| Hành trình đi tìm “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi…” | Bài viết | TTCTTT | Hành trình đi tìm “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi…” | /SiteAssets/NHA-RONG-HCM-RADI.jpg | | 05/06/2025 7:00 SA | No | Đã ban hành | | (TUAG)- Ngày 05/6/1911, trên con tàu Amiral La Touche De Tréville của Pháp, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Sài Gòn bắt đầu cuộc hành trình tìm con đường giải phóng dân tộc. Hành trình này không chỉ là một dấu ấn đặc biệt trong cuộc đời cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà còn là một dấu mốc trọng đại đối với lịch sử dân tộc Việt Nam. 
Bến Nhà Rồng là một trong những địa điểm có ý nghĩa lịch sử đặc biệt.
Bến cảng Nhà Rồng - điểm khởi đầu, nơi mở ra cuộc hành trình của ý chí, niềm tin và khát vọng kiếm tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, cũng là cuộc hành trình hướng về những giá trị nhân văn cao cả, vì sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và dân tộc trong tương lai của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành. Hành trang của Người là tri thức về văn hóa phương Đông và phương Tây, là tấm lòng yêu nước nồng nàn, thương dân và khát vọng cháy bỏng của tuổi trẻ... Người quyết tâm ra đi đến nơi có những cuộc cách mạng tư sản điển hình, có nền khoa học kỹ thuật phát triển, để học hỏi những điều mà Người cho là “tinh hoa và tiến bộ” nhằm thực hiện công cuộc giải phóng đất nước khỏi ách thuộc địa của thực dân Pháp, tất cả hướng tới “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”. Trong thời gian tìm đường cứu nước, Người tích cực trau dồi, bồi dưỡng kiến thức trên nhiều phương diện. Người không chỉ đi để quan sát, nhìn nhận thế giới mà còn không ngừng học hỏi, tiếp thu nguồn tri thức bao la của nhân loại, hiểu rõ hơn những khái niệm Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Những năm 1919 - 1920, như Người tâm sự: “Tôi biết rất ít về các vấn đề chính trị... Tôi chưa biết đảng là gì, công đoàn là gì, càng không rõ chủ nghĩa xã hội khác chủ nghĩa cộng sản ở chỗ nào... Tôi biết rất ít về Cách mạng Tháng Mười và về Lênin: Về cảm tính tôi thấy mình có mối tình đoàn kết với cuộc cách mạng Nga và người lãnh đạo cuộc cách mạng ấy, nhưng tôi chưa hề đọc tác phẩm nào của Lênin”. Người vẫn còn lúng túng trước các cuộc tranh luận chính trị, chưa có nhận thức rõ ràng về các vấn đề mà thế giới phương Tây đang sôi nổi thảo luận. Cũng vì lý do ấy, trong suốt những năm tháng tìm đường cứu nước, Người đã chú trọng cả hai phương diện hoạt động là lý luận và thực tiễn. Về lý luận, Người đọc trực tiếp các tác phẩm văn học, triết học... của các nhà khai sáng như: Voltaire, Rousseau, Montesquieu. Về thực tiễn, Người sinh hoạt chính trị, khoa học và các lĩnh vực khác một cách rộng rãi. Tại các cuộc gặp và nói chuyện ở Paris, Người có cơ hội làm quen với nhiều thành phần bao gồm các nhà hoạt động chính trị, nhà văn, đại biểu quốc hội, cựu bộ trưởng, nhà khoa học, người dân buôn bán, người trẻ, người già... Họ nói về tất cả các chủ đề, từ thiên văn, địa lý, chính trị, văn học đến cách trồng cải xoong và nuôi sên. Đặc biệt, khi sinh hoạt tại Câu lạc bộ Phobua, trong Đảng Xã hội Pháp - và đỉnh cao là Đại hội Tua đã mang lại cho người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (lúc bấy giờ có tên là Nguyễn Ái Quốc) “một bầu không khí thân mật và dân chủ, giống như ở câu lạc bộ Giacôbanh thời Đại cách mệnh Pháp, ở đây người ta có thể học nhiều chuyện và nhận xét mọi người. Thật là bổ ích”. Qua những chuyến đi của mình, Người đã thu nhận được nhiều kiến thức phong phú về triết học, lịch sử, tôn giáo, tư tưởng dân chủ... với một tầm nhìn hết sức rộng lớn và bao quát. Với sự nhạy bén chính trị, nhạy bén giai cấp, Người từ chỗ tham gia vào Đảng Xã hội Pháp đã đi tới quyết định chọn con đường cách mạng mà Lênin đã khai phá, con đường cách mạng vô sản để cứu nước và giải phóng dân tộc. Người viết trong bài Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin (1960): “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Tại Đại hội đại biểu Đảng Xã hội Pháp lần thứ XVIII (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên - một dấu mốc lớn nhất, quan trọng nhất trên hành trình tìm đường cứu nước của Người. Đầu năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người bắt đầu xây dựng những nhân tố bảo đảm cho cách mạng Việt Nam như: Truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, khơi dậy tinh thần đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, phát triển lực lượng cách mạng, xây dựng các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Đường Kách mệnh”, đặc biệt là việc xuất bản tờ Báo Thanh Niên ra ngày 21/6/1925, Người đã chuẩn bị về đường lối chính trị để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Khi điều kiện thành lập Đảng đã chín muồi, ngày 3/2/1930, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tại Hương Cảng (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản đã nhất trí thành lập một đảng thống nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây chính là kết quả khẳng định tầm nhìn, bản lĩnh, trí tuệ và sự cống hiến của Nguyễn Ái Quốc trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào việc thành lập một đảng cách mạng chân chính để lãnh đạo cách mạng Việt Nam… Đến ngày 28/1/1941 (tức mồng 2 Tết Tân Tỵ), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua cột mốc 108 trên biên giới Việt Nam - Trung Quốc, tại làng Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, trở về Tổ quốc sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, cứu dân để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân Việt Nam đã gắn kết thành một khối, phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc, làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một thời đại mới rực rỡ nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc - Thời đại Hồ Chí Minh. Từ đó tiếp tục nở hoa độc lập, kết trái tự do, làm nên thắng lợi của 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập cho dân tộc, thống nhất non sông. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử là thực tiễn sinh động minh chứng hùng hồn cho con đường mà người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành tìm ra, giới thiệu để lịch sử lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn. Đó là con đường của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường mang tầm nhìn vượt thời gian đưa đất nước và dân tộc ta vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thực hiện công cuộc đổi mới, từng bước tiến lên “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Ngày 5/6 hằng năm là dịp để mỗi người dân Việt Nam ghi nhớ về hành trình đi tìm “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi…” của Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây cũng là dịp để tri ân Người. Tinh thần của hành trình vĩ đại này đã, đang và sẽ tiếp tục được lan tỏa trên chặng đường phát triển của đất nước. HÒA BÌNH
| False | | Chính trị | | Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kiên Giang và Thường trực Tỉnh ủy An Giang | Bài viết | Admin | Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kiên Giang và Thường trực Tỉnh ủy An Giang | /SiteAssets/TBT-ToLam-lamviec-AGKGa.jpg | | 04/06/2025 7:00 CH | Yes | Đã ban hành | | (TUAG)- Ngày 04/6, tại thành phố Rạch Giá, Tổng Bí thư Tô Lâm và Đoàn công tác Trung ương đã có buổi làm
việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kiên Giang và Thường trực Tỉnh ủy An
Giang về triển khai thực hiện các nghị quyết, kết luận của Trung ương,
việc sắp xếp tổ chức bộ máy của địa phương, công tác quốc phòng, an
ninh, việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế, công tác an
sinh xã hội. Cổng Thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh An Giang xin trân trọng giới thiệu bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kiên Giang và Thường trực Tỉnh ủy An Giang.

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu chỉ đạo tại buổi làm việc.
Thưa các đồng chí trong đoàn công tác Trung
ương, Thưa các đồng chí lãnh đạo tỉnh An Giang và
Kiên Giang, Thưa toàn thể các đồng chí, Hôm nay, tôi và Đoàn công tác Trung ương rất
vui mừng được về thăm và làm việc với các đồng chí lãnh đạo tỉnh Kiên Giang và
An Giang - hai địa phương giàu truyền thống cách mạng, giữ vị trí chiến lược
quan trọng ở vùng biên giới Tây Nam Tổ quốc. Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước,
tôi thân ái gửi tới toàn thể các đồng chí lãnh đạo, cán bộ, chiến sĩ và Nhân
dân hai tỉnh lời thăm hỏi chân tình và lời chúc sức khỏe, hạnh phúc và thành
công. Thưa các đồng chí, Kiên Giang- một tỉnh gồm đất liền và hải đảo
đã và đang vươn lên mạnh mẽ như một cực tăng trưởng mới của vùng Tây Nam Bộ.
