/06/2024 10:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Làm báo là làm cách mạng! Sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu từ việc học làm báo. Người coi báo chí là công cụ quan trọng, yếu tố chính trị, tinh thần to lớn, làm nên sự thành công của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Vì vậy, báo chí cách mạng là một mặt trận chiến đấu và mỗi nhà báo chính là một chiến sĩ cách mạng trên mặt trận ấy.

Bao-chi-cacchmang-vn-1.jpg

Tự hào về những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hóa

Chúng ta có một nền báo chí cách mạng ra đời và phát triển từ yêu cầu của sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và đặt nền móng. Trải qua chặng đường lịch sử vẻ vang gần 100 năm, báo chí cách mạng Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, là lực lượng xung kích, tin cậy của Đảng và Nhà nước, tiên phong đi đầu trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội.

Lớp lớp thế hệ những người làm báo - những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa đã lao động, cống hiến, dấn thân vì những nhiệm vụ chính trị cao cả, xây dựng nên một nền báo chí thực sự là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, là diễn đàn và cầu nối tin cậy của Nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Bao-chi-cacchmang-vn-6.jpg
Phóng viên đang tác nghiệp

Phát huy truyền thống vẻ vang của nền báo chí cách mạng, tiếp bước các thế hệ cha anh là những nhà báo - chiến sĩ đã được tôi luyện qua các cuộc trường chinh đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đội ngũ những người làm báo nói chung và đội ngũ những người làm báo của tỉnh An Giang hôm nay ngày càng lớn mạnh, trưởng thành về phẩm chất chính trị và năng lực nghề nghiệp không ngừng được nâng cao, đang nỗ lực từng bước làm chủ công nghệ làm báo hiện đại, phát huy vai trò xung kích của người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, không quản khó khăn, gian khổ, tự giác dấn thân, dũng cảm xông pha, có mặt tại các tâm điểm của đời sống xã hội, thực hiện tốt trách nhiệm, sứ mệnh người làm báo cách mạng.
Bao-chi-cacchmang-vn-7.jpg
Phỏng vấn người lao động tham gia giải việt dã 

Thật tự hào khi đội ngũ nhà báo, phóng viên, biên tập viên đang công tác tại Báo An Giang, bằng trí tuệ, tâm huyết với đất nước, với tỉnh nhà, luôn ngày đêm lao động nghiêm túc, hăng say nỗ lực để hoàn thành tốt trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của mình, xây dựng Báo An Giang xứng đáng là Tờ báo Đảng - là tiếng nói của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang.

Chúng ta vô cùng khâm phục, sự nỗ lực vượt khó của đội ngũ phóng viên, biên tập viên, nhân viên đang công tác tại Đài Phát thanh - Truyền hình An Giang - là những chiến sĩ dũng cảm lao động hăng say trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn, nếu không có trái tim yêu nghề, chắc chắn họ sẽ không bao giờ có đủ năng lực, năng lượng, nhiệt huyết, quyết tâm bám trụ, vượt qua những khó khăn, nuôi dưỡng niềm đam mê với nghề.

Và chúng ta cũng vô cùng trân trọng các văn nghệ sĩ của tỉnh nhà thông qua tác phẩm văn học, nghệ thuật, góp phần tuyên truyền, lan tỏa  nhân lên những điều tử tế, tốt đẹp trong cuộc sống. Và trân trọng hàng trăm phóng viên đang công tác tại đài truyền thanh cấp huyện, xã, các cán bộ, đảng viên, công chức,… của tỉnh tham gia làm báo, mỗi người, thông qua tác phẩm báo chí của mình phản ánh khá toàn diện, kịp thời, trung thực, bức tranh sinh động của đời sống xã hội trên tất cả các lĩnh vực, đóng góp quan trọng vào việc xây dựng đồng thuận xã hội, đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước và khát vọng cao đẹp vì một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, vì một An Giang - quê hương Chủ tịch Tôn Đức thắng ngày càng văn minh, giàu đẹp.

Gửi gắm sự trân trọng, niềm tin đến đội ngũ những người làm báo tỉnh nhà

Trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, phát sinh những vấn đề chưa từng có trong tiền lệ, đã ảnh hưởng, tác động rất lớn đến công tác tư tưởng nói chung và công tác tuyên truyền nói riêng. Bên cạnh là những khó khăn chung của các cơ quan báo chí trên phạm vi cả nước, trong đó có nhiều khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan báo chí tỉnh nhà như: Về doanh thu thấp, quảng cáo sụt giảm, trong khi yêu cầu về nhiệm vụ đặt ra ngày càng lớn trước sự bùng nổ thông tin và cạnh tranh ngày càng khốc liệt của các nền tảng xã hội.

Bao-chi-cacchmang-vn-8.jpg

Đồng chí Trần Thị Thanh Hương, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy phát biểu tại buổi làm việc với Đài Phát thanh - Truyền hình An Giang

Vượt lên những chồng chất khó khăn đó, các cơ quan báo chí, tuyên truyền trên địa bàn tỉnh nói chung đã bám trụ, nỗ lực, không ngừng đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp tuyên truyền; linh hoạt, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ. Qua đó, góp phần tích cực tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội; củng cố, nâng cao niềm tin trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

Vừa qua ngày 12/6, cùng Đoàn công tác đến và làm việc với Đài nhằm gặp gỡ, trao đổi, động viên; đồng thời, khảo sát, nắm tình hình hoạt động của Đài Phát thanh - Truyền hình An Giang, đồng chí Trần Thị Thanh Hương, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã biểu dương, ghi nhận, đánh giá cao sự nỗ lực, trách nhiệm, quyết tâm và những kết quả đáng trân trọng của tập thể nhà báo, phóng viên, cán bộ của Đài, của các cơ quan báo chí, tuyên truyền của tỉnh đã đạt được trong thời gian qua. Đồng chí mong muốn, đặt niềm tin những kết quả đó tiếp tục sẽ được phát huy hơn nữa trong thời gian tới.

Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Trần Thị Thanh Hương cũng nhấn mạnh: Nhiệm vụ đặt ra cho công tác báo chí hiện nay và thời gian tới rất nặng nề, đòi hỏi rất cao về chất lượng, hiệu quả, cả về lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, triển khai thông tin, tuyên truyền… Tuy nhiên, đồng chí cho rằng đây là điều kiện, cơ hội để những người làm báo của tỉnh thể hiện tốt vai trò, trách nhiệm chính trị, sức sáng tạo để có những tác phẩm báo chí có chất lượng, hiệu quả xã hội tích cực.

Đồng chí mong muốn mỗi cán bộ, phóng viên, biên tập viên, nhân viên đang công tác tại các cơ quan báo chí trên địa bàn tỉnh phải phát huy tối đa trình độ, kinh nghiệm, bằng chính năng lực nội tại đoàn kết cùng tập thể vượt qua khó khăn, vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao. Đồng chí tin tưởng thực hiện tốt những điều này, cơ quan báo chí, người làm báo của tỉnh sẽ nhận được sự tôn trọng của cả xã hội, khẳng định được thương hiệu giúp cạnh tranh hiệu quả trước các nền tảng truyền thông xã hội.

Tin tưởng rằng, với truyền thống trung thành với Đảng, gắn bó với dân tộc và Nhân dân, đội ngũ những người làm báo cả nước và của tỉnh An Giang hôm nay sẽ ngày càng lớn mạnh, không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, hoàn thành tốt sứ mệnh cao cả, là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, xứng đáng với niềm tin, kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, xứng đáng với vị thế của một nền báo chí sắp tròn 100 năm tuổi./.

NGỌC HÂN

 

An Giang tiếp tục lan tỏa  các phong trào thi đua yêu nướcAn Giang 190 nămBài viếtTTCTTTAn Giang tiếp tục lan tỏa  các phong trào thi đua yêu nước/SiteAssets/Thidua-yeunuoc1.jpg
11/06/2024 9:00 SANoĐã ban hành

(​TUAG)- Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, điều hành của chính quyền, sự phối hợp chặt chẽ của Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội các cấp và sự hưởng ứng tích cực của các tầng lớp nhân dân, phong trào thi đua yêu nước trên địa bàn tỉnh An Giang ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả thiết thực, tạo khí thế thi đua sôi nổi, động viên, khích lệ các tập thể, cá nhân, mọi tầng lớp nhân dân khắc phục khó khăn, quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị đã đề ra.

Thidua-yeunuoc1.jpg

Sôi nổi các phong trào thi đua

Phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”: Được triển khai sâu rộng, đồng bộ, nội dung phong phú và hình thức đa dạng, góp phần mang lại nhiều thành tựu to lớn trong xây dựng nông thôn mới (NTM). Kết quả đến cuối năm 2023, An Giang có 71/110 xã đạt chuẩn NTM, 29 xã đạt chuẩn NTM nâng cao và có 02 xã trên địa bàn huyện Thoại Sơn đạt tiêu chí xã NTM kiểu mẫu là xã Định Thành (kiểu mẫu về lĩnh vực tổ chức sản xuất) và xã Vĩnh Trạch (kiểu mẫu về lĩnh vực giáo dục); 03 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM. Sở Nội vụ (Ban Thi đua - Khen thưởng tỉnh) đã phối hợp các sở, ban ngành tham mưu Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh giới thiệu 01 tập thể và 02 cá nhân là điển hình tiên tiến tiêu biểu xuất sắc trong phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng NTM” giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh.

Phong trào thi đua “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” với sự tham gia, vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nhiều chương trình, hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ người nghèo đã được các ban, ngành, địa phương tổ chức thực hiện như: Khám chữa bệnh miễn phí, hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo; miễn, giảm học phí, trao học bổng cho học sinh nghèo; hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nghèo; hỗ trợ xây dựng nhà ở, vay vốn tín dụng cho hộ nghèo, hộ cận nghèo… Quỹ “Vì người nghèo” ngày càng được sự ủng hộ nhiệt tình của các tổ chức, cá nhân, các nhà hảo tâm trong và ngoài tỉnh góp phần vào việc hỗ trợ, giúp đỡ, chung tay vì người nghèo và thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; tạo được sự đồng thuận cao trong các tầng lớp nhân dân.

Phong trào thi đua “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở”: Qua gần 5 năm thực hiện Kế hoạch phát động của UBND tỉnh, công tác thi đua xây dựng môi trường làm việc văn hóa, văn minh, dân chủ, thân thiện, công sở hiện đại, an toàn, xanh, sạch, đẹp tiếp tục được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm. Qua đó, tạo bước chuyển biến rõ nét về phương thức, lề lối làm việc, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở các địa phương, cơ quan, đơn vị; công tác cải cách hành chính, số hóa, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, điều hành và tác nghiệp hằng ngày được đẩy mạnh; việc công khai, minh bạch công tác quản lý, điều hành công việc được đề cao; vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý, điều hành các hoạt động được phát huy.

Phong trào thi đua “Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí”: UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch phát động, triển khai phong trào thi đua với nội dung thiết thực, hình thức phong phú, sâu rộng, đồng bộ, xuyên suốt từ tỉnh đến cơ sở, tạo khí thế thi đua sôi nổi, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong đẩy mạnh xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại trên phạm vi toàn tỉnh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Khơi dậy mạnh mẽ khát vọng về sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh An Giang, phát huy tính chủ động sáng tạo của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân; tự lực tự cường, khai thác tối đa tiềm năng của tỉnh, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ XI.

Các phong trào thi đua do địa phương tổ chức, phát động: Các phong trào thi đua trên địa bàn tỉnh được tổ chức triển khai sâu rộng trong cả hệ thống chính trị, các thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân dân. Đẩy mạnh thi đua toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội; thi đua phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, tạo bức phá nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả.

Thidua-yeunuoc.webp

Trong những năm qua, các phong trào thi đua đã có sự đổi mới về nội dung, hình thức và phương pháp tổ chức theo hướng tập trung về cơ sở. Các phong trào thi đua yêu nước được gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị và các cuộc vận động của địa phương. Chỉ tiêu thi đua cụ thể, hình thức đa dạng, phong phú; có sơ kết, tổng kết, biểu dương khen thưởng kịp thời và mang lại hiệu quả cao. Bám sát mục tiêu, kế hoạch và nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương; nội dung thi đua tập trung giải quyết những tồn tại, khó khăn, vướng mắc của từng ngành, địa phương, đơn vị, khơi dậy nguồn lực và sức mạnh của toàn xã hội. Thông qua các phong trào thi đua, nhiều tập thể, cá nhân tiêu biểu đã được phát hiện và biểu dương, khen thưởng kịp thời. Tỉnh đã tổ chức nhiều hoạt động biểu dương các điển hình tiên tiến trong nhiều lĩnh vực, như: Tập thể, cá nhân có đóng góp tiêu biểu trong lĩnh vực xã hội hóa và an sinh xã hội; các gương điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; công nhân lao động giỏi, lao động sáng tạo; nông dân sản xuất kinh doanh giỏi,v.v..

Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác thi đua khen thưởng

Để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, lan toả sâu rộng phong trào thi đua yêu nước, các ngành, các cấp trong tỉnh quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện tốt một số nhiệm vụ chủ yếu sau:   

Thứ nhất, tăng cường quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là người đứng đầu trong công tác thi đua, khen thưởng; phải thật sự coi trọng công tác thi đua, khen thưởng, xem đây là động lực và là biện pháp hữu hiệu để góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị được giao. Tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, chính quyền, nhất là vai trò của người đứng đầu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện các phong trào thi đua tại địa phương, cơ quan, đơn vị.

Thứ hai, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh thường xuyên phối hợp các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc phát hiện và nhân rộng gương “Người tốt - Việc tốt”, xây dựng những mô hình hay, cách làm mới, suy tôn, khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân lập được thành tích xuất sắc đã đóng góp tích cực cho phong trào thi đua và luôn tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy phong trào thi đua ngày càng phát triển.

TS-chiensai-giatangsx-2.jpg

Chiến sĩ dân quân Ban CHQS xã Bình Thành thi đua tăng gia sản xuất.

Thứ ba, thường xuyên đổi mới phương thức tổ chức phong trào thi đua, xây dựng và tuyên truyền nhân rộng điển hình tiên tiến theo hướng giao quyền chủ động cho cơ sở, hướng đến đối tượng là người trực tiếp công tác, lao động, học tập, sản xuất và gắn với nhiệm vụ chuyên môn cụ thể. Các phong trào thi đua phải đi sâu vào quần chúng, gần gũi với quần chúng, từ đó phát hiện những sáng kiến, mô hình, cách làm hay để nhân rộng. Các nội dung phong trào thi đua phải tập trung vào mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách của địa phương, đơn vị và mục tiêu, nhiệm vụ chung theo nghị quyết đại hội đảng các cấp đã đề ra, tránh đưa ra những nội dung thi đua dàn trải trên nhiều lĩnh vực, thiếu trọng tâm trọng điểm. Các cơ quan tham mưu, các cấp có thẩm quyền phải thật sự quan tâm, nhanh nhạy nắm bắt những vấn đề bức xúc, nổi cộm, những khâu yếu của địa phương, đơn vị và tìm cách tháo gỡ thông qua việc tổ chức các phong trào thi đua theo chuyên đề để tập trung nguồn lực, biện pháp giải quyết vấn đề khó khăn, tồn tại. Cuối mỗi đợt thi đua, cần có tổng kết, đánh giá để rút kinh nghiệm; đồng thời kịp thời phát hiện những mô hình, cách làm hay để vun đắp và nhân rộng.

Thứ tư, định kỳ hàng năm, cơ quan thường trực của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh tham mưu ban hành kế hoạch tuyên truyền gương điển hình tiên tiến, triển khai các hoạt động tuyên truyền sâu rộng trong các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân về các phong trào thi đua yêu nước và giới thiệu các gương điển hình tiên tiến. Ban Thi đua - Khen thưởng tỉnh tiếp tục phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Đài Phát thanh - Truyền hình An Giang, Báo An Giang và Sở Thông tin - Truyền thông để tuyên truyền về phong trào thi đua yêu nước. Qua đó kịp thời phát hiện, giới thiệu những cá nhân, tập thể có thành tích tiêu biểu, xuất sắc để biểu dương, nhân rộng.