Kiên Giang giữ vai trò trọng yếu về kinh tế biển, nông nghiệp công nghệ cao,
nuôi trồng - chế biến thủy hải sản và đang đẩy mạnh phát triển cảng biển,
logistics ven biển gắn với hành lang kinh tế biển phía Tây. Các khu công nghiệp,
khu đô thị và khu kinh tế ven biển cũng đang được quy hoạch mở rộng, tạo động lực
mới cho công nghiệp hóa và phát triển đô thị vùng ĐBSCL. An Giang, với vị thế là tỉnh đầu nguồn sông Cửu
Long, không chỉ là vựa lúa quan trọng của cả nước mà còn là địa phương đi đầu
trong phát triển nông nghiệp thông minh, nông nghiệp tuần hoàn và liên kết sản
xuất lớn. Tỉnh đã hình thành được nhiều mô hình kinh tế hợp tác hiệu quả, đặc
biệt trong sản xuất giống, thủy sản và rau màu. An Giang còn được biết đến là một
trong những tỉnh có hoạt động kinh tế biên mậu sôi động nhất nhờ hệ thống cửa
khẩu giáp Campuchia, gắn với tiềm năng phát triển logistics và thương mại xuyên
biên giới. Về văn hóa - xã hội, cả Kiên Giang và An Giang
đều là vùng đất đậm bản sắc văn hóa miền Tây, có sự giao thoa văn hóa giữa các
dân tộc, giàu truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc. Người dân An Giang và
Kiên Giang đềunổi tiếng với sự phóng khoáng, hiền hòa, chất phác, mến khách đậm
“chất anh Hai” Nam Bộ; có nhiều nét tương đồng về ẩm thực, phong tục và lễ hội
truyền thống. Trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức,
nhất là sau đại dịch COVID-19 và biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, Đảng bộ,
chính quyền và Nhân dân hai tỉnh An Giang và Kiên Giang đã đoàn kết, nỗ lực
vươn lên, đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trên các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, xã hội và môi trường. An Giang đã có bước chuyển mạnh trong cơ cấu kinh tế,
phát triển nông nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, thúc đẩy du lịch
và nâng cao chất lượng dịch vụ công. Kiên Giang tiếp tục khẳng định vai trò là
một trong những trung tâm kinh tế biển của vùng, với thế mạnh về nông - thủy sản,
du lịch và phát triển đô thị, nhất là khu kinh tế Phú Quốc. Hai tỉnh cũng đã
chú trọng công tác giảm nghèo, chăm lo an sinh xã hội, nâng cao chất lượng giáo
dục, y tế và đời sống Nhân dân, đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi số và xây dựng
chính quyền điện tử. Những kết quả đó là minh chứng cho sự năng động, đổi mới
tư duy và quyết tâm phát triển bền vững của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp
Nhân dân trong tỉnh. Thay mặt Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi trân
trọng biểu dương và ghi nhận những nỗ lực to lớn, tinh thần trách nhiệm cao và
những kết quả quan trọng mà Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân
dân hai tỉnh An Giang và Kiên Giang đã đạt được trong thời gian qua. Những
thành tựu đó không chỉ đóng góp thiết thực vào sự phát triển chung của vùng
ĐBSCL mà còn góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng,
thể hiện rõ bản lĩnh, ý chí và khát vọng vươn lên của hai địa phương trong hành
trình phát triển. Thưa các đồng chí, Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực,
nhưng An Giang và Kiên Giang vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
Quy mô nền kinh tế của hai tỉnh còn tương đối nhỏ, số lượng doanh nghiệp còn
ít, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, năng lực cạnh tranh còn hạn chế. Kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội, đặc biệt là giao thông, thủy lợi, logistics, vẫn thiếu đồng bộ
và khó khăn. Những vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu, nguồn nước đang tác động
trực tiếp hàng ngày đến sự phát triển kinh tế xã hội và đời sống của nhân dân.
Môi trường kinh doanh còn nhiều rào cản. Tỷ lệ ứng dụng khoa học - công nghệ và
chuyển đổi số còn thấp. Nguồn nhân lực tuy dồi dào nhưng chất lượng chưa cao,
nhất là trong lĩnh vực công nghệ cao, quản trị hiện đại, kỹ năng nghề và kỹ
năng số cònhạn chế. Giải ngân đầu tư công chậm; một số dự án ngoài ngân sách có
dấu hiệu vi phạm pháp luật đất đai, kéo dài chưa được xử lý dứt điểm. Bên cạnh đó, một số chỉ tiêu chủ yếu của Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ hiện nay vẫn còn đạt thấp, đặc biệt là tăng
trưởng kinh tế. Hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực quy hoạch, đất
đai, tài nguyên, môi trường, cải cách hành chính và chuyển đổi số còn nhiều bất
cập. Chất lượng phong trào thi đua, mô hình phát triển ở cơ sở còn thiếu sức
lan tỏa; hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ
cá thể còn gặp khó khăn, sức cạnh tranh thấp. Việc huy động các nguồn lực xã hội,
nhất là vốn đầu tư tư nhân, vẫn còn nhiều vướng mắc. Công tác phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao chưa đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đời sống của một bộ phận
người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, vẫn còn khó khăn; tình trạng
thiếu việc làm, việc làm không ổn định có xu hướng tăng. Một số vấn đề về giải
quyết khiếu nại, xét xử, thi hành án dân sự còn kéo dài, ảnh hưởng đến niềm tin
và sự ổn định xã hội ở cơ sở. Thưa các đồng chí, Trong nhiều năm qua, dù nằm liền kề nhau và
cùng thuộc vùng trọng điểm phía Tây Nam của ĐBSCL, mối liên kết giữa hai tỉnh
Kiên Giang và An Giang vẫn còn lỏng lẻo, chưa phát huy đầy đủ tiềm năng bổ trợ
và lợi thế so sánh. Các chương trình hợp tác liên tỉnh còn ít và rời rạc, thiếu
cơ chế điều phối tổng thể và tầm nhìn chiến lược chung. Hệ thống hạ tầng kết nối,
nhất là giao thông, logistics giữa hai địa phương chưa đồng bộ; sự liên thông
trong quy hoạch không gian phát triển, thu hút đầu tư, phát triển vùng nguyên
liệu, du lịch và dịch vụ cũng chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng. Điều
này không chỉ làm hạn chế quy mô thị trường, giảm hiệu quả thu hút đầu tư mà
còn gây lãng phí nguồn lực, khó tạo ra những đột phá phát triển. Trong khi đó,
thực tế phát triển đang đặt ra nhu cầu cấp thiết phải tổ chức lại không gian
kinh tế, hình thành các vùng động lực có quy mô đủ lớn và năng lực cạnh tranh đủ
mạnh để đối diện với những thách thức mới như biến đổi khí hậu, chuyển đổi năng
lượng, tái cơ cấu nông nghiệp và hội nhập kinh tế sâu rộng. Chính vì vậy, việc sáp nhập hai tỉnh Kiên
Giang và An Giang không chỉ là giải pháp hành chính mà còn quyết định mang tầm
chiến lược nhằm kiến tạo một thực thể phát triển mới có quy mô kinh tế lớn hơn,
hệ sinh thái kinh tế đa dạng hơn và khả năng điều phối liên kết vùng hiệu quả
hơn. Sự kết hợp giữa một An Giang giàu truyền thống sản xuất nông nghiệp công
nghệ cao, vùng đầunguồn sông Cửu Long, trung tâm giống thủy sản, cây trồng, và
một Kiên Giang có thế mạnh vượt trội về biển đảo, du lịch, năng lượng tái tạo
và dịch vụ cảng biển, sẽ tạo nên một trục phát triển “núi - đồng bằng – biên giới
- biển đảo”, tích hợp giữa kinh tế biên giới và kinh tế biển. Hơn thế nữa, sự hợp nhất này sẽ mở ra cơ hội
tái cấu trúc hệ thống hạ tầng vùng, hình thành các chuỗi giá trị liên kết chặt
chẽ hơn từ sản xuất, chế biến, logistics và xuất khẩu; đồng thời tạo điều kiện
hình thành các vùng kinh tế trọng điểm mới, thu hút đầu tư chiến lược, tăng cường
nội lực và sức cạnh tranh cho toàn khu vực Tây Nam Bộ. Thưa các đồng chí, Từ sau Hội nghị Trung ương 11 đến nay, toàn hệ
thống chính trị đã quyết liệt, quyết tâm, đồng lòng, dốc sức thực hiện cuộc
cách mạng về tổ chức bộ máy của cả hệ thống chính trị, thực hiện sắp xếp lại
đơn vị hành chính cấp Xã, cấp Tỉnh; chuẩn bị và hoàn thiện văn kiện, công tác
nhân sự và tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng...
Trung ương chỉ đạo sát sao, các đồng chí được Bộ Chính trị phân công theo dõi địa
phương cũng sâu sát cùng các đồng chí và sẽ tiếp tục sâu sát trong giai đoạn nước
rút này để các đồng chí thực hiện thật nghiêm túc, thành công các Nghị quyết, Kết
luận, Chỉ thị, Hướng dẫn của Trung ương.

Quang cảnh buổi làm việc.