BAN THI ĐUA - KHEN THƯỞNG TỈNH

Thành kính tưởng nhớ Bác!An Giang 190 nămTinNgọc HânThành kính tưởng nhớ Bác!/SiteAssets/AG-danghuong-BHBT-19524-4.jpg
19/05/2024 11:25 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Nhân kỷ niệm 134 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2024), sáng 19/5, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh An Giang Lê Văn Nưng, cùng các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, lãnh đạo các Ban Đảng; đoàn thể; Văn phòng Tỉnh ủy; các cháu thiếu niên nhi đồng đã dâng hoa, dâng hương tưởng nhớ Bác Hồ, Bác Tôn tại Nhà truyền thống Tỉnh ủy.

 AG-danghuong-BHBT-19524-1.jpg

Không gian thờ Bác Hồ, Bác Tôn tại Nhà truyền thống Tỉnh ủy

AG-danghuong-BHBT-19524-2.JPG

Các đại biểu thắp hương kính dâng Bác Hồ, Bác Tôn

AG-danghuong-BHBT-19524-3.jpg

Một phút mặc niệm bày tỏ lòng biết ơn, tưởng nhớ Bác Hồ, Bác Tôn

Trong không khí trang nghiêm của buổi lễ, các đại biểu thành kính dâng hoa, dâng hương và dành một phút mặc niệm bày tỏ lòng biết ơn, tưởng nhớ công lao to lớn của Bác Hồ, Bác Tôn.

AG-danghuong-BHBT-19524-4.jpg

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Lê Văn Nưng và Chủ tịch UBMTTQ Việt Nam tỉnh Nguyễn Tiếc Hùng thắp hương Bác Hồ, Bác Tôn

 AG-danghuong-BHBT-19524-5.jpg

Các cháu thiếu niên nhi đồng dâng hương Bác Hồ, Bác Tôn

Trước anh linh Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn đại biểu bày tỏ lòng biết ơn vô hạn, thành kính tưởng nhớ công lao to lớn của Người đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta.

Với mỗi người dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là biểu tượng sáng ngời về đạo đức cách mạng, tấm gương hy sinh, hiến dâng trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, để lại cho thế hệ mai sau một di sản tinh thần vô cùng quý báu, đó là tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người.

Tháng 5 nhớ Bác, thắp nén hương dâng lên Bác Hồ và Bác Tôn. Đảng bộ, chính quyền, quân và dân An Giang nguyện học tập và làm theo tấm gương Bác Hồ, Bác Tôn, chung sức đồng lòng, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi mọi mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, góp phần xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phát triển, đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, như nguyện ước của Bác Hồ, Bác Tôn.

"Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn

Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi

Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn!"[1]

NGỌC HÂN

_____________

[1] Trích 3 câu thơ cuối bài thơ Bác ơi của Nhà thơ Tố Hữu.


Đoàn đại biểu dự Chương trình Giao lưu gương điển hình đến dâng hoa, dâng hương, báo công với Bác TônTinNguyễn LamĐoàn đại biểu dự Chương trình Giao lưu gương điển hình đến dâng hoa, dâng hương, báo công với Bác Tôn/SiteAssets/Le-baocong-BacTon-6.jpg
16/05/2024 5:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Chiều ngày 16/5, Đoàn đại biểu dự Chương trình Giao lưu gương điển hình “An Giang học tập và làm theo Bác Hồ, Bác Tôn về chăm lo đời sống nhân dân” đã đến dâng hương, báo công với Bác Tôn tại Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng, xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên.

Le-baocong-BacTon-1.jpg 

Le-baocong-BacTon-2.jpg

Đoàn đại biểu dâng hương, báo công với Bác Tôn

Tham dự buổi lễ có đồng chí Trần Thị Thanh Hương, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh; Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tổ chức Giao lưu; các đồng chí đại diện Thường trực các huyện, thị, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy; các đồng chí trong Ban Tổ chức giao lưu; cùng sự tham dự của 16 tập thể, cá nhân là gương điển hình tiêu biểu trong toàn tỉnh được xét chọn để tôn vinh trong Chương trình giao lưu các gương điển hình trong học tập và làm theo tấm gương Bác Hồ, Bác Tôn về chăm lo đời sống nhân dân năm 2024.

Le-baocong-BacTon-3.jpg

Đồng chí Nguyễn Mạnh Hà - Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy thay mặt Đoàn đại biểu báo công với Bác Tôn về những thành tựu to lớn, dấu ấn nổi bật mà Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh nhà đã được trong thời gian qua

Tháng Năm về, trong mỗi chúng ta lại bồi hồi xúc động tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh - người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng sự nghiệp vĩ đại, tấm gương cao đẹp của Người luôn sống mãi với non sông đất nước Việt Nam. Với tất cả tấm lòng vì nước, vì dân, trước lúc đi xa, trong Di chúc Người căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân”.

Di nguyện thiêng liêng của Bác Hồ được bao thế hệ khắc ghi, nỗ lực hiện thực hóa. Và tự hào biết bao trong lớp người kế tục sự nghiệp của Bác Hồ có Bác Tôn - người con ưu tú của quê hương An Giang, người chiến sĩ cộng sản kiên trung, mẫu mực, người bạn chiến đấu gần gũi, thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi nhận trọng trách Chủ tịch nước vào tháng 9/1969, Bác Tôn xúc động phát biểu: “Được kế tiếp chức vụ của Hồ Chủ tịch là điều rất vinh quang đối với tôi”. Trong suốt cuộc đời mình, dù ở bất cứ cương vị nào, Bác Tôn vẫn luôn là một biểu tượng sáng ngời về đạo đức cách mạng, yêu thương đồng chí, quý trọng đồng bào; dù khó khăn đến đâu cũng không dao động, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

Le-baocong-BacTon-4.jpg 

Đồng chí Trần Thị Thanh Hương, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh; Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tổ chức Giao lưu dâng hương tưởng niệm Bác Tôn

Le-baocong-BacTon-5.jpg

Các đại biểu thành kính dâng hương tưởng nhớ Bác Tôn

Khắc ghi di nguyện của Bác Hồ, học tập tấm gương của Bác Tôn, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang qua các thời kỳ đã không ngừng đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, phát huy ý chí tự lực, tự cường; chủ động, dám nghĩ, dám làm; vận dụng sáng tạo những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với đặc điểm, tình hình của địa phương và đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.

Trước anh linh của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, các đại biểu đã dâng hương, dâng hoa báo công dâng Người để bày tỏ lòng thành kính, biết ơn vô hạn, nguyện tiếp tục học tập và làm theo tấm gương Bác Hồ, Bác Tôn về chăm lo đời sống nhân dân.

Le-baocong-BacTon-13.jpg

Le-baocong-BacTon-6.jpg

Le-baocong-BacTon-10.jpg

Le-baocong-BacTon-8.jpg

 Le-baocong-BacTon-11.jpg

Le-baocong-BacTon-7.jpg

Le-baocong-BacTon-12.jpg

Sau Lễ dâng hương, báo công, Đoàn đại biểu tham quan Khu Lưu niệm Đền thờ Chủ tịch Tôn Đức Thắng.

Nguyễn Lam

An Giang hưởng ứng Chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954 và Chiến dịch Điện Biện Phủ 1954An Giang 190 nămBài viếtTTCTTTAn Giang hưởng ứng Chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954 và Chiến dịch Điện Biện Phủ 1954/SiteAssets/A00405052024.jpg
07/05/2024 10:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ là cuộc tiến công quy mô lớn nhất của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” là kết quả của sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là kết tinh của tinh thần “quyết chiến, quyết thắng” của toàn dân, toàn quân ta trên con đường đấu tranh, thực hiện khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.

A00505052024.jpg

Ngày 07/5/1953, Henrri Navarre được Chính phủ Pháp cử sang làm Tổng Chỉ huy Quân đội Pháp ở Đông Dương. Navarre đã đề ra kế hoạch quân sự với hy vọng quân Pháp đang trong tình thế phòng ngự bị động sẽ “chuyển bại thành thắng” trong vòng 18 tháng.

Trước tình hình đó, tháng 9/1953, Bộ Chính trị đã họp bàn nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953 - 1954. Tháng 11/1953, quân ta tiến lên Tây Bắc. Cùng với đó, quân ta tiến đánh Trung Lào, Hạ Lào, Bắc Tây Nguyên, Thượng Lào. Buộc quân Pháp buộc phải phân tán lực lượng để giữ Tây Bắc. Ngày 20/11/1953, quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Chúng bố trí lực lượng ở đây lúc cao nhất lên đến 16.200 quân và nhiều vũ khí, phương tiện hiện đại tại 49 cứ điểm, với 3 phân khu. Xác định cứ điểm Điện Biên Phủ là một pháo đài “bất khả xâm phạm”.

Nắm chắc tình hình, âm mưu, thủ đoạn của địch và nhận thấy mặc dù Điện Biên Phủ sẽ là một tập đoàn cứ điểm mạnh, nhưng có cái yếu cơ bản là bị cô lập, mọi việc tiếp viện, tiếp tế đều dựa vào đường không”, ngày 06/12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Để bảo đảm các điều kiện cho chiến dịch thắng lợi trọn vẹn, Trung ương Đảng và Bác Hồ đã tập trung lãnh đạo, đẩy mạnh cuộc vận động Nhân dân các địa phương, phát huy được sức mạnh của cả hậu phương và tiền tuyến nhằm phát huy tinh thần, cung cấp đầy đủ các điều kiện về hậu cần, kỹ thuật, phương tiện cho bộ đội tham gia trận quyết chiến lịch sử này.

Nghị quyết của Bộ Chính trị và Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được quân dân cả nước tích cực hưởng ứng sôi nổi, đồng lòng, dốc sức cho chiến dịch. Từ đầu năm 1954, khắp các chiến trường trong cả nước dấy lên phong trào thi đua “giết giặc lập công”. Tỉnh ủy Long Châu Hà, Long Châu Sa đã chủ trương phối hợp với chiến trường cả nước bằng các hoạt động nhịp nhàng, quân dân trong toàn tỉnh tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích và đẩy mạnh công tác địch ngụy vận. Hướng chính nhắm vào vùng Hòa Hảo và vùng Bảy Núi.

Ở vùng biên giới giáp Campuchia, qua quá trình bền bỉ xây dựng tình đoàn kết chiến đấu đã đạt được nhiều tiến bộ. Các tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể được củng cố. Hai nước đã được giữ vững liên lạc, kịp thời giải quyết những vấn đề cấp thiết, lâu dài hoặc mới nảy sinh. Hai bên đã phần nào thông hiểu tình hình của nhau. Nhân dân hai bên biên giới qua lại làm ăn, trao đổi sản phẩm dễ dàng, thuận lợi.

Hưởng ứng chủ trương tổng công kích, Tỉnh ủy, Tỉnh đội chỉ đạo các lực lượng vũ trang bám trụ địa bàn hoạt động, xây dựng cơ sở vùng địch hậu, giữ vững căn cứ, nối liền từ lộ Cái Sắn đến tận kênh Vĩnh Tế, giáp biên giới với Campuchia để đưa dân vùng địch hậu vào, vừa nhằm phát triển sản xuất, vừa tạo thuận lợi cho bộ đội cơ động nhanh.

Phối hợp chiến trường trong cả nước, các đơn vị võ trang hoạt động đều trên các huyện, chú trọng mọi hình thức phá hoại, pháo kích, bao vây, tiêu hao địch, kết hợp với vũ trang tuyên truyền địch vận. Du kích hăng hái đăng ký vào bộ đội đi chiến đấu. Trong tháng 5/1954, Long Châu Hà đã huy động gần 150 du kích vùng căn cứ tham gia chiến đấu ở các chiến trường.

Trải qua “năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt; máu trộn bùn non; gan không núng; chí không mòn”, ngày 07/5/1954, chiến thắng Điện Biên Phủ đã giành thắng lợi hoàn toàn, trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Genève về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Chiến thắng đã trở thành tiếng sấm rền vang làm rung chuyển thế giới, xé toạc đám mây đen của chủ nghĩa thực dân - đế quốc, mang đến nguồn cổ vũ to lớn cho các dân tộc bị áp bức đứng lên giành độc lập. Ba tiếng Việt Nam - Hồ Chí Minh - Điện Biên Phủ vang lên khắp mọi nơi, trở thành niềm tự hào và khát vọng tự do của loài người tiến bộ, là biểu tượng của lòng quả cảm vô song và là ngôi sao sáng của phong trào giải phóng dân tộc, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.

Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954 - 2024) là dịp chúng ta thêm tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi sóng gió đi đến bến bờ vinh quang. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mãi mãi là niềm tự hào, là nguồn sức mạnh to lớn cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, khơi dậy và hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

ĐẶNG THỊ KIM TUYẾN

Giải phóng An Giang - Những ngày tháng hào hùng khó quênAn Giang 190 nămBài viếtAn BìnhGiải phóng An Giang - Những ngày tháng hào hùng khó quên/SiteAssets/49-nam-GPMN.jpg
28/04/2024 7:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Trong những ngày diễn ra Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng, quân và dân An Giang đã phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, cùng với cả nước chung sức, đồng lòng, quyết tâm giải phóng quê hương, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

49-nam-GPMN.jpg

Bước vào năm 1975, trước diễn biến mới của tình hình thực địa chiến trường, tỉnh đã khẩn trương xây dựng kế hoạch hoạt động với tinh thần "một ngày bằng hai mươi năm", chọn mục tiêu, củng cố và phát triển lực lượng vũ trang từ tỉnh đến xã, ấp, phát động phong trào quần chúng tấn công ba mũi, chuẩn bị cơ sở bên trong sẵn sàng khởi nghĩa khi tình thế chín muồi.

Ngày 28/4/1975, Quân khu 9 chỉ đạo cho tỉnh đưa lực lượng vũ trang về giải phóng Hà Tiên là nơi yếu nhất của địch. Khi lực lượng ta hành quân đến Nam Thái Sơn thì được tin Dương Văn Minh đầu hàng, Tỉnh ủy quyết định chia lực lượng ra làm hai cánh: một cánh tiếp tục tiến về Hà Tiên, cánh thứ hai quay lại Ba Thê để giải phóng Long X uyên.

Chiều tối ngày 30/4/1975, cánh quân giải phóng Long Xuyên của tỉnh và thị xã Long Xuyên về đến Ba Thê. Ở đây, lực lượng khởi nghĩa của huyện đã kiểm soát hoàn toàn. Sáng ngày 01/5/1975, ta bao vây gọi hàng chi khu ở Núi Sập, đến trưa thì giải phóng hoàn toàn quận lỵ Huệ Đức. Lực lượng tỉnh củng cố đội ngũ tiến về thị xã Long Xuyên. Lúc 18 giờ 30 ngày 01/5/1975, ta giải phóng hoàn toàn thị xã Long Xuyên; sau đó bộ đội ta tiếp tục tiến lên Châu Thành.

Tại Châu Thành, chiều tối ngày 30/4/1975 lực lượng vũ trang huyện ra đến Lộ Tẻ, đánh chiếm cầu số 5, hỗ trợ lực lượng tại chỗ giành chính quyền Vĩnh Hanh, Cần Đăng. Sáng ngày 01/5/1975, ta chặn đánh tan rã lực lượng bảo an ngụy từ Tri Tôn tiến ra. Trưa ngày 01/5/1975, ta bao vây gọi hàng chi khu Châu Thành, một bộ phận địch chạy qua đồn Bình Thủy lập phòng tuyến "tử thủ". Ta chiếm chi khu lúc 16 giờ, đưa một bộ phận xuống bao vây trại công binh Mê Linh. Chiều tối ngày 01/5/1975 phối hợp lực lượng từ Long Xuyên lên, ta chiếm trại Mê Linh và sáng hôm sau đánh dứt điểm địch ở cồn Bình Thủy. Bộ đội quân khu và tỉnh tiếp tục tiến lên Châu Phú. Ngày 02/5/1975, ta giải phóng hoàn toàn Châu Phú.

49-nam-GPMN1.jpg

Nhân dân vui mừng chiến thắng.

Ở Tri Tôn, quân ta giải phóng hoàn toàn trong ngày 01/5/1975.

Ở Tịnh Biên, sáng ngày 01/5/1975, quân ta giải phóng huyện Tịnh Biên.

Tại Châu Đốc, gần trưa ngày 01/5/1975, ta giải phóng hoàn toàn tỉnh lỵ.

Ở Tân Châu, chiều ngày 30/4/1975, bộ đội địa phương huyện, du kích và lực lượng tại chỗ giải phóng xã Vĩnh Xương, sáng 01/5/1975, ta chiếm Tân An, Vĩnh Hòa và tiến về thị trấn; sau đó ta đánh chiếm chi khu, căn cứ hải quân Vịnh Đồn, giải phóng quận lỵ; trưa ngày 01/5/1975, sau khi giải phóng Hồng Ngự, một bộ phận của Tiểu đoàn 2 đã qua Tân Châu. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định chia bộ đội thành 3 cánh quân: một cánh đi An Phú, hai cánh tiến về "Thánh địa Hòa Hảo" theo ngả Long Sơn và Hòa Lạc.

Ở An Phú, từ chiều ngày 30/4/1975, lực lượng huyện chia làm 3 mũi tiến về thị trấn từ phía Phú Hội, Khánh Bình, Phú Hữu. Chiều tối ngày 01/5/1975, ta vào đến thị trấn và sáng ngày 02/5/1975 phối hợp với bộ đội tỉnh tiếp quản quận lỵ, tiến hành truy quét tàn quân cặp biên giới.

Ở Phú Tân, từ trưa ngày 30/4/1975, bọn ác ôn, ngoan cố trong ngụy quân, ngụy quyền phối hợp với bảo an quân khoảng 20.000 tên lập các phòng tuyến "tử thủ", đến sáng ngày 03/5/1975 họ mới chấp thuận thương lượng với ta, đến chiều ta kiểm soát toàn bộ trung tâm Phú Tân. Ngày 04/5/1975, tàn quân bảo an quân ở Bình Thạnh Đông, Hiệp Xương, Hưng Nhơn lần lượt đầu hàng. Phú Tân được giải phóng hoàn toàn.

Tại Chợ Mới, từ sáng ngày 30/4/1975, một số tên binh, tề ngụy cấp cao và bọn phản động trong các tổ chức chính trị, tôn giáo ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long tụ tập tại Tây An Cổ Tự (Long Kiến) họp bàn kế hoạch đòi giành chính quyền ở miền Tây. Đến trưa ngày 30/4/1975, tàn quân ngụy và bảo an quân lập tuyến phòng thủ nhiều tầng từ rạch Cái Tàu Thượng đến rạch Ông Chưởng.

Chiều ngày 30/4/1975, lực lượng của ta từ Mỹ An Hưng (Thạnh Hưng) về lần lượt đánh tan trận địa phòng ngự của địch ở Hội An và Hòa Bình. Ta giải phóng xã vào trưa ngày 01/5/1975. Cùng với Hội An, ở 3 xã Cù lao Giêng, cơ sở cùng đảng viên địa phương vận động quần chúng nổi dậy giải phóng xã.

Trong ngày 01/5/1975, ta tiếp tục đánh địch ở phòng tuyến kinh Cựu Hội và An Thạnh Trung, đẩy chúng lui về tuyến chính ở khu vực chợ Bà Vệ và Long Điền B. Sáng ngày 03/5/1975, ta chiếm chi khu Chợ Mới, chuẩn bị tiến về Long Kiến. Trong lúc đó, địch tiếp tục tăng cường củng cố các tuyến phòng thủ còn lại. Tàn quân ngụy và bảo an quân từ Long Xuyên, Châu Phú, Phú Tân tiếp tục chạy về Tây An Cổ Tự, nâng tổng quân số hơn 5.000 tên. Chiều ngày 03/5/1975, ta lần lượt đánh chiếm tuyến Long Điền, Bà Vệ, phát loa gọi bảo an quân ra hàng để tránh đổ máu vô ích. Ngày 04/5/1975, nghe lời kêu gọi của thân nhân, cả ngàn bảo an quân ra hàng tay không nhưng còn trên 3.000 tên bị bọn đầu sỏ khống chế vẫn tiếp tục "tử thủ". Ta cho hai máy bay L.19 lên trinh sát và pháo binh bắn vào trận địa địch, đồng thời lực lượng ta mở ba mũi tiến về Tây An Cổ Tự.

Trước nguy cơ bị bao vây tiêu diệt, đến 8 giờ sáng ngày 06/5/1975 toàn bộ số quân còn lại kéo cờ trắng ra hàng, ta chiếm Tây An Cổ Tự. Từ ngày 6 đến ngày 10/5/1975, ta lần lượt tiếp quản các xã còn lại.

Trước bối cảnh khó khăn đặc biệt của tỉnh trong những ngày cuối tháng 4 đầu tháng 5/1975, nhưng Đảng bộ, quân và dân An Giang đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, anh dũng chiến đấu, vượt qua mọi gian khổ, hy sinh để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng quê hương, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.  

Nhân dân thị xã Long Xuyên trong ngày vui đại thắng 1975

Suốt 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, quân và dân An Giang quyết tâm bám giữ đất, giữ làng, kiên cường đánh bại các âm mưu, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù để cùng cả nước đi đến ngày toàn thắng. Thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kỳ trên một địa bàn biên giới, dân tộc, tôn giáo rất phức tạp là minh chứng rõ nhất thể hiện vai trò lãnh đạo đúng đắn của Đảng, tinh thần yêu nước cao độ của các tầng lớp nhân dân An Giang, không ngại hy sinh xương máu, tù đày, gian khổ, kiên cường, bám dân, bám đất, quyết tâm chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Thời gian đã lùi xa 49 năm, nhưng những ngày tháng hào hùng ghi dấu chiến công oanh liệt của quân và dân An Giang trong cuộc chiến đấu trường kỳ để giải phóng quê hương mãi mãi là bản trường ca bất diệt và là niềm tự hào to lớn cho các thế hệ mai sau học tập noi theo. 

AN BÌNH

Học tấm gương Bác Tôn về chăm lo đời sống nhân dânAn Giang 190 nămBài viếtAn BìnhHọc tấm gương Bác Tôn về chăm lo đời sống nhân dân/SiteAssets/AG-chamlotet24-2.jpg
20/04/2024 10:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Chủ tịch Tôn Đức Thắng - Nhà lãnh đạo mẫu mực, người cộng sản kiên trung, người bạn chiến đấu thân thiết lâu năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời - suốt đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với 92 tuổi đời, gần 70 năm hoạt động cách mạng, được Đảng và Nhà nước phân công giữ nhiều trọng trách, Người đã có những cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam, vì độc lập, tự do cho Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân.


Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang trao quà Tết cho bà con nghèo trên địa bàn tỉnh

Bác Tôn như mọi người vẫn gọi, là người cộng sản mẫu mực, sống chân thành mà chí khí cao cả, làm nhiều nhưng nói ít, luôn nỗ lực phấn đấu hoàn toàn không vì ham muốn địa vị, vật chất mà là vì nước, vì dân; vị lãnh tụ của Nhân dân, tràn đầy tình yêu thương đồng chí, đồng bào.  

Sớm kế thừa truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc, tinh thần nghĩa hiệp, mộc mạc, trọng tình người của chất người Nam Bộ và sự hồn hậu, coi trọng tình làng, nghĩa xóm của gia đình, ngay từ những năm tháng tuổi trẻ, Bác Tôn đã sớm bộc lộ tinh thần yêu nước, thương dân, không sợ gian khó, sớm dấn thân theo con đường cách mạng. Bác Tôn luôn gần gũi và giúp đỡ, bênh vực những con người bình thường, nhất là khi họ gặp phải hoàn cảnh trái ngang, bất công. Khi đang theo học tại trường tiểu học, Bác Tôn đã tổ chức những người bạn thân thiết đứng về phía những học sinh bị đối xử bất công và đấu tranh chống lại những kẻ ỷ thế ăn hiếp người khác. Thậm chí, khi viên đốc học người Pháp bắt phạt vô lý học trò lớp nhứt đứng phơi nắng, Bác Tôn đã vận động cả lớp phản đối.

Những năm tháng bị tù đày gian khổ trong ngục tù đế quốc, lòng yêu nước, thương dân vẫn không hề nao núng, mà ngược lại nó đã hun đúc, kết tinh nên trong một con người Tôn Đức Thắng tràn đầy đức hy sinh và tình thương yêu đối với đồng chí, anh em. Hình ảnh người chiến sĩ cách mạng chân chính, gần gũi, biết cách thuyết phục, tổ chức những người tù, chú trọng chăm sóc sức khỏe các bạn tù, đồng thời vững vàng, gan góc trước bọn cai ngục, thậm chí sẵn sàng đưa thân mình hứng chịu những làn roi tàn bạo của kẻ thù để che chở cho đồng chí, đồng đội đã chiếm được sự cảm phục, tin yêu trong nhà tù, dù đó là các chiến sĩ cộng sản, hay những người tù chính trị khác, hoặc tù thường phạm. Bác Tôn đã tham gia sáng lập Chi bộ đặc biệt ở Nhà tù Côn Đảo và trở thành một trong những người lãnh đạo của các tù nhân Côn Đảo. Cùng với các chiến sĩ cộng sản khác, Bác Tôn đã tích cực đấu tranh đòi cải thiện điều kiện sinh hoạt và biến chốn lao tù đế quốc tăm tối, tàn bạo thành trường học cách mạng. Đồng chí Lê Duẩn nhận xét: “Trong tù đày vô cùng khắc nghiệt, vậy mà Bác Tôn luôn luôn lạc quan, giữ lòng tin tưởng, sống với anh em chân tình, ấm áp”.


Đoàn công tác Phó Chủ tịch nước trao tặng 30 phần quà cho gia đình chính sách trên địa bàn xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên

Trải qua nhiều trọng trách được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó, Bác Tôn luôn là tấm gương sáng ngời về tinh thần yêu nước; ý chí đấu tranh cách mạng kiên cường; lòng trung thành, tận tụy; đạo đức trong sáng, mẫu mực, đức tính khiêm tốn, giản dị; tình thương yêu đồng chí, đồng bào; tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc và tình đoàn kết quốc tế vô sản.

Trong thời gian giữ trọng trách Chủ tịch nước, dù bận rất nhiều công việc, Bác Tôn vẫn quan tâm và bố trí thời gian đi thăm hỏi, động viên các đồng chí thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ. Hàng năm, vào dịp Ngày thương binh, liệt sĩ 27/7, Bác Tôn thường gửi thư thăm hỏi ân cần đến các đồng chí thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội. Ngày 27/7/1970, đến thăm thương binh, bệnh binh đang điều dưỡng tại Quân khu III, Bác Tôn động viên anh em yên lòng chữa bệnh và nhắc nhở cán bộ, nhân viên điều trị hết lòng chăm sóc, chữa bệnh cho anh em thương binh, bệnh binh. Bác Tôn động viên các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng và nhắc nhở các cơ quan, đoàn thể, đồng bào các địa phương chấp hành tốt chính sách của Đảng, Nhà nước đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội. Sự quan tâm của vị Chủ tịch nước đối với thương binh, gia đình liệt sĩ không chỉ là mối quan hệ giữa một vị lãnh đạo cấp cao và người dân, mà còn là minh chứng cho mối quan hệ gắn bó, thân tình, nhân ái của lãnh đạo Đảng, Nhà nước đối với những người đồng chí, đồng bào ruột thịt.

Đoàn công tác của Tạp chí Cộng sản tham quan Nhà lưu niệm thời niên thiếu Chủ tịch Tôn Đức Thắng.

Cũng giống như Bác Hồ, trong cuộc sống hằng ngày Bác Tôn luôn khiêm tốn, giản dị, thanh bạch, liêm khiết, chính trực và nghĩa tình. Bác ghét thói đặc quyền, đặc lợi, không bao giờ lợi dụng vị trí công tác của mình để mưu cầu hạnh phúc riêng cho gia đình, cá nhân. Cả ba lần Trung ương định xây nhà nhưng Bác đều từ chối. Bác chỉ ở cùng gia đình trong căn nhà số 35, Trần Phú, Hà Nội. Sau khi Bác gái qua đời, khi thấy mình tuổi đã cao, Bác Tôn liền đề nghị chuyển gia đình các con ra ngoài ở. Theo Bác Tôn, làm như vậy là để chuẩn bị sau này khi mình qua đời, dễ bề trả lại ngôi nhà cho Nhà nước. Một hành động nhỏ nhưng chứa đựng cả một triết lý nhân sinh, mục đích sống cao đẹp.


Lãnh đạo tỉnh trao tặng quà của Phó Chủ tịch nước cho gia đình chính sách trên địa bàn xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên

Trước ngày giải phóng năm 1975, một cán bộ chuẩn bị vượt Trường Sơn về Nam công tác, trước khi rời Hà Nội đồng chí đến thăm sức khỏe và chào Bác Tôn. Hôm đó thấy Bác mặc chiếc áo cũ bị rút ngắn, Bác nối thêm một khúc. Đồng chí hỏi: “Bác ơi, làm Chủ tịch nước sao Bác mặc áo cũ nối thế này?”. Bác cười độ lượng trả lời: “Chủ tịch nước mặc áo nối thì dân mới có đủ cơm ăn”. Đồng chí rưng rưng nước mắt trước tấm lòng yêu nước, lo cho dân của Bác Tôn. Niềm vui và nỗi đau của đất nước chính là nhịp đập chung của trái tim giàu lòng nhân ái, cả cuộc đời chăm lo cho sự nghiệp chung không màng chi danh vọng của Bác Tôn.

Có lần, Bác Tôn đến thăm người bạn tù Côn Đảo năm xưa. Khi đến nhà, thấy người bạn nghèo, tuổi cao nằm co ro trên chiếc giường tre. Bác xót xa ngậm ngùi. Sau khi chuyện trò thăm hỏi, trở về Bác lấy chiếc nệm mút mình vẫn nằm gửi cho bạn. Khi đưa nệm mút nhờ đồng chí thư ký mang đi, Bác nói: “Hồi ở tù chúng tôi đều phải nằm lạnh. Nay không thể một người ấm, còn một người lại phải nằm lạnh”.

Đồng chí Phạm Tống Hoằng, người Long Xuyên ra công tác ở Hà Nội, ở gần nhà Bác đến thăm, thấy Bác đang tưới hoa, tưới kiểng, đồng chí ấy nói: “Bác đưa cháu xách nước cho Bác”. Bác nói: “Không được, để Bác tưới, Bác lao động cho khỏe”. Bác không cho làm thay. Lần khác, đồng chí Hoằng đến gặp lúc Bác đang sửa chiếc xe đạp, liền hỏi: “Chiếc xe đạp của cô, cậu nào không chữa mà Bác phải hì hục thế này?”. Bác nói: “Ô! Xe này của mình đấy, mình sửa chữa để ngày chủ nhật đi thăm bạn bè cũng sống gần đây thôi”. Đồng chí Hoằng nói: “Trời ơi! sao Bác không đi ô tô mà làm việc khổ như thế!”. Bác nói: “Ô! Chỉ có một ngày chủ nhật thôi thì để cho anh lái xe nghỉ ngơi, anh ta còn giúp đỡ gia đình, mình bắt anh ta đi lái xe cho mình nữa thì rất tội”. Bác luôn quan tâm, chăm sóc đến người khác. Không tự cho phép dành đặc quyền cá nhân. Việc gì làm được thì Bác tự làm, không phiền đến mọi người.

Bác Hồ từng dạy: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa” và chính Bác Tôn đã lĩnh hội chủ nghĩa Mác - Lênin theo tinh thần nhân văn cao cả đó: Bác thương những người ruột thịt trong gia đình, bà con hàng xóm, thương những người thợ cùng làm, cùng cảnh ngộ, thương đồng bào bị bóc lột, đàn áp; sống chí tình, chí nghĩa với đồng chí, bạn bè.