Nhằm góp phần giúp các đồng chí chuẩn bị tốt
hơn nữa quá trình hợp nhất và đưa tỉnh mới phát triển nhanh, bền vững, toàn diện,
với tinh thần khẩn trương, ý thức trách nhiệm cao nhất trước Đảng và Nhân dân,
Tôi đề nghị hai tỉnh tập trung chỉ đạo, triển khai đồng bộ, quyết liệt một số
nhiệm vụ trọng tâm sau: 1. Tập trung rà soát, đánh giá mức độ hoàn
thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020
- 2025 đã đề ra để kịp thời có giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện hiệu quả
các chỉ tiêu còn đạt thấp hoặc có thể không hoàn thành nhằm phấn đấu hoàn thành
ở mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ. 2. Chuẩn bị toàn diện, tổ chức thực hiện hiệu
quả việc hợp nhất tỉnh gắn với sắp xếp bộ máy, đơn vị hành chính và xây dựng
chính quyền địa phương hai cấp Tiến trình hợp nhất tỉnh Kiên Giang và An
Giang là cơ hội chiến lược để tổ chức lại toàn bộ hệ thống chính trị - hành
chính theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, hiện đại và gần dân hơn. Từ nay
đến khi hoàn tất việc hợp nhất, hai tỉnh cần tăng cường phối hợp chặt chẽ trong
lãnh đạo, điều hành các nhiệmvụ chung với tinh thần “một tỉnh - một tầm nhìn -
một hành động - một niềm tin”, tuyệt đối tránh tâm lý phân biệt “tỉnh tôi - tỉnh
anh” gây chia rẽ, trì trệ. Càng gần thời điểm hợp nhất, càng cần thể hiện rõ
tinh thần trách nhiệm chung, kỷ luật hành chính, đoàn kết nội bộ và ý chí chính
trị cao nhất. Việc chuẩn bị phải toàn diện, đồng bộ, có trọng
tâm, trọng điểm trên tất cả các lĩnh vực, từ sắp xếp tổ chức bộ máy, điều chuyển
cán bộ, tinh gọn biên chế, phân bổ lại tài chính, tài sản, đất đai, ngân sách đến
số hóa dữ liệu hành chính, xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin, bố trí trụ sở,
kho bạc, cơ quan thuế, hành chính công,... Mọi phương án cần được xây dựng chi
tiết, dự phòng nhiều kịch bản khác nhau để bảo đảm khi chính thức hợp nhất, mọi
hoạt động của tỉnh mới diễn ra thông suốt, liền mạch, không bị gián đoạn ở bất
kỳ khâu nào. Cùng với đó, phải thực hiện hiệu quả, bài bản
việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo mô hình 2 cấp: tỉnh - xã, không tổ chức
cấp huyện, nhằm tinh giản đầu mối, giảm tầng nấc trung gian, tăng tính chủ động
cho cấp cơ sở. Đặc biệt, cần có cơ chế tổ chức hành chính linh hoạt cho các khu
vực đặc biệt như đặc khu Phú Quốc, Thổ Chu, Kiên Hải, phù hợp với yêu cầu phát
triển đặc thù, nhất là trong bối cảnh hướng tới xây dựng các đặc khu kinh tế,
du lịch, quốc phòng - an ninh. Trong quá trình sắp xếp, đội ngũ cán bộ phải
là trung tâm của cải cách, là người thực thi các chủ trương, quyết sách của
Trung ương, địa phương. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ phải dựa trên tiêu chuẩn
phẩm chất, năng lực, trình độ, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm và sự tín nhiệm
trong Nhân dân; tuyệt đối không để xảy ra tình trạng cục bộ, chia rẽ, mất đoàn
kết. Phải giữ được cán bộ tốt, có tâm, có tầm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm vì lợi ích chung. Bên cạnh đó, cần ráo riết rà soát, đánh giá
tác động và triển khai chính sách hỗ trợ hợp lý cho đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức, người lao động bị ảnh hưởng bởi quá trình sắp xếp; đồng thời, quản
lý chặt chẽ hồ sơ, tài sản, trụ sở, ngân sách, đảm bảo bàn giao minh bạch,
tránh thất thoát, lãng phí. Có kế hoạch đầu tư hợp lý vào trụ sở các cơ quan mới,
đồng thời sắp xếp sử dụng lại các trụ sở cũ cho hiệu quả. Sau khi hợp nhất, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
là củng cố thống nhất tư tưởng, xây dựng sự đồng thuận, phát huy truyền thống
cách mạng và khát vọng vươn lên của cả hai tỉnh. Tỉnh An Giang mới cần xác định
rõ tầm nhìn trở thành một trung tâm phát triển năng động, toàn diện và bền vững
của vùng ĐBSCL, giữ vai trò kết nối chiến lược Đông - Tây, biển - biên giới, đô
thị - nông thôn, dịch vụ - sản xuất - du lịch. Đặc biệt, hướng đến mục tiêu trở
thành Trung tâm kinh tế biển quốc gia, trong đó Phú Quốc là trung tâm du lịch
sinh thái nghỉ dưỡng đẳng cấp quốc tế, còn vùng Tứ giác Long Xuyên - Châu Đốc -
Rạch Giá - Hà Tiên sẽ là động lực phát triển công nghiệp, logistics và văn hóa
toàn vùng, góp phần tái định hình vai trò của An Giang mới trong cấu trúc kinh
tế quốc gia và chuỗi giá trị khu vực. 3. Tập trung phát triển kinh tế - xã hội toàn
diện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân Sau hợp nhất, tỉnh mới phải nhanh chóng ổn định
tổ chức, đồng thời tập trung cao độ vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với
tinh thần chủ động, sáng tạo, quyết liệt và linh hoạt. Mục tiêu trước mắt là phấn
đấu hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu của năm 2025, đặc biệt là tăng trưởng
GRDP đạt trên 8% tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng hai con số trong các
giai đoạn tiếp theo. Để đạt được mục tiêu đó, cần tập trung tháo gỡ
các điểm nghẽn về môi trường kinh doanh, quy hoạch, hạ tầng, nguồn vốn, chuyển
đổi số và chất lượng nguồn nhân lực. Tiếp tục thúc đẩy cải cách hành chính,
phân cấp, phân quyền, số hóa thủ tục, giảm thời gian và chi phí cho người dân
và doanh nghiệp, tạo động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển năng động,
đặc biệt là khu vực tư nhân và kinh tế số. Các tỉnh cần triển khai nghiêm túc, đồng bộ và
sáng tạo các nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị về các trụ cột chiến lược
như Nghị quyết 57, 59, 66 và 68. Song song với phát triển kinh tế, phải đặt con
người vào vị trí trung tâm, phát triển toàn diện an sinh xã hội và nâng cao chất
lượng sống cho nhân dân. Thực hiện hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia
về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Quan tâm đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục - đào tạo,
y tế cơ sở, phát triển văn hóa và bảo tồn giá trị truyền thống, gắn với khơi dậy
niềm tin, sự tự hào và khát vọng cống hiến của mỗi người dân trong tỉnh mới. Về quốc phòng - an ninh, cần tăng cường xây dựng
thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và thế trận lòng
dân vững chắc, nhất là ở khu vực biên giới, biển đảo và vùng trọng điểm quốc
phòng - kinh tế. Chủ động củng cố các khu vực phòng thủ, lực lượng vũ trang địa
phương và công tác dân vận, bảo đảm vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên
giới, an ninh biển đảo. Đồng thời, tiếp tục mở rộng hợp tác với các tỉnh biên
giới của nước bạn Campuchia, phát triển kinh tế biên mậu, nâng cao hiệu quả quản
lý biên giới và tạo lập vùng biên hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển. 4.