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng vẻ vang của mình, dù gặp muôn vàn gian nan, thử thách, Bác Tôn vẫn luôn nêu cao tinh thần cách mạng, giữ trọn niềm tin tất thắng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Người sống khiêm tốn, giản dị, nhân hậu, thủy chung, mẫu mực về đạo đức cách mạng, suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Tấm gương sáng của Bác Tôn là hiện thân tiêu biểu cho tính cách, khí chất, phong thái và nét văn hóa đặc sắc của người Nam Bộ nói chung và An Giang nói riêng: Thương người, luôn hào sảng, trọng nghĩa, bao dung độ lượng, hết lòng vì bạn bè, đồng chí, dũng cảm, mưu trí, vượt mọi khó khăn trở ngại vì nghĩa lớn. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân”. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “Di sản quý nhất mà đồng chí Tôn Đức Thắng để lại cho Nhân dân là chất NGƯỜI Tôn Đức Thắng, sản phẩm tổng hợp của chất hào hiệp Nam Bộ, chất kiên cường và tài năng sáng tạo Việt Nam, chất tiên phong của giai cấp công nhân, chất cách mạng của người yêu nước, người cộng sản, chất nhân đạo của con người. Tinh túy của chất ấy là lòng yêu nước, thương dân, niềm ưu ái với đồng bào, đồng chí; niềm tin sắt đá vào thắng lợi của cách mạng, mặc dù mọi khó khăn gian khổ, tinh thần một lòng một dạ phục vụ Nhân dân, đức chí công vô tư quên mình, sự khiêm tốn, giản dị, hồn nhiên, trong sáng”.

Anh hùng lao động, GS Trần Văn Giàu viết về Bác Tôn: Bác Tôn không phải là nhà lý luận mà là người tiên phong cách mạng... Chúng ta không học Bác ở lý luận mà học ở lập trường, nhân cách, cách sống ở đời,v.v... Tác phẩm hay nhất của Cụ chính là cuộc đời của Cụ. Cụ Tôn là một con người hành động, một con người có lẽ không có ý gì muốn để lại cho đời sau bằng các tác phẩm của mình. Nhưng trên thực tế Người đã để lại cho đời sau chúng ta rất nhiều “tác phẩm” bằng hành động, bằng việc làm và cả những lời nói. Đó là tác phẩm hay hơn nhiều bài viết".


Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động Việt Nam Thái Thu Xương và Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang Lê Văn Nưng trao quà Tết cho công nhân, lao động có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn tỉnh

Là người sớm thoát ly gia đình, xa quê hương hoạt động cách mạng nên tình yêu và nỗi nhớ xứ sở vẫn luôn da diết khôn nguôi trong tâm trí Bác. Được sinh ra và lớn lên tại Cù lao Ông Hổ, tỉnh An Giang, sâu thẳm trong trái tim Bác luôn dành một tình cảm rất tốt đẹp, trân trọng và quý mến cội nguồn quê hương của mình. Bởi chính nơi đây, xuất phát từ truyền thống yêu nước của gia đình, quê hương, từ dòng nước ngọt phù sa sông Hậu đã nuôi dưỡng nên nhân cách cao đẹp của chàng thanh niên Tôn Đức Thắng. Lần đầu sau Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, Bác về thăm An Giang trong nỗi bùi ngùi xúc động. Mặc dù hơn 30 năm xa quê hương nhưng Bác Tôn vẫn giữ nét chân chất của người miệt vườn, luôn ân cần, giản dị, thăm hỏi mọi người. Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang luôn ghi nhớ lời tâm sự và căn dặn quý báu của Bác: Hôm nay, Đảng và Nhà nước cho phép tôi về thăm quê nhà. Chưa bao giờ tôi thấy sung sướng như lúc này, khi cả nước được độc lập tự do, Bắc - Nam thống nhất. Tôi chẳng mong gì hơn là An Giang trở thành tỉnh xuất sắc, giàu mạnh, Nhân dân được ấm no, ai cũng được học hành như Bác Hồ mong muốn trong Di chúc lịch sử của Người.

Có thể nói, những đóng góp, hy sinh của Bác Tôn đối với Tổ quốc, Nhân dân là vô cùng to lớn và rất đáng tự hào. Bác đã đi xa nhưng nhân cách sống và đức hy sinh cao cả của Người vẫn mãi mãi trường tồn và tỏa sáng, là bó đuốc soi đường để mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân học tập, noi theo.


Trao quà cho các em học sinh thuộc hộ nghèo, cận nghèo vượt khó vươn lên học tốt

Học tập tấm gương đạo đức mẫu mực của Bác, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang quyết tâm phát huy cao nhất tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực tự cường, khát vọng phát triển, tiếp tục phát huy tốt truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, tinh thần tương thân tương ái, lối sống nhân hậu, nghĩa tình để khai thác hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh của địa phương, xây dựng An Giang trở thành tỉnh “xuất sắc, giàu mạnh”, Nhân dân được ấm no, hạnh phúc, ai cũng được học hành như di nguyện thiêng liêng của Bác Hồ, Bác Tôn.

A.B

Chiến thắng đồi Tức Dụp - ý nghĩa và bài học của sự kiện, trách nhiệm của thế hệ hôm nayAn Giang 190 nămBài viếtTTCTTTChiến thắng đồi Tức Dụp - ý nghĩa và bài học của sự kiện, trách nhiệm của thế hệ hôm nay/SiteAssets/TT-TucDup.jpg
25/03/2024 9:00 SANoĐã ban hành

​(TUAG)- Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua nhưng những âm vang hào hùng của chiến thắng đồi Tức Dụp không chỉ còn in sâu trong ký ức của các cựu chiến binh từng tham gia chiến đấu, mà còn cả thế hệ trẻ, những người dân yêu nước của huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang ngày hôm nay.

TT-TucDup.jpg

Ngược dòng lịch sử, sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968, lực lượng vũ trang huyện, tỉnh đã giáng cho Mỹ, ngụy những đòn tấn công quyết liệt, loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh; lực lượng cách mạng giữ vững vùng giải phóng ở căn cứ núi Tô, núi Dài và đồng tràm Huệ Đức, Lương Phi.

Với quyết tâm tiêu diệt lực lượng cách mạng, giành lại quyền kiểm soát vùng nông thôn và các tuyến lộ giao thông trọng yếu ở vùng Bảy Núi. Từ giữa năm 1968, Mỹ, ngụy huy động lực lượng quân sự lớn, trang bị vũ khí hiện đại mở cuộc tấn công ồ ạt vào căn cứ Núi Tô.

Từ ngày 17/11/1968, địch huy động 18.000 quân tinh nhuệ, có xe thiết giáp, pháo binh và máy bay ném bom yểm trợ mở cuộc tấn công ồ ạt vào đồi Tức Dụp. Tên gọi: “Ngọn đồi 2 triệu đô la”. Đó là giá chiến phí mà quân đội Mỹ dự tính cho cuộc chiến đấu thần tốc: Chỉ trong tuần lễ sẽ chiếm hoàn toàn mật khu nối liền đường Hồ Chí Minh với miền Tây Nam Bộ…

Về phía ta, lực lượng đóng giữ tại đây chỉ khoảng gần 200 cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang tỉnh, bộ đội địa phương huyện Tri Tôn, Châu Thành, Long Xuyên và du kích xã An Tức, Cô Tô, Ô Lâm. Tương quan lực lượng giữa ta và địch chênh lệch khoảng 90 lần, trang bị vũ khí cũng kém hơn địch rất nhiều. Nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ huy khôn khéo, linh hoạt của Tỉnh ủy và Huyện ủy, cán bộ, chiến sĩ đã nêu cao tinh thần chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chiến đấu quả cảm, không sợ hy sinh, sẵn sàng đương đầu với kẻ thù.

Tại Tức Dụp, lực lượng cách mạng đã dựa vào địa thế hiểm trở của núi rừng, phân tán lực lượng, bám từng gốc cây, hang đá, luồn sâu trong các lò ảng tổ chức chiến đấu ngoan cường, sáng tạo ra nhiều cách đánh độc đáo, đẩy lui từng trận càn, tiêu diệt nhiều sinh lực và vũ khí của địch. Trong suốt quá trình chiến đấu liên tục, mặc dù bị bao vây nghiêm ngặt, tấn công ác liệt suốt ngày đêm, lực lượng bị tổn thất hy sinh, thiếu thốn vũ khí, lương thực, nhưng nhờ sự đùm bọc, che chở, ủng hộ của người dân, tinh thần chiến đấu của bộ đội, du kích không hề lay chuyển, đoàn kết, kiên định, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng.

Doi-Tuc-Dup.jpg

Trải qua 128 ngày đêm chiến đấu với lực lượng không tương xứng, thiếu thốn mọi bề, các chiến sĩ cách mạng đã trụ vững tại đồi Tức Dụp. Quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến 4.700 tên, bắn cháy 11 xe tăng, 2 máy bay phản lực, 4 trực thăng, 9 khẩu pháo 105 ly, 1 máy bay cần cẩu và thu nhiều chiến lợi phẩm khác. Cuộc chiến ấy, bọn giặc ngông cuồng đã phải tốn hao đến 2 triệu đô-la Mỹ. Cũng từ trận đánh 128 ngày đêm ác liệt ấy, Tức Dụp sừng sững với tên gọi "Lá chắn Anh hùng", vinh dự nhận tên mới "Đồi 2 triệu đôla". Nơi đây, biết bao chiến sĩ cách mạng đã ngã xuống và tinh thần bất khuất ấy đã được Bộ Tư lệnh Miền tặng 8 chữ vàng "Kiên cường giết giặc, giữ vững Núi Tô”. Chiến thắng tại đồi Tức Dụp là biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí kiên định và niềm tin vào chiến thắng cuối cùng cách mạng, tên tuổi của các đồng chí như: Trần Thanh Quế, Phan Văn Mỳ, Trần Trường Sơn, Lê Thành Cư, Nguyễn Thành Công, Hà Minh Khá, Huỳnh Văn Điều, Năm Kiếm…mãi mãi được lịch sử khắc ghi.

Chiến tranh đã lùi xa, Tức Dụp đã hồi sinh, được công nhận là Di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia theo Quyết định số 666-VH/QĐ, ngày 01/4/1985, của Bộ Văn hóa Thông tin. Tức Dụp trở thành địa chỉ đỏ, nơi giáo dục truyền thống cách mạng, truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ nói riêng và người dân nói chung.

Với những chiến công đã đi vào huyền thoại, với nhiều di tích để lại như: Hang Hội Trường C6, hang Quân Y, vồ Năm Kiếm, điện Mười Xem… cùng với những tiềm năng to lớn về cảnh quan của núi rừng, không gian văn hóa đặc sắc của dân tộc Khmer. Tức Dụp ngày nay đang được quy hoạch tổng thể, khoa học; trong đó đã và đang tiến hành tu bổ, trùng tu tôn tạo các hạng mục, xây dựng mới nhiều công trình, hướng đến trở thành một điểm du lịch hấp dẫn của huyện, cũng như của tỉnh An Giang.

Yêu cầu đặt ra đối với các nhà quản lý là vừa phải khai thác tốt các tiềm năng, đem lại hiệu quả kinh tế nhưng cũng đồng thời phải gìn giữ tốt các di tích lịch sử, không phá vỡ cảnh quan, cấu trúc tự nhiên của núi đồi, phát huy những giá trị này phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, để Tức Dụp mãi là một địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng cho thế hệ hôm nay và mai sau, góp phần xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp hơn - đây cũng chính là mục đích, là lời tri ân đến công ơn của các anh hùng, liệt sĩ đã cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

PHAN VĂN SƯƠNG

Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Tri Tôn

Triển lãm ảnh chuyên đề “Bác Tôn với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” TinMinh AnhTriển lãm ảnh chuyên đề “Bác Tôn với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” /SiteAssets/Trienlam-anh-BT-voi-MTTQ-1.jpg
21/03/2024 2:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Nhân tưởng niệm 44 năm Ngày mất Chủ tịch Tôn Đức Thắng (30/3/1980 - 30/3/2024), sáng 21/3, tại Di tích Quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng (xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang), Bảo tàng Tôn Đức Thắng phối hợp với Ban quản lý Di tích Quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng (An Giang) tổ chức khai mạc triển lãm ảnh chuyên đề “Bác Tôn với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”.

Triển lãm ảnh chuyên đề “Bác Tôn với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” giới thiệu 105 hình ảnh về Bác Tôn - Người con ưu tú của quê hương An Giang, tấm gương tận tụy xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Triển lãm giới thiệu nhiều hình ảnh Bác Tôn với công tác Mặt trận, Bác Tôn với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh An Giang tiếp bước Chủ tịch Tôn Đức Thắng

Khách tham quan triển lãm sẽ được tìm hiểu thêm về quá trình hình thành tên gọi Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và những đóng góp của Bác Tôn đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, vai trò của Người trong việc kết nối cộng đồng dân tộc, những phẩm chất để giúp Bác Tôn trở thành biểu tượng của tinh thần đoàn kết Bắc - Nam. Qua đó, góp phần tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết thống nhất dân tộc chung một mục đích xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Đồng thời, nâng cao tinh thần rèn luyện, học tập đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” đến mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên và các tầng lớp nhân dân.

Phát biểu khai mạc triển lãm, bà Nguyễn Thị Mỹ Diệu, Giám đốc Ban Quản lý Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã ôn lại cuộc đời, sự nghiệp Bác Tôn, từ người thanh niên yêu nước đã hòa mình vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân. Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, dù ở cương vị nào, Bác Tôn cũng luôn nêu cao phẩm chất trung thành với Tổ quốc, với dân tộc, với Đảng, hết lòng, hết sức phụng sự cách mạng, phục vụ nhân dân, trở thành “biểu tượng” của đại đoàn kết toàn dân tộc.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình thức tổ chức của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam với mục tiêu tập hợp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm có ý thức sâu sắc về sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của tinh thần yêu nước trong mỗi con người Việt Nam và Mặt trận là nơi tập hợp và nhân lên gấp bội tinh thần yêu nước đó.

Từ tên gọi ban đầu là Hội phản đế Đồng minh (1930) và trải qua các thời kỳ với tên gọi như Hội Phản đế Liên minh (1935), Mặt trận Nhân dân Phản đế Đông Dương (1936), Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1938), Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương (1939), Việt Nam Độc lập Đồng minh gọi tắt là Việt Minh (1941), Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam gọi tắt là Hội Liên Việt (1951). Đến tháng 2/1977, Đại hội Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam được tiến hành đã thống nhất các tổ chức Mặt trận ở nước ta thành một tổ chức Mặt trận chung là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.


Với vai trò Hội trưởng Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt) 1947, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt (1951), Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955) và đến tháng 12/1977 là Chủ tịch danh dự của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cho tới khi qua đời (1980), qua hơn 30 năm liên tục được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng, giao nhiệm vụ, Bác Tôn đã tận tâm, tận lực giương cao ngọn cờ đại đoàn kết để lãnh đạo, tổ chức xây dựng và phát triển Mặt trận đoàn kết toàn dân, tập hợp các lực lượng yêu nước, phát huy cao nhất nội lực của dân tộc và đã góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người, xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Những hình ảnh phản ánh tấm gương Chủ tịch Tôn Đức Thắng suốt cả cuộc đời quan tâm chăm lo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, vì mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và chủ nghĩa xã hội, vì hòa bình thế giới, được đồng bào cả nước và bè bạn năm châu tin yêu, mến phục.

Triển lãm mở cửa phục vụ du khách và nhân dân tham quan tìm hiểu đến cuối tháng 7/2024./.