Tạo đột phá mạnh mẽ từ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát huy vốn con
người và phát triển kinh tế tư nhân Một trong những yêu cầu cấp thiết đặt ra cho tỉnh
mới sau sáp nhập là phải chuyển mạnh sang mô hình phát triển dựa trên tri thức,
công nghệ và nhân lực chất lượng cao. Đây là định hướng phù hợp với tinh thần
các nghị quyết mới của Bộ Chính trị, đồng thời là con đường ngắn nhất để tỉnh đột
phá vươn lên, bắt kịp các xu thế phát triển mới trong kỷ nguyên chuyển đổi số
và hội nhập toàn diện. Trước hết, triển khai kế hoạch hành động trên
tinh thần Nghị quyết 57, tỉnh cần đặt mục tiêu trở thành trung tâm khoa học -
công nghệ ứng dụng và đổi mới sáng tạo vùng Tây Nam Bộ, trong đó hình thành các
cụm sáng tạo gắn với các ngành mũi nhọn như nông nghiệp công nghệ cao, công
nghiệp chế biến, du lịch sinh thái và logistic ven biển. Cần khẩn trương xây dựng
hạ tầng số đồng bộ, hiện đại; phát triển cơ sở dữ liệu lớn dùng chung cho các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, đất đai, dân cư...; đồng thời triển khai mạnh mẽ chuyển
đổi số trong chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng. Tỉnh cũng cần tập trung phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao, nhất là nhân lực số, nhân lực kỹ thuật và nhân lực quản trị
hiện đại. Nghiên cứu áp dụng cơ chế đặt hàng đào tạo gắn với thị trường lao động,
tạo nguồn nhân lực tại chỗ phù hợp với chiến lược phát triển từng khu vực. Đặc
biệt, tỉnh cần có chính sách thu hút và phát huy nguồn lực trí thức người Việt ở
nước ngoài và chuyên gia quốc tế vào tham gia tư vấn, chuyển giao công nghệ, quản
trị phát triển. Song song với đó, phát triển khu vực kinh tế tư nhân thực sự trở
thành một động lực quan trọng của nền kinh tế theo tinh thần Nghị quyết 68. Ngoài ra, cần chủ động phát triển các cụm công
nghiệp, phát triển chuỗi cung ứng nội địa, đặc biệt trong các lĩnh vực chế biến
nông - thủy sản, cơ khí phục vụ nông nghiệp, sản xuất dược liệu, logistic và
năng lượng tái tạo. Đối với vùng biên giới và hải đảo, cần có cơ chế thu hút đầu
tư tư nhân vào các lĩnh vực hạ tầng, thương mại, dịch vụ và kinh tế biển; kết hợp
hiệu quả hợp tác công - tư (PPP) trong đầu tư phát triển bền vững, đi đôi với củng
cố quốc phòng - an ninh. 5. Tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp,
hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng Trước hết, cần xác định việc xây dựng báo cáo
chính trị trình đại hội là khâu then chốt, có vai trò định hướng lâu dài, nên
phải được chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu, nghiêm túc và sáng tạo. Báo cáo chính trị
của tỉnh mới không được là phép cộng cơ học từ hai tỉnh trước mà phải thể hiện
tầm nhìn chiến lược, cóchiều sâu phân tích, phản ánh đúng thực tiễn phát triển,
nhận diện rõ các điểm nghẽn, lựa chọn chính xác các khâu đột phá, đồng thời thể
hiện khát vọng, bản sắc và trách nhiệm của một tỉnh động lực trong vùng ĐBSCL. Song song đó, công tác nhân sự phải được chuẩn
bị kỹ càng, đúng nguyên tắc, quy trình, dân chủ, công tâm, khách quan, bảo đảm
xây dựng được một tập thể lãnh đạo cấp ủy, chính quyền tỉnh mới có chất lượng,
bản lĩnh, đoàn kết, có tầm nhìn và năng lực quản trị hiện đại. Việc sắp xếp, bố
trí nhân sự cần hài hòa giữa các vùng, tránh tư tưởng cục bộ địa phương hay biểu
hiện lợi ích nhóm. Nhân sự phải thực sự là trung tâm của cải cách, là người dẫn
dắt đổi mới, có uy tín, tinh thần phụng sự và dám chịu trách nhiệm trước Đảng,
Nhà nước và nhân dân. 6. Tổ chức thành công Hội nghị APEC 2027 tại
Phú Quốc Hội nghị APEC 2027 được tổ chức tại thành phố
Phú Quốc là sự kiện đối ngoại cấp cao, có ý nghĩa đặc biệt đối với không chỉ tỉnh
Kiên Giang và tỉnh An Giang mới sau hợp nhất, mà còn đối với toàn vùng ĐBSCL và
cả nước. Đây là cơ hội hiếm có để quảng bá hình ảnh Việt Nam hội nhập, đổi mới,
thân thiện và năng động ra thế giới, đồng thời tạo đòn bẩy phát triển mạnh mẽ
cho Phú Quốc nói riêng, tỉnh mới nói chung thúc đẩy đầu tư, du lịch, thương mại
và hạ tầng toàn vùng. Chính vì vậy, địa phương cần tập trung tối đa
cho công tác chuẩn bị Hội nghị APEC, đảm bảo tiến độ, chất lượng và an toàn tuyệt
đối trên mọi phương diện. Đặc biệt cần chú trọng đẩy nhanh tiến độ triển khai
các công trình hạ tầng trọng điểm phục vụ Hội nghị; việc đầu tư không chỉ hướng
tới sự kiện, mà còn nhằm kiến tạo nền tảng phát triển bền vững cho Phú Quốc về
lâu dài (lưu ý là không để tình trạng công trình đầu tư lớn rồi sau Hội nghị lại
bỏ trống, để hoang); chủ động xây dựng, huy động đội ngũ nhân lực chất lượng
cao phục vụ Hội nghị. Triển khai hiệu quả công tác quảng bá, xúc tiến, truyền
thông, qua đó tạo dấu ấn rõ nét về hình ảnh Phú Quốc - Việt Nam với bạn bè quốc
tế, đồng thời thu hút mạnh mẽ dòng đầu tư chiến lược, khách du lịch cao cấp,
các doanh nghiệp công nghệ, tài chính, dịch vụ quốc tế đến với khu vực. Cần xây dựng tổng thể chiến lược phát triển
Phú Quốc, xác định rõ các lĩnh vực ưu tiên đầu tư, các chính sách đặc thù, mô
hình quản lý đặc khu phù hợp với đặc thù kinh tế biển, du lịch, dịch vụ, đổi mới
sáng tạo, góp phần định hình Phú Quốc thành “trung tâm sinh thái, nghỉ dưỡng,
tài chính và sáng tạo quốc tế” trong giai đoạn phát triển mới. Phải làm sao để thành công của Hội nghị APEC 2027
tại Phú Quốc không chỉ là niềm tự hào của tỉnh, mà còn là động lực lan tỏa cho
sự phát triển toàn diện của tỉnh mới sau hợp nhất, đóng vai trò quan trọng
trong việc nâng tầm vai trò quốc tế của Việt Nam trong kỷ nguyên hội nhập sâu rộng
và cạnh tranh toàn cầu. Thưa các đồng chí! Tôi tin tưởng sâu sắc rằng, với truyền thống
đoàn kết keo sơn, ý chí tự lực tự cường, tinh thần đổi mới sáng tạo, khát vọng
vươn lên mạnh mẽ cùng với trí tuệ, bản lĩnh và sự đồng thuận cao của toàn Đảng
bộ, chính quyền và nhân dân hai tỉnh Kiên Giang và An Giang, chúng ta hoàn toàn
có đủ điều kiện, đủ niềm tin và đủ quyết tâm để thực hiện thắng lợi quá trình hợp
nhất, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó. Tỉnh An Giang mới với tầm vóc, quy mô và vị thế
mới (diện tích gần 9.890 km², dân số gần 5 triệu người, quy mô kinh tế GRDP sau
sáp nhập lên đến hơn 11 tỷ USD, thu ngân sách gần 26.500 tỷ đồng), chắc chắn sẽ
trở thành một cực tăng trưởng quan trọng, một hình mẫu về cải cách tổ chức và
phát triển bền vững ở vùng ĐBSCL, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng đất
nước phồn vinh, hùng cường, đưa dân tộc ta vững bước tiến vào kỷ nguyên phát
triển mới. Xin gửi đến các đồng chí lời chúc sức khỏe, hạnh
phúc và thành công. Xin trân trọng cảm ơn./.
| True | | Chính trị | | “Không để chậm trễ bất cứ công việc nào”! | Bài viết | Nguyễn Lam | “Không để chậm trễ bất cứ công việc nào”! | /SiteAssets/HNtw11qt.jpg | | 26/05/2025 7:00 CH | No | Đã ban hành | | (TUAG)- Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều cơ hội nhưng cũng đối mặt với không ít thách thức, việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội đòi hỏi sự quyết liệt, khẩn trương và hiệu quả hơn bao giờ hết. Kết luận số 155-KL/TW ngày 17/5/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã khẳng định rõ tinh thần chỉ đạo: Phải hết sức khẩn trương, chủ động, bám sát các kết luận, chỉ đạo của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đảm bảo tiến độ, chất lượng và không để chậm trễ bất cứ công việc nào. Đây không chỉ là yêu cầu mang tính hành chính, mà còn là mệnh lệnh từ trái tim của Đảng, thể hiện quyết tâm xây dựng một hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu quả, đáp ứng kỳ vọng của Nhân dân và yêu cầu phát triển đất nước.