MINH ANH

An Giang chuẩn bị chu đáo  cho ngày Hội tòng quân năm 2024An Giang 190 nămBài viếtTTCTTTAn Giang chuẩn bị chu đáo  cho ngày Hội tòng quân năm 2024https://www.angiang.dcs.vn/SiteAssets/Bithu-tuyenquan-o-Tri-Ton.jpg
25/02/2024 11:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Ngày 27/2, các địa phương trong tỉnh An Giang sẽ tổ chức Hội trại tòng quân và lễ giao nhận quân năm 2024. Với quyết tâm đạt chỉ tiêu và nâng cao chất lượng, cấp ủy, chính quyền các cấp đã tiến hành các bước tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ đúng theo quy trình, quy định của pháp luật. Đến thời điểm này, công tác chuẩn bị về mọi mặt cho ngày Hội tòng quân của các địa phương đã hoàn tất, 100% thanh niên đủ điều kiện sức khỏe đã sẵn sàng nhận lệnh lên đường nhập ngũ, thể hiện rõ quyết tâm tuổi trẻ sẵn sàng khi Tổ quốc cần.

Xác định công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác quân sự, quốc phòng, những năm qua, đặc biệt là năm 2024, Ðảng ủy, Bộ Chỉ huy quân sự (CHQS) tỉnh đã chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trong lực lượng vũ trang (LLVT) tỉnh phối hợp tham mưu chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương làm tốt các khâu, các bước trong quy trình tuyển quân, thực hiện hoàn thành chỉ tiêu giao quân ở cả ba cấp, với chất lượng cao hơn năm 2023.

Sau khi hoàn thành chỉ tiêu công tác tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ năm 2023, Hội đồng nghĩa vụ quân sự các địa phương trong tỉnh đã bắt tay vào việc chuẩn bị và thực hiện quy trình tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ năm 2024 chặt chẽ từng bước, từng khâu, đảm bảo dân chủ, công khai, đúng theo quy định của pháp luật. Hội đồng nghĩa vụ quân sự cấp huyện và Hội đồng nghĩa vụ quân sự các xã, phường, thị trấn nắm chắc nguồn và thực lực, không để sót, lọt thanh niên trong độ tuổi đăng ký, quản lý. Cấp ủy, người đứng đầu chính quyền địa phương các cấp trong tỉnh đã phát huy tốt vai trò trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, phân công trách nhiệm cụ thể cho từng cơ quan, ban, ngành, đoàn thể và thành viên Hội đồng nghĩa vụ quân sự, đã tạo động lực tích cực để hoàn thành tốt chỉ tiêu tuyển quân năm 2024.


Cơ quan quân sự từ tỉnh đến xã, phường, thị trấn đã tham mưu chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền cùng cấp triển khai nhiều giải pháp, phối hợp chặt chẽ với các ngành, gặp gỡ, vận động thanh niên nhận lệnh và khám tuyển đúng quy định; tăng cường tuyên truyền cho Nhân dân, nhất là thanh niên trong độ tuổi nhập ngũ nhận thức đúng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự. Đồng thời đảm bảo đầy đủ chế độ, tiêu chuẩn của thanh niên tham gia khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự; chế độ chính sách cho thanh niên nhập ngũ và gia đình theo luật định, ngoài ra mỗi thanh niên nhập ngũ còn được Ủy ban nhân dân tỉnh tặng 01 sổ tiết kiệm, các địa phương tặng một phần quà và tiền mặt trị giá bình quân từ 1,5 triệu đến 02 triệu đồng.

Điểm nổi bật trong công tác tuyển quân năm nay của tỉnh An Giang là các địa phương trong tỉnh đã có nhiều cách làm sáng tạo, đổi mới trong tuyên truyền, vận động thanh niên tình nguyện đăng ký thi hành nghĩa vụ quân sự, như: Thành lập các tổ tuyên truyền vận động thanh niên trong đăng ký nghĩa vụ quân sự tuổi 17, trong khám sức khỏe sơ tuyển, trong Lễ đón quân nhân hoàn thành nghĩa vụ tại ngũ trở về địa phương…Đặc biệt, một số địa phương mời quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự tại ngũ tham gia Hội trại tòng quân để trực tiếp tuyên truyền, chia sẻ kinh nghiệm học tập, rèn luyện trong môi trường quân đội. Từ đó, hiệu quả tuyên truyền được nâng lên rõ rệt, thanh niên và thân nhân của thanh niên nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng khi tham gia thi hành nghĩa vụ quân sự, làm tròn bổn phận của thanh niên đối với đất nước.


Đối với công tác tiếp nhận và chuẩn bị huấn luyện chiến sĩ mới, Bộ CHQS tỉnh đã chỉ đạo Trung đoàn bộ binh 892 chuẩn bị đầy đủ, chu đáo, chặt chẽ như: Biên chế khung huấn luyện, tập huấn, bồi dưỡng cán bộ huấn luyện, đảm bảo cơ sở vật chất học tập, huấn luyện, mô hình, học cụ, thao trường, bãi tập, quân trang theo tiêu chuẩn, chuẩn bị bảo đảm các mặt phục vụ tốt đời sống vật chất và tinh thần cho chiến sĩ mới ngay từ những ngày đầu đến đơn vị.

Trong không khí vui tươi, rộn ràng của mùa Xuân mới, các thanh niên của tỉnh An Giang trúng tuyển nghĩa vụ quân sự năm 2024 đang náo nức đón chờ ngày Hội tòng quân - ngày Hội của tuổi trẻ lên đường bảo vệ Tổ quốc. Với kinh nghiệm nhiều năm qua và sự chuẩn bị chu đáo, tỉnh An Giang đã sẵn sàng cho ngày Hội tòng quân năm 2024 lành mạnh, an toàn, đạt 100% chỉ tiêu, góp phần xây dựng quân đội, xây dựng LLVT và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Đại tá THẠCH THANH TÚ

Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh

An Giang phát huy truyền thống đoàn kết,  quyết tâm đưa tỉnh nhà phát triểnAn Giang 190 nămBài viếtTTCTTTAn Giang phát huy truyền thống đoàn kết,  quyết tâm đưa tỉnh nhà phát triểnhttps://www.angiang.dcs.vn/SiteAssets/Le-congbo-quyhoach-ag-8.jpg
02/02/2024 9:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Năm 2023 - năm thứ ba thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI (nhiệm kỳ 2020 - 2025), trong điều kiện cả nước phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức; Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh An Giang đã phát huy tinh thần đoàn kết, tích cực đổi mới sáng tạo; triển khai nhiều giải pháp quyết liệt, đồng bộ, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.

Hinh 6.jpg

Những thành tựu nổi bật

Trong bối cảnh thuận lợi, khó khăn thách thức đan xen; tình hình thế giới diễn biến phức tạp; dịch bệnh COVID-19 tuy được kiểm soát nhưng để lại nhiều hậu quả, ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất - kinh doanh và đời sống nhân dân. Song, được sự quan tâm lãnh, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ và ủng hộ của các ban, bộ, ngành Trung ương; cùng sự lãnh, chỉ đạo, điều hành quyết liệt của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp; phối hợp của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), các tổ chức chính trị - xã hội; nỗ lực không ngừng của cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân chung sức, đồng lòng, An Giang đã vượt qua khó khăn, thực hiện đạt và vượt 14/15 chỉ tiêu kinh tế - xã hội Nghị quyết Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh đề ra (riêng bảo hiểm y tế toàn dân gần đạt 91,88/92,75%). Đặc biệt, trong điều kiện vô cùng khó khăn, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) năm 2023 của tỉnh đạt 7,34%, kế hoạch đề ra (7 - 7,5%), cao hơn mức bình quân chung cả nước; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,43%; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 11,03%; dịch vụ tăng 8,54%; thuế trừ trợ cấp tăng 5,53%. GRDP bình quân đầu người đạt 60,55 triệu đồng/năm (tương đương 2.496 USD).

Lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ. Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, kết quả tốt nghiệp THPT đạt 99,15%, thứ 9 cả nước và đứng đầu khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) về điểm trung bình các môn thi. Thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác an sinh xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Tiếp tục khơi dậy, phát huy các giá trị về lịch sử, văn hóa, con người An Giang, đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội.

Chao-nam-moi-24-1.jpg

Nhiều công trình trọng điểm được tích cực chuẩn bị triển khai thi công, như: Dự án đường bộ cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng đoạn qua An Giang, cầu Châu Đốc, nâng cấp, mở rộng các tuyến tỉnh lộ và các công trình trọng điểm khác về y tế, văn hóa, giáo dục… Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 sau thời gian chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; an ninh biên giới được tăng cường; công tác dân tộc, tôn giáo tiếp tục được chú trọng; mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; đẩy mạnh ngoại giao kinh tế, ngoại giao quốc phòng; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển.

Bên cạnh đó, tỉnh đã tổ chức các hoạt động kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng; Lễ công bố thành lập thị xã Tịnh Biên; Hội thảo quốc tế Văn hóa Óc Eo - Ba Thê và nhiều sự kiện quan trọng khác của Trung ương, địa phương tổ chức tại An Giang thành công tốt đẹp. Từ đó, góp phần nâng cao nhận thức chính trị, khẳng định chủ quyền quốc gia, quảng bá hình ảnh tốt đẹp về vùng đất, con người An Giang.

Công tác xây dựng Đảng và công tác dân vận đạt nhiều kết quả tích cực, chất lượng hoạt động của cấp ủy cơ sở đảng ngày càng nâng cao; các cấp ủy chủ động nắm việc, sát việc trong lãnh đạo nhiệm vụ của địa phương, đơn vị. Chất lượng hoạt động của HĐND, UBND được nâng lên. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền tiến bộ. Hoạt động của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội có nhiều đổi mới; khối đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được tăng cường.

Ngoài những vi phạm, khuyết điểm của cá nhân cán bộ, đảng viên được phát hiện, xử lý theo quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước, những kết quả đạt được trong năm 2023 là đáng trân trọng, là động lực để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân An Giang vững tin bước vào năm mới 2024 với quyết tâm chính trị cao nhất.

Kết quả nổi bật năm 2023:
• Tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt 7,34% (kế hoạch 7 – 7,5%).
• GRDP bình quân đầu người đạt 60,55 triệu đồng (kế hoạch 60,52 – 62,03 triệu đồng).
• Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 41.320 tỷ đồng (kế hoạch 33.951 – 37.783 tỷ đồng).
• Kim ngạch xuất khẩu 1.172 triệu USD (vượt kế hoạch).
• Tổng thu ngân sách từ kinh tế địa bàn ước đạt 7.045 tỷ đồng (vượt kế hoạch).
• Tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia đạt 51,7% (đạt kế hoạch).
• Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm bình quân %/năm đạt 1 - 1,2% (đạt kế hoạch).
• Có thêm 8 xã đạt chuẩn nông thôn mới và 5 xã đạt nông thôn mới nâng cao (đạt kế hoạch)…

Niềm tin, khát vọng trong năm mới

Bước sang năm 2024 - năm thứ tư của nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, Đảng bộ tỉnh An Giang nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về tình hình, bối cảnh chung; những thuận lợi và khó khăn riêng của một tỉnh đi lên từ nông nghiệp, nhưng có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế, nhất là du lịch, dịch vụ và công nghiệp, nông nghiệp theo hướng chất lượng, hiện đại; đặc biệt kinh tế biên mậu, nơi có nhiều cửa khẩu quan trọng của quốc gia; xác định nhiệm vụ trọng tâm và khâu đột phá cần tập trung lãnh, chỉ đạo, tạo bước chuyển biến mới, mạnh mẽ hơn nữa trong phát triển kinh tế - xã hội năm 2024.

Chao-nam-moi-24-3.jpg

Theo đó, tỉnh tiếp tục tập trung ưu tiên nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo định hướng của Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI đề ra; phấn đấu đến năm 2030, đưa An Giang trở thành tỉnh khá trong vùng ĐBSCL; kinh tế năng động, hài hòa, bền vững trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh... Tầm nhìn đến năm 2050, phấn đấu trở thành tỉnh phát triển toàn diện, văn minh, sinh thái, bền vững và mang bản sắc văn hóa sông nước của vùng đất đầu nguồn sông Cửu Long; có trình độ khá so với cả nước; chất lượng cuộc sống của người dân ở mức cao… Xác định rõ vai trò, vị trí, tiềm năng, thế mạnh của An Giang trong vùng ĐBSCL; coi trọng liên kết vùng, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, sớm trở thành tỉnh có du lịch, nông nghiệp, công nghiệp theo hướng hiện đại.

Tỉnh tiếp tục tập trung mọi nguồn lực, biện pháp, quyết tâm thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu đề ra; nhất là các chỉ tiêu đạt thấp và dự báo khó đạt. Đẩy mạnh thực hiện các nghị quyết, đề án trọng tâm, mũi nhọn. Triển khai nhanh Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, làm cơ sở xây dựng, thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới. Đẩy nhanh tiến độ thi công tuyến đường bộ cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng đoạn qua địa phận An Giang, tuyến tránh Long Xuyên; các dự án giao thông liên vùng, nội tỉnh và các công trình trọng điểm về y tế, giáo dục, văn hóa, quốc phòng - an ninh…

Thường xuyên quan tâm, chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để huy động, khơi thông mọi nguồn lực, khai thác tối đa các tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu. Tiếp tục xây dựng, bảo tồn và phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa, con người An Giang. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả lĩnh vực văn hóa - xã hội, nhất là giảm nghèo bền vững, các chương trình mục tiêu quốc gia để cải thiện đời sống người dân.

Với trọng trách là “phên giậu” phía Tây Nam Tổ quốc về quốc phòng - an ninh, đồng thời là “phên giậu về kinh tế”, bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh kinh tế của đất nước. An Giang đặc biệt coi trọng xây dựng, củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc. Đồng thời, thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, giữ vững chủ quyền quốc gia, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động thực hiện hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, tạo môi trường ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của vùng ĐBSCL và cả nước.

Đặc biệt, chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết khắc phục những hạn chế, khuyết điểm của các cấp ủy, lãnh đạo quản lý các cấp. Tiếp tục đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm; phát huy dân chủ và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân. Không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) và Kết luận số 21-KL/TW Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII). Kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực; xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đồng thời bảo vệ những cán bộ, đảng viên dám nghĩ đúng, dám nói đúng, dám làm đúng, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Thực hiện nghiêm Quy định số 37-QĐ/TW về “Những điều đảng viên không được làm”, gắn với việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” nhằm lan tỏa, nhân rộng ra các tầng lớp nhân dân, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, đảm bảo kỷ luật, kỷ cương trong Đảng.

Các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2024:
• Tăng trưởng GRDP tăng 7,5 - 8,5%.
• GRDP bình quân đầu người từ 70,27 – 70,88 triệu đồng/người/năm.
• Tổng vốn đầu tư xã hội từ 47.867 tỷ đồng.
• Kim ngạch xuất khẩu 1.185 triệu USD.
• Thu ngân sách đạt 7.197 tỷ đồng.
• Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm bình quân 0,5 - 1 %/năm.
• Có thêm 5 xã đạt chuẩn nông thôn mới và 5 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.
• 75% cơ quan nhà nước các cấp hoàn thiện chính quyền điện tử…

Với niềm tin, khát vọng về quê hương giàu mạnh, Nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, Ban Thường vụ Tỉnh ủy mong muốn và tin tưởng các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể và Nhân dân các dân tộc tỉnh nhà phát huy những kết quả, kinh nghiệm đạt được năm qua; tăng cường đoàn kết; nêu cao ý chí tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên; chung sức, đồng lòng; nỗ lực, phấn đấu hoàn thành vượt mức các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2024. Xây dựng An Giang - quê hương Chủ tịch Tôn Đức Thắng kính yêu ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Trong không khí phấn khởi chào mừng Xuân mới Giáp Thìn 2024, kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh. Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2024, thay mặt Tỉnh ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, tôi kêu gọi các cấp, các ngành, tầng lớp nhân dân, cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, doanh nhân và người lao động trong tỉnh, kế thừa những thành tựu đạt được, phát huy truyền thống cách mạng quê hương An Giang anh hùng, tiếp tục đoàn kết, kỷ cương, bản lĩnh, đổi mới, sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả; chung sức, đồng lòng vượt qua khó khăn, thử thách, đóng góp tài năng, công sức, trí tuệ, phấn đấu hoàn thành vượt mức các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ năm 2024; xây dựng tỉnh An Giang phát triển nhanh và bền vững.