Quang cảnh Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII Tinh thần “không để chậm trễ bất cứ công việc nào” là lời hiệu triệu mạnh mẽ, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chức năng và mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình. Kết luận 155-KL/TW nhấn mạnh việc sắp xếp tổ chức bộ máy và đơn vị hành chính của hệ thống chính trị theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 11 khóa XIII là nhiệm vụ trọng tâm từ nay đến ngày 30/6/2025. Đây là bước đi chiến lược nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời đảm bảo ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và tạo sự đồng thuận trong Nhân dân. Để hiện thực hóa mục tiêu này, sự chậm trễ trong bất kỳ khâu nào, từ xây dựng văn kiện, chuẩn bị nhân sự, đến ban hành các văn bản pháp lý, đều có thể gây ra những hệ lụy nghiêm trọng, làm gián đoạn tiến trình chung và ảnh hưởng đến niềm tin của Nhân dân. Sự khẩn trương, chủ động là yêu cầu xuyên suốt được Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhấn mạnh trong Kết luận 155-KL/TW. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng đề án tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể tại các địa phương sáp nhập, hợp nhất. Công việc này không chỉ đòi hỏi sự chính xác, khoa học mà còn phải gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo đạt các chỉ tiêu tăng trưởng đã đề ra. Ban Tổ chức Trung ương phối hợp với Ủy ban Kiểm tra Trung ương, được giao nhiệm vụ theo dõi, đánh giá định kỳ kết quả thực hiện của các cán bộ thuộc diện quản lý, báo cáo trực tiếp lên Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Điều này cho thấy sự quyết liệt trong việc giám sát, đôn đốc, đảm bảo không để bất kỳ nhiệm vụ nào bị trì hoãn hay thực hiện qua loa. Phân cấp, phân quyền triệt để là một nội dung quan trọng được Kết luận 155-KL/TW nhấn mạnh. Đảng ủy Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ, đặc biệt là người đứng đầu, phải chịu trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉ đạo của Bộ Chính trị và Tổng Bí thư trong việc thực hiện phân cấp, phân quyền triệt để cho địa phương. Các nghị định, văn bản liên quan đến phân cấp, phân quyền cần được hoàn chỉnh trước ngày 1/6/2025 và ban hành trước ngày 25/6/2025, với các quy định chuyển tiếp rõ ràng để tránh khoảng trống hoặc gián đoạn công việc. Sự chậm trễ trong việc tham mưu, ban hành các văn bản này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước mà còn cản trở tiến trình phân quyền, làm giảm tính chủ động của các địa phương trong giải quyết các vấn đề thực tiễn. Một khía cạnh quan trọng khác là chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức chịu ảnh hưởng từ việc sắp xếp bộ máy. Đảng ủy Bộ Tài chính và Bộ Nội vụ được giao nhiệm vụ khẩn trương phân bổ ngân sách, hướng dẫn chi trả chế độ cho những người nghỉ việc, đồng thời xây dựng chính sách hỗ trợ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Đây là vấn đề nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến đời sống của hàng nghìn cán bộ, đòi hỏi sự minh bạch, công bằng và kịp thời. Nếu chậm trễ trong việc giải quyết chế độ chính sách, không chỉ quyền lợi của cán bộ bị ảnh hưởng mà còn có nguy cơ làm giảm sút niềm tin vào chủ trương của Đảng và Nhà nước. Công tác số hóa và bảo mật tài liệu cũng là một nhiệm vụ không thể chậm trễ. Đảng ủy Bộ Nội vụ, phối hợp với các tỉnh ủy, thành ủy, phải đảm bảo việc số hóa tài liệu được thực hiện an toàn, đúng quy định, tránh để lộ thông tin bí mật nhà nước hoặc nội bộ. Trong bối cảnh không gian mạng ngày càng phức tạp, việc bảo vệ thông tin liên quan đến sắp xếp bộ máy là yếu tố sống còn, góp phần đảm bảo ổn định chính trị và an ninh quốc gia. Công tác tuyên truyền, lấy ý kiến Nhân dân và đấu tranh dư luận cũng được Kết luận 155-KL/TW đặc biệt chú trọng. Ban Tuyên giáo và Ban Dân vận Trung ương cần xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ biến thông tin chính thống, đồng thời chủ động đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thông tin xấu, độc hại trên không gian mạng. Việc công khai, minh bạch trong lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là nhiệm vụ cấp bách, cần thực hiện đúng tiến độ để tạo sự đồng thuận xã hội. Sự chậm trễ trong công tác này có thể tạo cơ hội cho các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc, gây mất ổn định. Để thực hiện tinh thần “không để chậm trễ bất cứ công việc nào”, mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu trong chấp hành kỷ luật lao động, tuân thủ nghiêm các quy định về bảo vệ bí mật nhà nước, kỷ luật phát ngôn và quản lý thông tin trên mạng xã hội. Bộ Chính trị, Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện nghiêm túc, kiên quyết xử lý những sai phạm trong công tác tổ chức, cán bộ. Việc sáp nhập, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải đáp ứng các tiêu chí như phù hợp quy hoạch, đảm bảo lợi ích quốc gia, hiệu lực quản lý nhà nước, phát huy tiềm năng kinh tế - xã hội, giữ gìn quốc phòng, an ninh, đoàn kết dân tộc và phù hợp với truyền thống lịch sử, văn hóa địa phương. Mỗi quyết định, mỗi hành động đều phải hướng tới việc tạo thuận tiện cho Nhân dân, lấy Nhân dân làm trung tâm. Tinh thần khẩn trương, chủ động, không để chậm trễ bất cứ công việc nào không chỉ là yêu cầu hành chính mà còn là kim chỉ nam cho hành động của toàn hệ thống chính trị. Kết luận 155-KL/TW đã đặt ra lộ trình cụ thể, với các mốc thời gian rõ ràng, đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng giữa các ban, bộ, ngành, địa phương. Trong bối cảnh thời gian không còn nhiều, mỗi ngày chậm trễ là một ngày lãng phí cơ hội để đất nước tiến lên. Mỗi cán bộ, đảng viên, từ Trung ương đến địa phương, cần nhận thức rằng trách nhiệm của mình không chỉ là hoàn thành nhiệm vụ mà còn là góp phần xây dựng một hệ thống chính trị vững mạnh, đáp ứng kỳ vọng của Nhân dân. Tinh thần từ Kết luận 155-KL/TW chính là ngọn cờ, là mệnh lệnh từ trái tim của Đảng, kêu gọi toàn hệ thống chính trị và Nhân dân cùng chung sức, đồng lòng để hiện thực hóa mục tiêu tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả quản lý, thúc đẩy phát triển bền vững. Với tinh thần khẩn trương, chủ động, không để chậm trễ bất cứ công việc nào, chúng ta tin tưởng rằng các nhiệm vụ đề ra sẽ được hoàn thành đúng tiến độ, góp phần đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, thịnh vượng và bền vững hơn. Nguyễn Lam | False | | Đưa Nghị quyết vào cuộc sống | | Thông cáo đặc biệt về Lễ Quốc tang nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương | Tin | Admin | Thông cáo đặc biệt về Lễ Quốc tang nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương | /SiteAssets/TCDB-TrabDucLuon-1.jpg | | 23/05/2025 10:00 SA | No | Đã ban hành | | Để tỏ lòng tiếc thương và tưởng nhớ đồng chí Trần Đức Lương, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quyết định tổ chức Lễ tang Đồng chí với nghi thức Lễ Quốc tang. 
THÔNG CÁO ĐẶC BIỆT Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và gia đình vô cùng thương tiếc báo tin: Đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, sinh ngày 05 tháng 5 năm 1937; quê quán: xã Phổ Khánh, huyện Đức Phổ (nay là thị xã Đức Phổ), tỉnh Quảng Ngãi; thường trú tại số nhà 298, phố Vạn Phúc, phường Liễu Giai, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Đồng chí tham gia cách mạng từ tháng 02 năm 1955; vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 19 tháng 12 năm 1959; Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khoá V, VI, VII, VIII, IX; Uỷ viên Bộ Chính trị khoá VIII, IX; Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị khoá VIII; Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng từ tháng 02 năm 1987 đến tháng 9 năm 1992; Phó Thủ tướng Chính phủ từ tháng 10 năm 1992 đến tháng 8 năm 1997; Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, khoá X, khoá XI; đại biểu Quốc hội các khoá VII, VIII, X, XI. Sau một thời gian lâm bệnh nặng, mặc dù đã được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, y bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao, bệnh nặng, Đồng chí đã từ trần hồi 22 giờ 51 phút, ngày 20 tháng 5 năm 2025 (tức ngày 23 tháng 4 năm Ất Tỵ), tại Nhà riêng, hưởng thọ 88 tuổi. Trong hơn 50 năm hoạt động cách mạng, Đồng chí đã có nhiều đóng góp to lớn đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc. Đồng chí được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng và nhiều huân chương, huy chương, phần thưởng, danh hiệu cao quý khác. Đồng chí mất đi là một tổn thất to lớn đối với Đảng, Nhà nước, Nhân dân ta và gia quyến Đồng chí. Để tỏ lòng tiếc thương và tưởng nhớ đồng chí Trần Đức Lương, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quyết định tổ chức Lễ tang Đồng chí với nghi thức Lễ Quốc tang. BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM UỶ BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TÓM TẮT TIỂU SỬ ĐỒNG CHÍ TRẦN ĐỨC LƯƠNG nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Đồng chí Trần Đức Lương, sinh ngày 05 tháng 5 năm 1937; quê quán: xã Phổ Khánh, huyện Đức Phổ (nay là thị xã Đức Phổ), tỉnh Quảng Ngãi. Thường trú tại số nhà 298, phố Vạn Phúc, phường Liễu Giai, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Tham gia cách mạng tháng 02 năm 1955; vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 19 tháng 12 năm 1959.
QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC Tháng 02/1955 đến tháng 9/1955: Đồng chí tập kết ra miền Bắc, học sơ cấp kỹ thuật địa chất Bộ Công Thương. Tháng 10/1955 đến tháng 8/1959: Đồng chí làm nhân viên kỹ thuật trong các Đoàn, Đội tìm kiếm thăm dò địa chất; học bổ túc Trung cấp địa chất 8 tháng. Tháng 9/1959 đến tháng 3/1964: Đồng chí làm Đội trưởng Đội địa chất 4, Đoàn địa chất 20, Bí thư Chi đoàn Đội địa chất 4, Uỷ viên Chấp hành Đoàn Thanh niên Lao động, Cục địa chất, Chi uỷ viên. Tháng 4/1964 đến tháng 8/1966: Đồng chí làm Đoàn phó kỹ thuật Đoàn địa chất 20; Bí thư Chi bộ, Liên Chi uỷ viên. Tháng 9/1966 đến tháng 01/1970: Đồng chí là sinh viên, làm Lớp trưởng lớp chuyên tu thăm dò (K11) Đại học Mỏ địa chất; Đảng uỷ viên nhà trường, Bí thư Đoàn Trường (năm 1969). Tháng 02/1970 đến tháng 8/1975: Đồng chí làm Phó Cục trưởng Cục Bản đồ địa chất; Đảng uỷ viên, Uỷ viên Thường vụ Đảng uỷ Cục Bản đồ địa chất. Tháng 9/1975 đến tháng 9/1977: Đồng chí học Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương; làm Bí thư Chi bộ lớp. Tháng 8/1977 đến tháng 7/1979: Đồng chí làm Phó Liên đoàn trưởng, quyền Liên đoàn trưởng Liên đoàn Bản đồ địa chất, Tổng cục Địa chất; Bí thư Đảng uỷ Liên đoàn, Uỷ viên Ban Chấp hành Công đoàn Tổng cục Địa chất; Uỷ viên Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam. Tháng 8/1979 đến tháng 01/1987: Đồng chí làm Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chất, Bí thư Ban cán sự đảng Tổng cục; học lớp quản lý kinh tế 4 tháng tại Viện Hàn lâm Kinh tế quốc dân Liên Xô (năm 1981). Đại biểu Quốc hội khoá VII, Phó Chủ nhiệm, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật của Quốc hội; Phó Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Hội Hữu nghị Việt - Xô. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3/1982), Đồng chí được bầu làm Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), Đồng chí được bầu làm Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 02/1987 đến tháng 8/1992: Đồng chí làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; đại biểu Quốc hội khoá VIII; đại diện Thường trực nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Hội đồng tương trợ Kinh tế (SEV). Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991), Đồng chí tiếp tục được bầu làm Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 9/1992 đến tháng 8/1997: Đồng chí làm Phó Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào Bộ Chính trị (tháng 6/1996). Tháng 8/1997 đến tháng 11/2007: Đồng chí làm Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh (tháng 9/1997); Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị (tháng 01/1998). Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào Bộ Chính trị (tháng 4/2001). Đồng chí là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khoá V, VI, VII, VIII, IX; Uỷ viên Bộ Chính trị khoá VIII, IX; Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị khoá VIII; Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng từ tháng 02 năm 1987 đến tháng 9 năm 1992; Phó Thủ tướng Chính phủ từ tháng 10 năm 1992 đến tháng 8 năm 1997; Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh khoá X, khoá XI; đại biểu Quốc hội các khoá VII, VIII, X, XI. Đồng chí được Đảng, Nhà nước cho nghỉ hưu theo chế độ từ ngày 01/01/2008. Do có công lao to lớn đặc biệt xuất sắc, đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc, Đồng chí đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng và nhiều huân chương, huy chương, phần thưởng, danh hiệu cao quý khác của Việt Nam và quốc tế. ------------ DANH SÁCH BAN LỄ TANG đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1. Đồng chí Lương Cường, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trưởng Ban Lễ tang.
2. Đồng chí Phạm Minh Chính, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 3. Đồng chí Trần Thanh Mẫn, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 4. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng. 5. Đồng chí Đỗ Văn Chiến, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 6. Đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương. 7. Đồng chí Phan Đình Trạc, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương. 8. Đồng chí Nguyễn Duy Ngọc, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương. 9. Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương. 10. Đồng chí Nguyễn Hoà Bình, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 11. Đồng chí Đại tướng Phan Văn Giang, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. 12. Đồng chí Đại tướng Lương Tam Quang, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an. 13. Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương. 14. Đồng chí Bùi Thị Minh Hoài, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành uỷ Hà Nội. 15. Đồng chí Nguyễn Văn Nên, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh. 16. Đồng chí Trần Lưu Quang, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương. 17. Đồng chí Lê Hoài Trung, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng. 18. Đồng chí Lê Minh Trí, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Toà án nhân dân tối cao. 19. Đồng chí Thượng tướng Trịnh Văn Quyết, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. 20. Đồng chí Võ Thị Ánh Xuân, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 21. Đồng chí Nguyễn Khắc Định, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 22. Đồng chí Bùi Thanh Sơn, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. 23. Đồng chí Trần Văn Sơn, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ. 24. Đồng chí Lê Khánh Hải, Uỷ viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước. 25. Đồng chí Lê Quang Tùng, Uỷ viên Trung ương Đảng, Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. 26. Đồng chí Phạm Thị Thanh Trà, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ. 27. Đồng chí Trần Hồng Minh, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Xây dựng. 28. Đồng chí Nguyễn Văn Hùng, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. 29. Đồng chí Nguyễn Đình Khang, Uỷ viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. 30. Đồng chí Lương Quốc Đoàn, Uỷ viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam. 31. Đồng chí Nguyễn Thị Tuyến, Uỷ viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. 32. Đồng chí Bùi Thị Quỳnh Vân, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Ngãi. 33. Đồng chí Thượng tướng Bế Xuân Trường, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam. 34. Đồng chí Bùi Quang Huy, Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. ---------- DANH SÁCH BAN TỔ CHỨC LỄ TANG đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1. Đồng chí Nguyễn Hoà Bình, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trưởng ban.
2. Đồng chí Lê Hoài Trung, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng. 3. Đồng chí Võ Thị Ánh Xuân, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 4. Đồng chí Lại Xuân Môn, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương. 5. Đồng chí Thái Thanh Quý, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chính sách, chiến lược Trung ương. 6. Đồng chí Đỗ Trọng Hưng, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương. 7. Đồng chí Phạm Gia Túc, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng. 8. Đồng chí Trần Văn Sơn, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ. 9. Đồng chí Lê Khánh Hải, Uỷ viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước. 10. Đồng chí Lê Quang Tùng, Uỷ viên Trung ương Đảng, Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. 11. Đồng chí Trần Hồng Minh, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Xây dựng. 12. Đồng chí Nguyễn Văn Hùng, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. 13. Đồng chí Đào Hồng Lan, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Y tế. 14. Đồng chí Bùi Thị Quỳnh Vân, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Ngãi. 15. Đồng chí Trần Sỹ Thanh, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. 16. Đồng chí Nguyễn Văn Được, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 17. Đồng chí Thượng tướng Trần Quốc Tỏ, Uỷ viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an. 18. Đồng chí Trung tướng Nguyễn Hồng Thái, Uỷ viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. 19. Đồng chí Nguyễn Minh Vũ, Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao. 20. Đồng chí Thiếu tướng Lê Ngọc Hải, Tư lệnh Quân khu 5, Bộ Quốc phòng. 21. Đồng chí Trung tướng Nguyễn Quốc Duyệt, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội. 22. Đồng chí Thiếu tướng Phạm Thanh Hùng, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh vệ, Bộ Công an. 23. Đồng chí Nguyễn Văn Thẩm, Cục trưởng Cục Quản trị, Văn phòng Trung ương Đảng. 24. Đồng chí Đỗ Tâm Hiển, Bí Thư Thị uỷ Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. 25. Ông Trần Tuấn Anh, đại diện gia đình. ---------- THÔNG BÁO LỄ VIẾNG, LỄ TRUY ĐIỆU VÀ LỄ AN TÁNG ĐỒNG CHÍ TRẦN ĐỨC LƯƠNG, NGUYÊN ỦY VIÊN BỘ CHÍNH TRỊ, NGUYÊN CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Lễ tang đồng chí Trần Đức Lương được tổ chức theo nghi thức Lễ Quốc tang.