TS. LÊ HỒNG QUANG

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang.

Công bố quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050An Giang 190 nămTinNgọc HânCông bố quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050/SiteAssets/Le-congbo-quyhoach-ag-5.jpg
19/01/2024 10:40 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Sáng ngày 19/01, tại Hội trường tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang tổ chức Lễ Công bố Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí Thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang chủ trì buổi lễ. Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đỗ Thành Trung; Thiếu tướng Huỳnh Văn Ngon, Phó Chính ủy Quân khu 9; Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang Lê Văn Nưng; các đồng chí nguyên lãnh đạo Trung ương, nguyên lãnh đạo tỉnh An Giang; lãnh đạo các tỉnh, thành bạn; các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh;… cùng tham dự lễ.

Le-congbo-quyhoach-ag-1.jpg

Quang cảnh buổi lễ

Le-congbo-quyhoach-ag-2.jpg

Le-congbo-quyhoach-ag-3.jpg

Đại biểu dự lễ

Le-congbo-quyhoach-ag-4.jpg

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lê Văn Phước Công bố tóm tắt Quyết định số 1369/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050

Le-congbo-quyhoach-ag-5.jpg

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đỗ Thành Trung trao Quyết định Quy hoạch tỉnh An Giang

Quy hoạch tỉnh An Giang được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1369/QĐ-TTg, ngày 15/11/2023. Phạm vi, ranh giới quy hoạch gồm toàn bộ địa giới hành chính tỉnh An Giang có diện tích tự nhiên là 3.536,7 km2, thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Phía Tây Bắc tiếp giáp với Vương quốc Campuchia, phía Đông và Đông Bắc tiếp giáp với tỉnh Đồng Tháp, phía Đông Nam tiếp giáp với thành phố Cần Thơ, phía Nam và Tây Nam tiếp giáp với tỉnh Kiên Giang.

Mục tiêu tổng quát của Quy hoạch đến năm 2030, An Giang là tỉnh phát triển khá trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long; có kinh tế phát triển năng động, hài hòa và bền vững; là trung tâm nghiên cứu phát triển giống và sản xuất nông nghiệp, thủy sản, dược liệu ứng dụng công nghệ cao; trung tâm du lịch sinh thái của vùng; đầu mối giao thương, hợp tác với Vương quốc Campuchia; có hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, thích ứng với biến đổi khí hậu; các giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy; quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự an toàn xã hội ổn định; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống của người dân được ấm no, hạnh phúc.

Le-congbo-quyhoach-ag-6.jpg
Đại biểu phát biểu tham luận

Le-congbo-quyhoach-ag-7.jpg

Trao Bản thỏa thuận hợp tác đầu tư cho 9 doanh nghiệp

Để thực hiện mục tiêu tổng quát này, có 03 nhóm mục tiêu về: Kinh tế; Xã hội và Môi trường được đề ra với 13 mục tiêu cụ thể, trong đó có mục tiêu về kinh tế với Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân 7%/năm; GRDP bình quân đầu người (giá hiện hành) đạt trên 157 triệu đồng/năm; kinh tế số đạt trên 20% GRDP.

Tầm nhìn đến năm 2050, An Giang là tỉnh phát triển toàn diện, hiện đại, văn minh, sinh thái, bền vững; là đầu mối giao thương hàng hóa, dịch vụ của vùng với thị trường Campuchia và các nước khu vực ASEAN; bản sắc văn hóa thống nhất trong đa dạng của các dân tộc trên địa bàn tỉnh và mang đậm văn hóa sông nước của vùng đất đầu nguồn sông Cửu Long. Quốc phòng, an ninh vững mạnh, trật tự, an toàn xã hội ổn định, người dân có cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc. 

Các đột phá phát triển gồm: (1) Xây dựng và ban hành các cơ chế chính sách nhằm thu hút các nguồn lực, nhà đầu tư trong và ngoài nước vào các lĩnh vực đột phá phát triển như nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, dịch vụ, du lịch, logistics và chuyển đổi số; (2) Tập trung huy động tối đa các nguồn lực để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông và đẩy mạnh đầu tư phát triển các hành lang kinh tế, trọng tâm là hành lang kinh tế Châu Đốc - Long Xuyên; hành lang kinh tế biên giới Tịnh Biên - Châu Đốc - An Phú - Tân Châu (Khu Kinh tế cửa khẩu tỉnh An Giang), các khu, cụm công nghiệp, đô thị động lực; mạng lưới hạ tầng thương mại và dịch vụ chất lượng cao; (3) Đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số (trên 03 trụ cột chính: chính quyền số, kinh tế số và xã hội số), đồng thời, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của tỉnh.

Le-congbo-quyhoach-ag-8.jpg

Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang phát biểu

Phát biểu tại buổi lễ, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang thông tin: Tỉnh An Giang xác định công tác lập quy hoạch là nhiệm vụ hàng đầu; nhằm tạo khung pháp lý cao nhất, là công cụ quan trọng để định hướng phát triển không gian kinh tế - xã hội; phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Ngay sau khi Luật Quy hoạch ra đời, An Giang đã triển khai công tác lập quy hoạch, với sự tham gia của cả hệ thống chính trị. Tỉnh ủy đã chỉ đạo Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh phối hợp chặt chẽ các bộ, ngành Trung ương; các tỉnh, thành phố thuộc Đồng bằng sông Cửu Long và tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, tham vấn ý kiến của nhiều cấp, nhiều ngành, của các chuyên gia, nhà khoa học để hoàn thiện Quy hoạch, thông qua Hội đồng thẩm định Trung ương, bảo đảm chất lượng, tiến độ theo quy định. An Giang rất phấn khởi khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.  

Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang khẳng định: "Đây là dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển tỉnh nhà; là cơ sở pháp lý để sắp xếp không gian, thu hút đầu tư, phân bổ nguồn lực; khai thác, phát huy tối đa các tiềm năng, thế mạnh nhằm hiện thực hóa mục tiêu đưa An Giang phát triển nhanh, toàn diện, bền vững trong 30 năm tới.

Để thực hiện tốt nội dung Quy hoạch, biến khát vọng và tầm nhìn thành hiện thực,  Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang đề nghị các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm: Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các nội dung cốt lõi của quy hoạch đến cộng đồng doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân; nhằm tạo thống nhất về nhận thức; hành động và hiệu quả trong thực hiện Quy hoạch.

Trên cơ sở nội dung Quy hoạch; các cấp, các ngành và địa phương phối hợp triển khai kế hoạch thực hiện; đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, nhịp nhàng. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của địa phương, đơn vị mình để tập trung chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện. Tăng cường tính chủ động, trách nhiệm; nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý Quy hoạch; vừa bảo đảm Quy hoạch được triển khai trong thực tế, vừa phát huy tối đa nguồn lực thực hiện.

Tổ chức lập, điều chỉnh quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn, quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với Quy hoạch tỉnh. Chủ động nghiên cứu, sửa đổi; đề nghị sửa đổi các chủ trương, chính sách, quy định đã ban hành; đề xuất ban hành mới các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ, tạo động lực mới cho sự phát triển.

Nghiên cứu, đánh giá mức độ thiết yếu, xác định thứ tự ưu tiên đầu tư các công trình, dự án quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội theo đúng định hướng Quy hoạch tỉnh. Khẩn trương chuẩn bị Chương trình xúc tiến đầu tư năm 2024. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn vốn ngân sách nhà nước; đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào các ngành, lĩnh vực then chốt; các công trình hạ tầng trọng điểm, có tính đột phá, sức lan tỏa, nhằm huy động, sử dụng hiệu quả nguồn vốn của các thành phần kinh tế.

Chú trọng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, phục vụ các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Tăng cường bảo vệ môi trường, ứng dụng khoa học - công nghệ. Khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, hợp tác xã và nhà đầu tư đến với tỉnh An Giang. Tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, lợi ích nhóm. Tất cả mọi suy nghĩ, hành động đều vì lợi ích chung, vì sự phát triển tỉnh nhà.

Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang nhấn mạnh: Quy hoạch tỉnh An Giang được công bố hôm nay mới là bước khởi đầu. Song, chặng đường thực hiện là rất dài, với mục tiêu rất lớn. Bên cạnh những yếu tố thuận lợi, sẽ gặp không ít khó khăn, thách thức. Đồng chí kêu gọi các cấp, các ngành, toàn hệ thống chính trị, doanh nghiệp và Nhân dân các dân tộc An Giang đoàn kết, nỗ lực, quyết tâm; chung tay thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển tỉnh An Giang theo Quy hoạch tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; xây dựng An Giang - quê hương Chủ tịch Tôn Đức Thắng ngày càng giàu đẹp - văn minh!

NGỌC HÂN

Thông cáo báo chí Lễ công bố Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050An Giang 190 nămTinAdminThông cáo báo chí Lễ công bố Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050/SiteAssets/BANNER177-BAO-CAO-TOM-TAT.jpg
18/01/2024 2:00 CHNoĐã ban hành

​(TUAG)- Thực hiện Kế hoạch số 23/KH-UBND ngày 10/01/2024 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang về tổ chức Lễ Công bố Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Ban Tổ chức Lễ công bố Quy hoạch tỉnh An Giang thông tin cho các cơ quan báo chí:

BANNER177-BAO-CAO-TOM-TAT.jpg


Chi tiết vui lòng xem tại file đính kèm:

TCBC Le cong bo_P THQH cap nhat hoàn chỉnh phát hành.docx

THONG CAO BAO CHI.pdf

Quyết định số 1369/QĐ-TTg ngày 15/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2050An Giang 190 nămTinAdminQuyết định số 1369/QĐ-TTg ngày 15/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2050https://www.angiang.dcs.vn/SiteAssets/Vannghe-190namag.jpg
14/12/2023 9:10 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Ngày 15/11/2023, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định số 1369/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Cổng TTĐT Đảng bộ tỉnh đăng toàn văn quyết định.

1369-ttg.signed.pdf

Quyetdinh-1369-TTg.jpg

Chung kết xếp hạng Hội thi Giọng hát hay tỉnh An Giang năm 2023 An Giang 190 nămTinLê Quang TrạngChung kết xếp hạng Hội thi Giọng hát hay tỉnh An Giang năm 2023 /SiteAssets/Hoi-thi-gionghat-23-1.jpg
24/11/2023 7:00 SANoĐã ban hành
(TUAG)- Tối ngày 22/11, tại Công trường Trưng Nữ Vương - TP. Long Xuyên đã diễn ra đêm thi diễn và trao giải vòng Chung kết xếp hạng của Hội thi Giọng hát hay tỉnh An Giang năm 2023. Đến dự buổi thi diễn và trao giải có ông Nguyễn Khánh Hiệp - Tỉnh uỷ viên, Giám đốc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Trưởng Ban Tổ chức Hội thi; lãnh đạo các sở, ban, ngành của tỉnh; trưởng, phó phòng, đơn vị trực thuộc Sở và đông đảo khán giả.

Các thí sinh chụp ảnh lưu niệm cùng Ban Giám khảo

Hội thi Giọng hát hay tỉnh An Giang năm 2023 được tổ chức phát động từ tháng 9/2023 với 3 vòng thi. Vòng 1 (sơ khảo) được tổ chức tại Trung tâm Văn hoá, Thể thao các huyện/thị xã/thành phố trong tỉnh và tại Trung tâm Văn hoá Nghệ thuật tỉnh với sự tham dự của hơn 300 thí sinh. Vòng 2 (chung kết) diễn ra từ ngày 11 đến ngày 13/11/2023 tại Công trường Trưng Nữ Vương với sự tham dự của 86 thí sinh (30 thí sinh tự do và 56 thí sinh của các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh) được tuyển chọn từ vòng sơ khảo. Vòng 3 (chung kết xếp hạng) diễn ra tối ngày 22/11/2023 tại Công trường Trưng Nữ Vương với sự tham dự của 21 thí sinh được tuyển chọn từ vòng chung kết.


Phần thi của thí sinh Quán quân Hội thi (giải Nhất) Trần Tố Uyên

Kết thúc phần thi chung kết xếp hạng, Quán quân Hội thi (giải Nhất) thuộc về thí sinh Trần Tố Uyên (TP. Châu Đốc), 2 Á quân (giải Nhì) thuộc về thí sinh Lê Hữu Tuấn (thí sinh tự do) và thí sinh Võ Hữu Chí (TX. Tịnh Biên), 3 giải Ba thuộc về các thí sinh: Lê Thị Kim Ngân (Châu Phú), Lê Thùy Linh (Châu Đốc) và Trần Tấn Tài (An Phú). Bên cạnh đó, Ban Tổ chức còn trao 15 giải Khuyến khích cho các thí sinh tại vòng Chung kết xếp hạng.


Ban Tổ chức trao giải Quán quân (giải Nhất), Á quân (giải Nhì) và Ba cho các thí sinh

Với truyền thống nhiều năm liền phát hiện ra những gương mặt mới, những giọng ca chất lượng đóng góp cho nền văn hoá nghệ thuật tỉnh nhà, Hội thi Giọng hát hay tỉnh An Giang năm 2023 lần này không chỉ tạo được sự hân hoan phấn khởi cho Nhân dân trong tỉnh, mà còn là sự kiện văn hoá nghệ thuật thiết thực chào mừng kỷ niệm 191 ngày truyền thống thảnh lập tỉnh An Giang (22/11/1832 - 22/11/2023).
Lê Quang Trạng
An Giang 191 năm - từ độ mang gươm đi mở cõiAn Giang 190 nămBài viếtAn BìnhAn Giang 191 năm - từ độ mang gươm đi mở cõi/SiteAssets/Ngay-truyenthong-ag.jpg
22/11/2023 10:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Trong thế kỷ XVIII, XIX, việc khai khẩn đất đai ở An Giang nói riêng cũng như vùng đất phía Tây Nam Bộ ngày nay nói chung chủ yếu dưới hình thức người dân lưu tán từ miền Trung vào tự khẩn hoang hoặc binh lính của Nhà Nguyễn khai phá ở những khu vực đồn trú và mộ dân khẩn hoang lập ấp, lập đồn điền. Tuy nhiên, so với các vùng đất khác ở Nam Bộ, dù Chúa Nguyễn đã xác lập chủ quyền từ năm 1757 nhưng công cuộc khai phá trên địa bàn An Giang thật sự được ghi nhận sau khi Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định từ nhà Tây Sơn cuối năm 1788.


Lịch sử hình thành vùng đất An Giang ghi nhận một sự kiện quan trọng là năm Đinh Sửu (1757), quốc vương Chân Lạp là Nặc Tôn đã dâng đất Tầm Phong Long (vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, ngày nay có một phần thuộc An Giang) cho chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát để đền ơn giúp giành lại vương triều. Chúa Nguyễn cử Nguyễn Cư Trinh tiếp nhận đất Tầm Phong Long, cho lệ vào dinh Long Hồ và đặt thành 3 đạo gồm: Xứ Sa Đéc đặt thành đạo Đông Khẩu, xứ Cù Lao Giêng đặt làm đạo Tân Châu, xứ Châu Đốc làm đạo Châu Đốc, rồi lấy binh dinh Long Hồ đến gìn giữ nơi địa đầu trọng yếu ấy. Đạo Châu Đốc khi ấy chỉ là một cứ điểm phòng thủ nơi biên thùy, còn nhiều đất bỏ hoang. Cư dân sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng, đánh bắt cá, tôm và một số nghề thủ công truyền thống. Đầu đời Gia Long mộ dân đến ở gọi là Châu Đốc tân cương. Các Chúa Nguyễn về sau cũng tiếp tục khuyến khích việc khẩn hoang ở vùng đất xa xôi này nhằm bảo vệ biên cương bờ cõi. Và cũng chính từ thời điểm 1757, vùng đất sau cùng của Nam Bộ (một phần là An Giang ngày nay) đã trở thành một bộ phận không thể chia cắt được của nước Việt Nam về mặt pháp lý.

Từ thời thuộc Chân Lạp cho đến tận đầu nhà Nguyễn, đất An Giang còn hoang hóa, rất ít dân cư. Những người Việt đầu tiên đến đất An Giang có nhiều thành phần khác nhau: họ là những người nghèo khổ từ miền Trung vào Nam kiếm sống; những người có nhiều tiền, của ở đất Thuận Hóa (Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi...) được Chúa Nguyễn chiêu mộ vào khẩn hoang lập ấp, thuê mướn tá điền... hình thành tầng lớp quan lại, địa chủ đặc quyền, đặc lợi; những người mắc tội lưu đày, khi mãn hạn ở lại làm ăn, lập gia đình; binh lính đồn trú; các nhóm tín đồ đạo Thiên Chúa; sự pha trộn giữa người Việt với các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa.

Năm Mậu Thìn 1808, vua Gia Long đã đổi dinh thành trấn. Cả vùng đất Gia Định, gọi là Gia Định thành (nay là Nam Bộ) chia làm 5 trấn: Phiên An, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Tỉnh An Giang lúc bấy giờ thuộc trấn Vĩnh Thanh.

 Để thực hiện chính sách Trung ương tập quyền, xóa bỏ các quyền lực các Tổng trấn Bắc Thành và Tổng trấn Gia Định thành, từ năm 1831 vua Minh Mạng cho thành lập các tỉnh phía Bắc từ Lạng Sơn đến Quảng Trị xóa bỏ chức Tổng trấn Bắc thành. Ở Nam Bộ do Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt còn đương chức chưa thực hiện được, đến tháng 7 năm 1832, Lê Văn Duyệt qua đời. Trong buổi thiết triều, thông qua đề xuất của Bộ Lại, vua Minh Mạng quyết định xóa Gia Định thành và 5 trấn, cho chủ trương thành lập 12 tỉnh từ Quảng Nam vào Nam Bộ trong đó có tỉnh An Giang. Đây là một đợt cải cách hành chính lớn thời Minh Mạng.

Sách Đại Nam nhất thống chí viết về An Giang như sau: "Xưa là đất Tầm Phong Long, năm Đinh Sửu (1757) đời Thế Tông thứ 19, quốc vương Chân Lạp Nặc Tôn dâng đất nầy, đặt làm đạo Châu Đốc, vì đất ấy có nhiều chỗ bỏ hoang, đầu đời Gia Long mộ dân đến ở, gọi là Châu Đốc Tân Cương, đặt quảng đạo, lệ vào tỉnh Vĩnh Long. Năm Minh Mệnh thứ 13, lấy đất này cùng với huyện Vĩnh An tỉnh Vĩnh Long đặt làm hai phủ Tuy Biên và Tân Thành, đặt bốn huyện là Tây Xuyên và Phong Phú, Đông Xuyên và Vĩnh An (Tây Xuyên và Phong Phú thuộc phủ Tuy Biên; Đông Xuyên và Vĩnh An thuộc phủ Tân Thành), lập tỉnh An Giang, đặt chức An Hà tổng đốc, thống lãnh hai tỉnh An Giang và Hà Tiên". Địa bàn tỉnh An Giang thời bấy giờ rất rộng, tương ứng với An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng và một phần tỉnh Đồng Tháp ngày nay.

Sách Đại Nam Thực Lục viết: Nhâm thìn, năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), mùa đông tháng 10, ngày mồng 1: "Một hạt Gia Định gần thì liền đất với Chân Lạp là thuộc quốc, xa thì lân cận với Xiêm La là láng giềng, mà đất Châu Đốc lại là nơi rất xung yếu. Nhưng dân cư chưa được đông đúc, địa lợi chưa được mở mang, gần đấy, có Vĩnh Long, đất rộng, dân giàu, hơn cả mọi hạt. Vậy xin tách lấy 2 huyện Vĩnh An và Vĩnh Định thuộc Vĩnh Long, gộp với đất Châu Đốc, lập làm tỉnh An Giang; đặt một viên Tổng đốc đại thần kiêm lĩnh quả ấn bảo hộ nước Chân Lạp. Phàm các công việc vỗ về người xa, phòng ngừa giặc ngoài đều giao cho cả…Tỉnh An Giang: thống trị 2 phủ Tân Thành, Tuy Biên và 4 huyện Vĩnh An, Vĩnh Định, Đông Xuyên, Tây Xuyên. Nguyên đất Châu Đốc và lấy 2 huyện Vĩnh An, Vĩnh Định, ở phủ Định Viễn thuộc Vĩnh Long đổi làm tỉnh An Giang ở mé đông sông Hậu Giang đặt huyện Đông Xuyên, lấy những thôn ấp mới lập đặt làm 1 tổng, lại lấy 2  tổng thuộc huyện Vĩnh Định cho lệ thuộc vào. Ở mé tây sông Hậu Giang đặt huyện Tây Xuyên, trích lấy 4 tổng huyện Vĩnh An cho lệ thuộc vào. Lấy 2 huyện Đông Xuyên, Tây Xuyên đặt làm phủ Tuy Biên; 2 huyện Vĩnh An, Vĩnh Định đặt làm phủ Tân Thành".

Như vậy, đến tháng 10/1832 thì 5 trấn của Gia Định thành trở thành 6 tỉnh, được gọi là Nam Kỳ lục tỉnh, gồm Biên Hòa, Gia Định, Định Tường (3 tỉnh miền đông) và Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên (3 tỉnh miền tây). Tỉnh An Giang lúc bấy giờ bao gồm 2 phủ, 4 huyện. Lỵ sở của tỉnh đặt tại Châu Đốc, nơi Tổng đốc An Hà trú đóng cai quản hai tỉnh An Giang, Hà Tiên.

Năm 1835, vua Minh Mạng cho lấy đất Ba Thắc đặt thêm phủ Ba Xuyên, đặt hai huyện Phong Nhiêu, Phong Thạnh và lấy huyện Vĩnh Định tỉnh Vĩnh Long nhập vào tỉnh An Giang.

Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), vua cho đạc điền lập địa bạ cả Nam Kỳ lục tỉnh. Địa bạ An Giang lần đầu tiên được xác lập ngày mùng 3 tháng 6 năm 1836, ghi nhận lúc bấy giờ có 2 phủ, 4 huyện, 18 tổng, 167 làng. Đến thời vua Tự Đức, sau nhiều lần tách nhập, thêm phủ, huyện, An Giang có 3 phủ, 10 huyện.

Từ sau khi triều đình Huế ký Hiệp ước Giáp Tuất (1862), giao 3 tỉnh miền Đông cho Pháp, thực dân Pháp bắt đầu thiết lập bộ máy cai trị của thực dân. Sau khi chiếm trọn 6 tỉnh Nam Kỳ (tháng 6/1867), ngày 16/8/1867, Pháp chia 6 tỉnh trở thành 24 đơn vị hành chính mới gọi là hạt thanh tra, đứng đầu mỗi hạt thanh tra là viên "Thanh tra công việc nội chính bản xứ". Tỉnh An Giang (của Nam Kỳ lục tỉnh) chia thành 3 hạt thanh tra (Châu Đốc, Sa Đéc, Sóc Trăng).

Ngày 22/6/1867, thực dân Pháp chiếm thành Châu Đốc, mở đầu quá trình thống trị An Giang. Sau nhiều lần thay đổi, theo Nghị định ngày 05/01/1876, cả Nam Kỳ được chia làm 4 khu vực hành chính là Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bassac. Mỗi khu vực hành chính lại chia thành nhiều tiểu khu còn gọi là hạt tham biện. Khu vực Bassac chia thành 6 hạt tham biện là Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Trà Ôn (khi mới lập, sau đó đổi thành Cần Thơ), Sóc Trăng. Địa bàn An Giang ngày nay nằm trên 2 hạt Châu Đốc và Long Xuyên.

Ngày 20/12/1899, toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ra Nghị định đổi hạt tham biện thành tỉnh, có hiệu lực từ ngày 01/01/1900. Như vậy, tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc xuất hiện đồng thời, từ sau ngày 01/01/1900. Đứng đầu mỗi tỉnh là viên chủ tỉnh.

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp tấn công Nam Bộ, chính thức tái xâm lược Việt Nam. Để đánh lừa dư luận, che giấu bộ mặt thực dân, Pháp lập ra các chính quyền tay sai (chính phủ Nam Kỳ tự trị, chính phủ quốc gia Việt Nam). Tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc được chính quyền tay sai thực dân Pháp duy trì đến hết năm 1954.


Pháp thua trận, đế quốc Mỹ nhảy vào thay thế, lập chính phủ tay sai Việt Nam Cộng hòa, do Ngô Đình Diệm đứng đầu. Sau thời gian đánh đuổi các thế lực thân Pháp, củng cố thế lực, ngày 22/10/1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN phân chia địa phận Nam Việt Nam gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Trong đó tỉnh An Giang (tỉnh lỵ Long Xuyên) bao gồm tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc cũ. Đến ngày 8/9/1964, chính quyền Sài Gòn ra Sắc lệnh số 246/NV, tỉnh An Giang được tách làm 2 tỉnh: tỉnh Châu Đốc và tỉnh An Giang. Như vậy, tỉnh Long Xuyên trong thời thuộc Pháp được đặt lại tên tỉnh An Giang cho đến 30/4/1975.

Về phía cách mạng, trong kháng chiến chống Pháp, do yêu cầu của chiến trường, Ủy ban Kháng chiến - Hành chính Nam Bộ ra chỉ thị số 50/CT (ngày 12/9/1947) phân chia lại địa giới hai tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc thành hai tỉnh mới là Long Châu Tiền (thuộc Khu 8) và Long Châu Hậu (thuộc Khu 9). Tháng 10/1950, Thủ tướng chính phủ chấp thuận đề nghị của Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam bộ sáp nhập hai tỉnh Long Châu Hậu và Hà Tiên (gồm cả Phú Quốc) thành tỉnh Long Châu Hà.

Thời chống Mỹ, Xứ ủy Nam Bộ lập lại 2 tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên. Giữa năm 1957, Xứ ủy lại hợp nhất tỉnh Long Xuyên, tỉnh Châu Đốc thành tỉnh An Giang (thuộc Khu 8). Tháng 8/1971, thực hiện yêu cầu của Trung ương cục, An Giang chia thành 2 tỉnh: An Giang (thuộc Khu 8) và Châu Hà (thuộc Khu 9). Thị xã Long Xuyên và Châu Đốc đều thuộc về tỉnh An Giang. Tháng 5/1974, Trung ương cục phân chia lại địa bàn các tỉnh An Giang, Châu Hà và Kiến Phong chuyển thành 2 tỉnh Long Châu Tiền và Long Châu Hà. Cả thị xã Long Xuyên và Châu Đốc đều thuộc tỉnh Long Châu Hà thuộc Khu 9.

Sau khi giải phóng miền Nam, ngày 20/12/1975 Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 19/NQ-TW thành lập tỉnh An Giang bao gồm 2 tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc cũ, trừ huyện Thốt Nốt. Tỉnh An Giang lúc này có 8 quận và 84 xã. Tháng 02 năm 1976, Nghị định của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam giải thể khu hợp nhất tỉnh, bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp và lấy lại danh xưng "huyện"; "quận" và "phường" dành cho các đơn vị tương xứng với huyện và xã khi đã đô thị hóa. Miền Nam có 21 đơn vị hành chính cấp tỉnh thuộc Trung ương. Tỉnh An Giang có 10 huyện, thị là: Châu Thành, Huệ Đức, Chợ Mới, Phú Tân, Châu Phú, Phú Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên, thị xã Long Xuyên và thị xã Châu Đốc.

Suốt chiều dài lịch sử khai phá vùng đất An Giang trong buổi đầu mở mang bờ cõi đến nay là vùng đất biên thùy trọng yếu ở về phía Tây Nam của Tổ quốc. Quá trình khẩn hoang, khai phá vùng đất An Giang luôn gắn liền các cuộc chiến tranh chống các kẻ thù xâm lược. Con người An Giang có truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất chống ngoại xâm. Trong suốt chiều dài lịch sử từ khi có Đảng, Nhân dân An Giang luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin theo con đường cách mạng. An Giang tự hào là một trong số tỉnh ở Nam Bộ sớm có các tổ chức tiền thân của Đảng và các cơ sở Đảng. Cuối năm 1927, Chi bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu tiên của tỉnh Long Xuyên ra đời tại huyện Chợ Mới. Tháng 2/1928, Tỉnh bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh Long Xuyên được thành lập. Tháng 4/1930, Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở An Giang được thành lập tại xã Long Điền, Chợ Mới đã tổ chức treo lá cờ Đảng Cộng sản đầu tiên trên Cột dây thép ở ấp Long Thuận, xã Long Điền. Kể từ đó, nhiều cơ sở Đảng trong tỉnh ra đời và ngày càng lớn mạnh, đã lãnh đạo Đảng bộ, chính quyền và nhân dân An Giang viết nên những trang sử hào hùng, vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ cứu nước, bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam của Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế giúp nước bạn Campuchia.

Kế thừa, phát huy truyền thống và những thành tựu đạt được trong thời gian qua, An Giang xác định mục tiêu đến năm 2030 là tỉnh phát triển khá trong vùng đồng bằng sông Cửu Long; có kinh tế phát triển năng động, hài hòa và bền vững; là trung tâm nghiên cứu phát triển giống và sản xuất nông nghiệp, thủy sản, dược liệu ứng dụng công nghệ cao; trung tâm du lịch sinh thái của vùng; đầu mối giao thương, hợp tác với Vương quốc Campuchia; Có hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, thích ứng với biến đổi khí hậu; các giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy; quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự an toàn xã hội ổn định; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống của người dân được ấm no, hạnh phúc.

Tầm nhìn đến năm 2050, An Giang là tỉnh phát triển toàn diện, hiện đại, văn minh, sinh thái, bền vững; là đầu mối giao thương hàng hóa, dịch vụ của vùng với thị trường Campuchia và các nước khu vực ASEAN; bản sắc văn hóa thống nhất trong đa dạng của các dân tộc trên địa bàn tỉnh và mang đậm văn hóa sông nước của vùng đất đầu nguồn sông Cửu Long. Quốc phòng, an ninh vững mạnh, trật tự, an toàn xã hội ổn định, người dân có cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc.

Ngay-truyenthong-ag.jpg

Nhìn lại chặng đường lịch sử 191 năm hình thành và phát triển, trong sâu thẳm mỗi người dân An Giang luôn tự hào và mãi mãi ghi ơn những thế hệ cha ông ta đã dày công khai hoang, mở ấp, lập làng; ra sức bảo vệ, xây dựng và phát triển quê hương An Giang ngày càng phồn vinh, tươi đẹp như ngày nay. Chúng ta càng trân trọng, gìn giữ, phát huy những giá trị tốt đẹp về lịch sử truyền thống và con người An Giang; tự hào vị trí quan trọng và những đóng góp của An Giang trong tiến trình phát triển của đất nước; qua đó, khơi dậy lòng tự hào của mỗi người dân An Giang, quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh, xứng tầm với công sức khai mở, vun bồi của của những bậc tiền nhân.

AN BÌNH

Hướng đến kỷ niệm 191 năm Ngày Truyền thống tỉnh An Giang (22/11/1832 -22/11/2023)An Giang 190 nămTinNguyễn HảoHướng đến kỷ niệm 191 năm Ngày Truyền thống tỉnh An Giang (22/11/1832 -22/11/2023)/SiteAssets/191-nam-thanhlaptinh-ag-1.jpg
21/11/2023 3:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Theo sách “Đại Nam thực lục chính biên” ghi nhận 191 năm trước, vào ngày mùng 1 tháng 10 năm Nhâm Thìn (1832), nhằm ngày 22/11/1832 (dương lịch), năm Minh Mệnh thứ 13, trong buổi thiết triều, sau khi nghe Bộ Lại trình tấu, vua Minh Mệnh đã chỉ dụ bãi bỏ Gia Định Thành, đổi “Ngũ trấn” thành “Lục tỉnh”, quyết định thành lập 12 tỉnh từ Quảng Nam đến Hà Tiên cùng thời điểm, trong đó có tỉnh An Giang.