Linh cữu đồng chí Trần Đức Lương được quàn tại Nhà tang lễ Quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông, thành phố Hà Nội. Lễ viếng đồng chí Trần Đức Lương được tổ chức tại Nhà tang lễ Quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông, thành phố Hà Nội, bắt đầu từ 7 giờ 00 phút ngày 24 tháng 5 năm 2025 đến 7 giờ 00 phút ngày 25 tháng 5 năm 2025. Lễ truy điệu đồng chí Trần Đức Lương được tổ chức trọng thể lúc 7 giờ 00 phút ngày 25 tháng 5 năm 2025 tại Nhà tang lễ Quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông, thành phố Hà Nội. Lễ an táng lúc 15 giờ 00 cùng ngày tại Nghĩa trang quê nhà, xã Phổ Khánh, thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Cùng thời gian này, tại Hội trường Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh và tại Hội trường T50, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Ngãi, số 142 Lê Trung Đình, thành phố Quảng Ngãi cũng diễn ra Lễ viếng, Lễ truy điệu đồng chí Trần Đức Lương. Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam sẽ tường thuật trực tiếp Lễ viếng, Lễ truy điệu và Lễ an táng đồng chí Trần Đức Lương tại thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Quảng Ngãi. Trong hai ngày diễn ra Lễ Quốc tang đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (ngày 24 và ngày 25 tháng 5 năm 2025), các cơ quan, công sở, nơi công cộng treo cờ rủ, không tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí. BAN LỄ TANG | False | | Chính trị | | Đột phá thể chế, pháp luật: Bệ phóng đưa Việt Nam vươn xa | Bài viết | Nguyễn Lam | Đột phá thể chế, pháp luật: Bệ phóng đưa Việt Nam vươn xa | /SiteAssets/Dotpha-theche-2.jpg | | 21/05/2025 8:00 SA | No | Đã ban hành | |
(TUAG)- Ngày 30/4/2025, Bộ
Chính trị ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi
hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Đây là
văn kiện chiến lược, mang khát vọng lớn lao, định hướng hoàn thiện thể chế,
pháp luật để tạo động lực đưa Việt Nam vươn mình trở thành quốc gia phát triển,
thu nhập cao vào năm 2045 theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với những quan điểm
đột phá và giải pháp toàn diện, Nghị quyết không chỉ là kim chỉ nam mà còn là lời
hiệu triệu cho một “cuộc cải cách thể chế sâu sắc”, nhằm xây dựng một hệ
thống pháp luật hiện đại, thực chất, vì Nhân dân phục vụ, tạo bệ phóng cho sự
thịnh vượng bền vững.  Quang cảnh Hội nghị
toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW và Nghị quyết
số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị Giữa dòng chảy không ngừng của
thời đại, khi cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số và hội nhập quốc
tế đang định hình lại thế giới, Việt Nam đứng trước thời khắc lịch sử để khẳng
định vị thế. Tuy nhiên, những hạn chế trong công tác xây dựng và thi hành pháp
luật, từ văn bản chồng chéo, thiếu đồng bộ đến thực thi chậm trễ, đã và đang
kìm hãm tiềm năng phát triển. Nghị quyết 66-NQ/TW ra đời như một lời giải cho
bài toán thể chế, không chỉ nhằm hóa giải những “nút thắt” mà còn mở ra không
gian mới để đất nước bứt phá. Phát biểu tại hội nghị quán triệt Nghị quyết, Tổng
Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Xây dựng pháp luật phải đi trước một bước, thi
hành pháp luật phải nghiêm minh, công bằng, thực chất; phân cấp, phân quyền rõ
ràng, gắn với trách nhiệm giải trình”. Lời khẳng định ấy thể hiện quyết tâm
chính trị mạnh mẽ, đồng thời đặt ra trách nhiệm lớn lao cho toàn Đảng, toàn dân
trong việc đưa Nghị quyết vào cuộc sống. Tinh thần cốt lõi của Nghị
quyết là xác định công tác xây dựng và thi hành pháp luật là “đột phá của đột
phá” trong hoàn thiện thể chế, là nền tảng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Dưới sự lãnh đạo toàn diện của
Đảng, pháp luật phải thể chế hóa đúng đắn các chủ trương, đường lối, đồng thời
được giám sát chặt chẽ để ngăn chặn lợi ích nhóm và tiêu cực. Tổng Bí thư Tô
Lâm chỉ rõ: Luật pháp không phục vụ cho lợi ích của nhóm nào cả mà cho toàn
dân, cho mọi đối tượng; các quy định phải phân cấp, phân quyền rõ ràng, gắn với
trách nhiệm, xóa bỏ cơ chế “xin - cho”; triệt tiêu lợi ích cục bộ, đặc quyền, lợi
ích nhóm. Cùng với đó, Nghị quyết đề cao tinh thần dân chủ, khuyến khích sự
tham gia của Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội, để pháp luật thực
sự là tiếng nói của ý chí và nguyện vọng toàn dân. Pháp luật, theo tinh thần Nghị
quyết, không chỉ phản ánh thực tiễn Việt Nam mà còn cần tiếp thu tinh hoa quốc
tế, đảm bảo tính đồng bộ, khả thi và hiện đại. Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn
khẳng định: “Pháp luật phải trở thành lợi thế cạnh tranh, động lực mạnh mẽ
cho phát triển, thúc đẩy tăng trưởng hai con số, nâng cao đời sống nhân dân, bảo
đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại”. Để hiện thực hóa điều đó, Nhà nước cần
ưu tiên nguồn lực cho chuyển đổi số, hiện đại hóa hạ tầng pháp luật và xây dựng
đội ngũ cán bộ chất lượng cao. Hơn nữa, việc mở rộng hợp tác quốc tế, xây dựng
mạng lưới chuyên gia pháp lý, bao gồm cả người Việt Nam ở nước ngoài, sẽ giúp
Việt Nam tiếp cận các chuẩn mực tiên tiến, đặc biệt trong những lĩnh vực mới
như trí tuệ nhân tạo, kinh tế số và năng lượng xanh.  Nghị quyết vạch ra lộ trình
rõ ràng với tầm nhìn đến năm 2045. Trước mắt, năm 2025, các “điểm nghẽn” pháp
lý sẽ được tháo gỡ, tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo và phát triển
bền vững. Đến năm 2027, cơ sở pháp lý cho mô hình chính quyền ba cấp sẽ được
hoàn thiện, đảm bảo sự đồng bộ trong tổ chức bộ máy. Đến năm 2030, Việt Nam hướng
tới một hệ thống pháp luật dân chủ, minh bạch, góp phần đưa đất nước trở thành
quốc gia phát triển có thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, hệ thống pháp luật
sẽ đạt trình độ hiện đại, nghiêm minh, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
với thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử trong xã hội. Để biến tầm nhìn thành hiện
thực, Nghị quyết đề ra bảy giải pháp trọng tâm, từ đổi mới tư duy đến ứng dụng
công nghệ. Thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật,
do Tổng Bí thư làm Trưởng ban, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan,
đơn vị. Pháp luật cần được xây dựng theo hướng khuyến khích sáng tạo, khơi
thông nguồn lực, từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”. Việc thi hành pháp luật
cần đảm bảo công bằng, nghiêm minh, gắn kết chặt chẽ với quá trình xây dựng. Đồng
thời, Nghị quyết chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, ứng dụng
công nghệ số để xây dựng cơ sở dữ liệu lớn và các nền tảng hỗ trợ người dân,
doanh nghiệp. Một quỹ hỗ trợ xây dựng chính sách, pháp luật cũng sẽ được thành
lập, kết hợp ngân sách nhà nước và xã hội hóa, đảm bảo nguồn lực cho các hoạt động
đổi mới. Sự tham gia của Nhân dân và
vai trò của truyền thông là những điểm nhấn quan trọng của Nghị quyết. Cục trưởng
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý Lê Vệ Quốc khẳng định: “Truyền
thông là cầu nối đưa tinh thần Nghị quyết đến gần người dân, khơi dậy sự đồng
hành của toàn xã hội”. Sự tham gia của Nhân dân, doanh nghiệp và các tổ chức
xã hội không chỉ giúp pháp luật phản ánh đúng thực tiễn mà còn xây dựng văn hóa
thượng tôn pháp luật; trong khi đó truyền thông sẽ là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước
và Nhân dân, là khâu đầu tiên của quá trình thực thi pháp luật, góp phần xây dựng
và hình thành nên văn hóa pháp lý của mỗi công dân. Nghị quyết 66-NQ/TW là lời hiệu
triệu mạnh mẽ, kêu gọi sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn dân. Với
tầm nhìn chiến lược và những giải pháp đột phá, Nghị quyết được kỳ vọng sẽ tạo
bước ngoặt lịch sử, đưa thể chế, pháp luật trở thành bệ phóng cho sự phát triển
bền vững. Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn bày tỏ niềm tin: “Dưới sự lãnh đạo
của Tổng Bí thư Tô Lâm, với quyết tâm chính trị cao nhất, chúng ta sẽ thực hiện
thành công cuộc cải cách thể chế, pháp luật, đưa đất nước vươn tới tương lai
hùng cường, thịnh vượng”. Từ đây, Việt Nam không chỉ đáp ứng yêu cầu phát
triển trong nước mà còn khẳng định vị thế trên trường quốc tế, hướng tới một xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nguyễn Lam | False | | Đưa Nghị quyết vào cuộc sống | | BÁC VẪN CÙNG CHÚNG CHÁU HÀNH QUÂN | Bài viết | Admin | BÁC VẪN CÙNG CHÚNG CHÁU HÀNH QUÂN | /SiteAssets/Bac-cung-chau-hanh-quan-1.jpg | | 19/05/2025 9:00 SA | Yes | Đã ban hành | | (TUAG)- Cổng Thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh An Giang trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm với
tiêu đề: "BÁC VẪN CÙNG CHÚNG CHÁU HÀNH QUÂN". 