Ngày 21/11/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 1447/QĐ-TTg lấy ngày 22/11 hằng năm là Ngày Truyền thống tỉnh An Giang.

191-nam-thanhlaptinh-ag-1.jpg

Hướng đến Kỷ niệm 191 năm Ngày Truyền thống tỉnh An Giang (22/11/1832 -22/11/2023), Tỉnh ủy An Giang đã ban hành Công văn số 992-CV/TU ngày 16/11/2023 về việc kỷ niệm 191 năm Ngày thành lập tỉnh An Giang (1832-2023).

Theo đó, Thường trực Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban, sở, ngành, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong Tỉnh đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục trong toàn thể cán bộ, đảng viên và Nhân dân về kỷ niệm 191 năm thành lập tỉnh An Giang (22/11/1832-22/11/2023), tuyên truyền về quá trình hình thành, xây dựng và phát triển tỉnh An Giang; về truyền thống lịch sử, văn hóa, con người An Giang; những đóng góp của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân của Tỉnh trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, trong sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... nhằm khơi dậy khát vọng phát triển, phát huy tinh thần đoàn kết, chung sức đồng lòng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 và các năm tiếp theo.

191-nam-thanhlaptinh-ag-2.jpg

 Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo việc đồng loạt treo cờ Tổ quốc tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, cơ quan đảng, đoàn thể, các doanh nghiệp, cơ sở kinh tế, trường học, công ty, xí nghiệp, hộ dân... trên địa bàn Tỉnh trong ngày 22/11/2023 để chào mừng 191 năm thành lập Tỉnh.

191-nam-thanhlaptinh-ag-3.jpg

Trải qua lịch sử 191 năm hình thành và phát triển, vùng đất và con người An Giang đã không ngừng bồi đắp và làm phong phú thêm những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc... Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân An Giang sẽ tiếp tục phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa, truyền thống yêu nước, đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường; chung sức, đồng lòng xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, xây dựng An Giang - quê hương Chủ tịch Tôn Đức Thắng kính mến ngày càng giàu đẹp, văn minh./.

Nguồn: Công văn 992-CV/TU ngày 16/11/2023

Nguyễn Hảo

Tự hào truyền thống quê hương An GiangAn Giang 190 nămBài viếtTTCTTTTự hào truyền thống quê hương An Giang/SiteAssets/AG-190-2023-1.jpg
17/11/2023 11:30 SANoĐã ban hành

(TUAG)- An Giang - vùng đất mới và còn rất trẻ so với các vùng khác của đất nước. Nếu tính từ khi vùng đất này thuộc quyền cai quản của nhà Nguyễn thì đến nay chưa đầy ba thế kỷ. Tỉnh An Giang chính thức được ghi vào hệ thống hành chính năm 1832 nằm trong lục tỉnh: Gia Định - Biên Hòa - Định Tường - Vĩnh Long - Hà Tiên và An Giang. Trải qua chặng đường lịch sử 191 năm hình thành và phát triển, An Giang không ngừng phát triển về mọi mặt, đóng góp xứng đáng vào trang sử hào hùng của dân tộc và những thành tựu phát triển chung của đất nước.

AG-190-2023-2.jpg

Là nơi địa đầu biên giới Tây Nam, đón nhận dòng Mê Kông hùng vĩ chảy vào Việt Nam, An Giang đã chứng kiến nhiều biến động lịch sử quan trọng. Từng là trung tâm của nền văn hóa Óc Eo xưa, An Giang hiện nay là một trong bốn tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Trải qua lịch sử 191 năm hình thành và phát triển, vùng đất và con người An Giang đã không ngừng bồi đắp và làm phong phú thêm những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, miệt mài sáng tạo những thành quả mới để khẳng định vị thế trên bản đồ đất nước. Đó là một hành trình xây đắp và kiến tạo để từng bước hiện thực hóa mục tiêu trở thành tỉnh có quy mô nền kinh tế thuộc nhóm đầu của khu vực ĐBSCL và cao hơn mức trung bình của cả nước.

Lịch sử hình thành vùng đất An Giang ghi nhận một sự kiện quan trọng là năm Đinh Sửu (1757), quốc vương Chân Lạp là Nặc Tôn đã dâng đất Tầm Phong Long (vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, ngày nay có một phần thuộc An Giang) cho chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát để đền ơn cứu giúp trong lúc hoạn nạn và giúp giành lại vương triều. Chúa Nguyễn cử Nguyễn Cư Trinh tiếp nhận đất Tầm Phong Long, cho lệ vào dinh Long Hồ và đặt thành 3 đạo gồm: Xứ Sa Đéc đặt thành đạo Đông Khẩu, xứ Cù Lao Giêng đặt làm đạo Tân Châu, xứ Châu Đốc làm đạo Châu Đốc, rồi lấy binh dinh Long Hồ đến gìn giữ nơi địa đầu trọng yếu ấy. Từ thời điểm năm 1757, vùng đất sau cùng của Nam Bộ (một phần là An Giang ngày nay) đã trở thành một bộ phận không thể chia cắt được của nước Việt Nam về mặt pháp lý.

Với ý nghĩa là vùng đất có những dòng sông hiền hòa và an bình, tên gọi An Giang ra đời vào năm 1832, khi vua Minh Mệnh (1791 - 1841) quyết định đổi Ngũ trấn thành Lục tỉnh ở Nam Kỳ. Sách “Đại Nam thực lục chính biên” ghi nhận 191 năm trước, vào ngày mùng 1 tháng 10 năm Nhâm Thìn (1832), năm Minh Mệnh thứ 13, trong buổi thiết triều, sau khi nghe Bộ Lại trình tấu, vua Minh Mệnh đã chỉ dụ bãi bỏ Gia Định Thành, đổi “Ngũ trấn” thành “Lục tỉnh”, quyết định thành lập 12 tỉnh từ Quảng Nam đến Hà Tiên cùng thời điểm, trong đó có tỉnh An Giang. Đối chiếu với lịch vạn niên, ngày mùng 1 tháng 10 năm 1832 nhằm ngày 22/11/1832 (dương lịch).

TC-kinhte-bienmau-23-1.jpg

Xuyên suốt chiều dài lịch sử khai phá vùng đất An Giang trong buổi đầu mở mang bờ cõi đến nay là vùng đất biên thùy trọng yếu ở phía Tây Nam của Tổ quốc. Quá trình khẩn hoang, khai phá vùng đất An Giang luôn gắn liền các cuộc chiến tranh chống các kẻ thù xâm lược. Con người An Giang có truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất chống ngoại xâm. Trong suốt chiều dài lịch sử từ khi có Đảng, Nhân dân An Giang luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin theo con đường cách mạng. An Giang tự hào là một trong số tỉnh ở Nam Bộ sớm có các tổ chức tiền thân của Đảng và các cơ sở đảng. Cuối năm 1927, Chi bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu tiên của tỉnh Long Xuyên ra đời tại huyện Chợ Mới. Tháng 2/1928, Tỉnh bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh Long Xuyên được thành lập. Tháng 4/1930, Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở An Giang được thành lập tại xã Long Điền, huyện Chợ Mới đã tổ chức treo lá cờ Đảng Cộng sản đầu tiên trên Cột dây thép ở ấp Long Thuận, xã Long Điền. Kể từ đó, nhiều cơ sở đảng trong tỉnh ra đời và ngày càng lớn mạnh, đã lãnh đạo Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang viết nên những trang sử hào hùng, vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cứu nước, bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam của Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế giúp nước bạn Campuchia và đạt những thành tựu to lớn, đáng tự hào trong hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.

An Giang có những đặc trưng riêng biệt, vừa có đồng bằng, rừng núi, tài nguyên khoáng sản, những di tích lịch sử lâu đời mang dấu ấn của một nền văn hóa lúa nước cổ xưa. An Giang còn là nơi có nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, sông nước mênh mông, ruộng đồng bát ngát, núi non kỳ vĩ, rừng tràm xanh ngắt một màu và từ lâu đã là một xứ sở trù phú về nông nghiệp và thủy sản... Bức tranh sơn thủy ấy tạo nên cảnh thiên nhiên kỳ vỹ, hội tụ trong không gian văn hóa độc đáo. Thiên nhiên và con người ở An Giang không chỉ mang những nét đặc trưng của miền Tây Nam Bộ mà còn có những vẻ đẹp riêng biệt của mình. Tất cả đã hội tụ ở đất An Giang, tạo nên một mảnh đất bình dị, đơn sơ và mộc mạc không lẫn với bất kỳ nơi đâu.

Là tỉnh đa dân tộc, đa tôn giáo, nơi khởi nguồn của Phật giáo Hòa Hảo, Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Các dân tộc Kinh, Hoa, Chăm, Khmer,... cùng chung sống hòa thuận lâu đời, từ đó hình thành những giá trị văn hóa phong phú, với nhiều lễ hội dân gian, các làng nghề truyền thống và các công trình kiến trúc độc đáo. Tính đa dạng về văn hóa là một trong những thế mạnh của hệ giá trị sinh thái nhân văn, tạo nên nét đẹp rất riêng của nền văn hóa tâm linh địa phương và của từng dân tộc tại An Giang.

AG-190-2023-1.jpg

An Giang tự hào là địa phương có bề dày lịch sử, giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, là vùng đất địa linh, nhân kiệt, quê hương của Chủ tịch Tôn Đức Thắng - Người Cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo mẫu mực, người bạn chiến đấu thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người chiến sĩ trung thành của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, xuyên suốt chặng đường 191 năm hình thành và phát triển, người dân An Giang luôn anh dũng, kiên cường trong kháng chiến; cần cù, sáng tạo trong lao động; đoàn kết, nhân ái, giản dị, thủy chung trong cuộc sống. Tính chất phát, cần cù, chịu khó và luôn sống có nghĩa, có tình đã tạo nên một đặc trưng rất riêng của con người An Giang.   

Nhìn lại chặng đường lịch sử 191 năm qua, trong sâu thẳm mỗi người dân An Giang luôn tự hào và mãi mãi ghi ơn những thế hệ tiền nhân khai khẩn, bảo vệ, xây dựng và phát triển vùng đất An Giang tươi đẹp như ngày nay. Những thành tựu tỉnh An Giang đạt được trong thời gian qua là kết tinh của truyền thống yêu nước, đoàn kết, cần cù, sáng tạo và quyết tâm của cả hệ thống chính trị và sự đoàn kết, nỗ lực to lớn của các tầng lớp nhân dân.

Để ghi nhận, biểu dương những thành tích xuất sắc của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang đạt được trong suốt chặng đường lịch sử vừa qua, Đảng và Nhà nước đã quyết định trao tặng cho tỉnh An Giang nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao Vàng; Huân chương Lao động hạng Nhất, Nhì, Ba; Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; 632 Mẹ được phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”; 12 tập thể và cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới; 109 tập thể và cá nhân được phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều phần thưởng cao quý khác,... Ngày 21/11/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 1447/QĐ-TTg lấy ngày 22/11 hằng năm là Ngày truyền thống tỉnh An Giang.

Với bề dày lịch sử, truyền thống cách mạng kiên cường, suốt chặng đường lịch sử 191 năm hình thành và phát triển, với niềm tin và khát vọng về quê hương giàu mạnh, Nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân An Giang sẽ tiếp tục phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường, đoàn kết, đổi mới, năng động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, quyết tâm xây dựng quê hương Chủ tịch Tôn Đức Thắng ngày càng văn minh, giàu đẹp; xứng tầm với công sức khai mở, vun bồi của những bậc tiền nhân.

NGUYỄN HỮU THỊNH

Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

An Giang là tỉnh phát triển toàn diện, hiện đại, văn minh, sinh thái, bền vữngTinH.TAn Giang là tỉnh phát triển toàn diện, hiện đại, văn minh, sinh thái, bền vững/SiteAssets/Vannghe-190namag.jpg
15/11/2023 5:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Ngày 15/11/2023, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định số 1369/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Vannghe-190namag.jpg

Đến năm 2030, An Giang là tỉnh phát triển khá trong vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Mục tiêu đến năm 2030 An Giang là tỉnh phát triển khá trong vùng đồng bằng sông Cửu Long; có kinh tế phát triển năng động, hài hòa và bền vững; là trung tâm nghiên cứu phát triển giống và sản xuất nông nghiệp, thủy sản, dược liệu ứng dụng công nghệ cao; trung tâm du lịch sinh thái của vùng; đầu mối giao thương, hợp tác với Vương quốc Campuchia; có hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, thích ứng với biến đổi khí hậu; các giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy; quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự an toàn xã hội ổn định; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống của người dân được ấm no, hạnh phúc.

Về kinh tế, An Giang phấn đấu đến năm 2030 tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân 7%/năm. Tỷ trọng trong GRDP của khu vực nông, lâm, thủy sản khoảng 20,0%; khu vực công nghiệp - xây dựng khoảng 25,0%; khu vực dịch vụ khoảng 50,0%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm khoảng 5,0%.

GRDP bình quân đầu người (giá hiện hành) đạt trên 157 triệu đồng. Kinh tế số đạt trên 20% GRDP.

Về xã hội, dân số tăng bình quân 0,9%/năm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 80%, trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ là 39%. Tỷ lệ đô thị hóa trên 50%.

Tầm nhìn đến năm 2050, An Giang là tỉnh phát triển toàn diện, hiện đại, văn minh, sinh thái, bền vững; là đầu mối giao thương hàng hóa, dịch vụ của vùng với thị trường Campuchia và các nước khu vực ASEAN; bản sắc văn hóa thống nhất trong đa dạng của các dân tộc trên địa bàn tỉnh và mang đậm văn hóa sông nước của vùng đất đầu nguồn sông Cửu Long. Quốc phòng, an ninh vững mạnh, trật tự, an toàn xã hội ổn định, người dân có cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc.

An Giang đổi mới tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp

Về phương hướng phát triển, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản sẽ đổi mới tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp, ứng dụng công nghệ cao theo chuỗi giá trị, hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm. Tập trung phát triển 03 nhóm sản phẩm chủ lực hiện có gồm: lúa gạo; cá tra; rau màu, cây ăn trái và 02 nhóm sản phẩm mới phù hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh gồm: chăn nuôi bò và nấm ăn, nấm dược liệu. Chú trọng, nghiên cứu phát triển giống nông nghiệp, thủy sản và dược liệu.

Tích tụ ruộng đất, cánh đồng lớn để hình thành các vùng chuyên canh, vùng sản xuất nguyên liệu hàng hóa quy mô lớn, các vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Phát triển các vùng chăn nuôi tập trung ở xa khu dân cư; khuyến khích các cơ sở chăn nuôi ứng dụng kỹ thuật tiên tiến, bảo đảm an toàn dịch bệnh.

Hình thành các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung, ứng dụng công nghệ cao, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. Khai thác thủy sản gắn với bảo vệ và phục hồi nguồn lợi thủy sản tại địa phương.

Đồng thời, xây dựng trung tâm đầu mối về nông nghiệp gắn với vùng nguyên liệu thủy sản nước ngọt, trái cây, lúa gạo, kết nối với các trung tâm đầu mối nông nghiệp, thủy sản khác của vùng.

Xây dựng các cụm liên kết công nghiệp chuyên ngành chế biến lương thực phẩm

An Giang ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến công nghệ cao, thân thiện môi trường, gắn với vùng nguyên liệu tập trung; phát triển công nghiệp chế tạo phục vụ cho các lĩnh vực nông nghiệp.

Tập trung phát triển vững chắc công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm. Đổi mới, nâng cấp công nghệ cho các ngành chế biến các sản phẩm từ gạo, cá tra. Xây dựng các cụm liên kết công nghiệp chuyên ngành chế biến lương thực, thực phẩm, thúc đẩy tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Bên cạnh đó, An Giang đẩy mạnh phát triển dịch vụ nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ hiện đại, có giá trị gia tăng cao, như logistics, thương mại điện tử, thương mại quốc tế, công nghệ thông tin và truyền thông, du lịch, y tế, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo./.


1 - 30Next