Rước chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chương trình diễu binh, diễu
hành kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
(30/4/1975 - 30/4/2025)
Hơn nửa thế kỷ nay, mỗi dịp tháng Năm về, người dân Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước lại thành kính tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc- Người đã hiến dâng trọn đời cho độc lập, tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Năm nay, kỷ niệm 135 năm ngày sinh của Người càng thêm ý nghĩa sâu sắc, nhắc nhở chúng ta về công lao trời biển của Bác đối với dân tộc. Đúng như lời khẳng định đầy xúc động của cố Tổng bí thư Lê Duẩn thay mặt toàn đảng, toàn dân ta nói về Bác: "Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ Tịch, Người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta"[1]. Câu nói ấy đã trở thành chân lý thiêng liêng, làm rung động trái tim người Việt Nam khi nhắc đến tên Người - Bác Hồ muôn vàn kính yêu. Hình ảnh Bác lắng đọng trong tâm trí mỗi người, luôn hiện diện, tiếp thêm sức mạnh cho dân tộc ta trên những chặng đường phát triển. Đã 56 năm kể từ ngày Người đi xa, Bác vẫn như đang đồng hành cùng chúng ta trên mỗi hành trình của đất nước hôm nay và mai sau. Di sản vĩ đại của một người giản dị Sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản vô giá. Từ chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng năm 1911 ra đi tìm đường cứu nước, Người đã bôn ba khắp năm châu, tiếp thu chủ nghĩa Marx-Lenin và tìm ra con đường cách mạng vô sản để giải phóng dân tộc. Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam mùa Xuân năm 1930 - một mốc son chói lọi, chấm dứt khủng hoảng về đường lối cứu nước lúc bấy giờ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng do Người sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta đã làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám 1945, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên độc lập cho dân tộc. Tiếp đó, Người đã dẫn dắt toàn dân tộc tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu (1954) và Đại thắng Mùa Xuân chấn động địa cầu (1975), thu non sông về một mối, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất, hòa bình và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không chỉ là lãnh tụ vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặt nền móng vững chắc cho tương lai của đất nước bằng tư tưởng và tấm gương đạo đức cao cả của mình. Tư tưởng của Người là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về cách mạng Việt Nam, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc và tinh hoa tư tưởng nhân loại. Cốt lõi của tư tưởng ấy là khát vọng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu cuối cùng là đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Ngay trong những năm tháng gian khổ nhất, Người vẫn khẳng định một chân lý bất di bất dịch: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Câu nói ấy đã trở thành phương châm hành động cho toàn Đảng, toàn dân ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, và đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị. Tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện trên mọi lĩnh vực: từ quan điểm coi nhân dân là gốc của mọi công việc đến chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc; từ tư tưởng xây dựng Nhà nước "của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" đến đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác với các nước. Người luôn nhấn mạnh vai trò của dân: "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong", đề cao sức mạnh đoàn kết của muôn người Việt Nam yêu nước. Người luôn chăm lo xây dựng một Đảng cầm quyền thật trong sạch, vững mạnh; đề cao đạo đức cách mạng với các phẩm chất "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" làm nền tảng. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức và tư tưởng thống nhất hài hòa trong một phong cách sống giản dị, khiêm tốn mà vô cùng cao thượng. Cả cuộc đời, Người sống thanh bạch, khiêm nhường. Chính bởi đạo đức trong sáng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một tấm gương sống động và cụ thể cho các thế hệ học tập và làm theo. Những phẩm chất "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" mà Người dạy không chỉ là lý tưởng để mỗi cán bộ, đảng viên noi theo mà còn trở thành chuẩn mực cho mọi người hướng tới. Bác khẳng định: "Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa". Người không chỉ nói mà luôn thực hành, đi trước làm gương, nói ít làm nhiều. Phong cách ấy đã tạo nên một sức mạnh đoàn kết rộng lớn, một lòng tin tuyệt đối của nhân dân vào sự lãnh đạo của Bác. Sự giản dị, chân thành, cách ứng xử ân cần, gần gũi đã khiến Bác trở thành một lãnh tụ đặc biệt, luôn sống mãi trong trái tim mỗi người dân Việt Nam và "nghĩ về Bác lòng ta trong sáng hơn". Không chỉ dân tộc Việt Nam, nhân dân yêu chuộng hòa bình và tiến bộ trên thế giới cũng trân trọng và ghi nhớ Hồ Chí Minh như một biểu tượng của hòa bình, tự do và giải phóng dân tộc. UNESCO vinh danh Người là "Anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất" năm 1987. Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần thúc đẩy các phong trào đấu tranh chống thực dân, đế quốc trên toàn cầu, đồng thời truyền cảm hứng cho công cuộc xây dựng một thế giới công bằng và nhân văn hơn. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng đoàn đại biểu Anh hùng LLVT nhân dân giải phóng miền Nam trong vườn xoài ở Phủ Chủ tịch (tháng 11/1965). Ảnh: tư liệu Theo chân Bác Hơn nửa thế kỷ từ khi Bác đi xa, tư tưởng và tấm gương của Người tiếp tục soi đường, dẫn dắt dân tộc ta gặt hái nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thực tiễn gần 40 năm Đổi mới đã chứng minh rõ: mỗi chủ trương đúng đắn của Đảng, mỗi chính sách hợp lòng dân đều phản ánh sự kế thừa và phát huy sáng tạo tư tưởng của Bác. Ngày nay, trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, xã hội, giáo dục, y tế cho đến quốc phòng, an ninh và đối ngoại, chúng ta đều thấy rõ dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng định hướng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Về kinh tế, đất nước ta đã đạt được những bước phát triển vượt bậc nhờ kiên định con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu trước Đổi mới, Việt Nam vươn mình trở thành quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình, nền kinh tế tăng trưởng nhanh và hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân từ năm 1986 đến 2023 đạt khoảng 6,5-7%/năm, đưa Việt Nam lọt vào nhóm 35 nền kinh tế hàng đầu thế giới và nằm trong top 20 quốc gia có quy mô thương mại lớn nhất. Nước ta đã không những bảo đảm vững chắc an ninh lương thực cho hơn 100 triệu dân, mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản hàng đầu thế giới. Có thể thấy, nhờ vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự cường kết hợp với mở cửa hội nhập, chúng ta đã xây dựng được tiềm lực kinh tế mạnh hơn bao giờ hết. Thành tựu của công cuộc Đổi mới đã một lần nữa khẳng định đường lối phát triển của Đảng dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo. Trong lĩnh vực xã hội, tư tưởng "lấy dân làm gốc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện rõ trong các chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân". Bác từng nói "Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi"[2]. Thấm nhuần những lời dạy ấy, Đảng và Nhà nước ta luôn coi việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân là nhiệm vụ hàng đầu, xuyên suốt trong mọi chiến lược, kế hoạch phát triển đất nước. Những năm gần đây, các chương trình mục tiêu quốc gia như xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được triển khai rộng khắp và đã đạt được những kết quả quan trọng; hệ thống an sinh xã hội ngày càng hoàn thiện, các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa đều có những bước tiến bộ đáng kể. Đặc biệt, chủ trương xóa nhà tạm, nhà dột nát đang được triển khai mạnh mẽ trên cả nước, hướng tới mục tiêu không để người dân nào phải sống trong điều kiện khó khăn, không có nhà ở vào năm 2025. Đời sống văn hóa tinh thần cũng được quan tâm đầu tư với nhiều hoạt động, phong trào thiết thực, làm phong phú thêm đời sống tinh thần và nâng cao chất lượng sống của người dân. 
Bến cảng Nhà Rồng - nơi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước Về giáo dục và đào tạo, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của "trồng người" đối với tương lai dân tộc. Người căn dặn: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người", coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Kế thừa tư tưởng đó, nước ta đã dồn sức phát triển sự nghiệp giáo dục và đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Đến nay, Việt Nam đã phổ cập giáo dục ở các bậc học nền tảng trên phạm vi toàn quốc, đưa tỷ lệ biết chữ của người lớn lên mức gần 100%. Nhiều chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được triển khai, bám sát những định hướng mà Bác đã nêu ra từ khi lập nước. Nhờ đó, thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay không chỉ có tri thức vững vàng mà còn được giáo dục về lý tưởng, đạo đức, lối sống, tiếp tục sự nghiệp cách mạng mà thế hệ cha anh truyền lại. Về chăm sóc sức khỏe nhân dân, tư tưởng "yêu dân, phục vụ dân" của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấm sâu vào ngành y tế nước nhà. Sinh thời, Người từng nói: "Mỗi người dân mạnh khỏe, tức là cả nước mạnh khỏe", đặt ra nhiệm vụ xây dựng một dân tộc khỏe mạnh về thể chất lẫn tinh thần. Ngày nay, chúng ta có một hệ thống y tế không ngừng lớn mạnh, từ tuyến cơ sở đến tuyến trung ương. Mạng lưới bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh được mở rộng khắp các vùng miền, nhiều kỹ thuật y khoa tiên tiến ngang tầm thế giới đã được làm chủ. Tinh thần "lương y như từ mẫu" được khơi dậy, đội ngũ thầy thuốc ngày đêm tận tụy theo gương Bác Hồ chăm lo cho người bệnh. Chúng ta đang hướng tới xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh, mọi người dân đều được sống lâu, sống khỏe, sống lành mạnh, sống hạnh phúc. Những kết quả và chủ trương ấy đều mang dấu ấn sâu sắc của tư tưởng nhân đạo và triết lý phát triển con người toàn diện của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Về quốc phòng, an ninh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hình đường lối chiến lược "dựng nước đi đôi với giữ nước" cho cách mạng Việt Nam. Người sáng lập Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân, đặt nền tảng cho một nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc. Bác dạy: các lực lượng vũ trang Cách mạng là con đẻ của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà tuyên truyền, công tác, chiến đấu, hy sinh. Tuân thủ với những lời Bác dạy, chiến đấu, hy sinh bảo vệ chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", chúng ta đã và đang xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đủ sức bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân được củng cố ngày càng vững mạnh, tạo thành sức mạnh vô song bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa. Nhờ vậy, Việt Nam nhiều năm qua đã duy trì được ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo tiền đề thuận lợi cho phát triển kinh tế, đồng thời sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tiếp tục là kim chỉ nam để chúng ta hiện đại hóa lực lượng vũ trang, nâng cao tiềm lực quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Về đối ngoại, đường lối ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh đã và đang được Đảng và Nhà nước vận dụng sáng tạo, giúp Việt Nam vươn lên một tầm vóc mới trên trường quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm đề ra nguyên tắc ngoại giao độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ – mà cốt lõi là giữ vững lợi ích dân tộc và hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc. Từ năm 1947, Người đã khẳng định Việt Nam chủ trương "làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai", thể hiện tầm nhìn xa về một nền ngoại giao hòa bình, hợp tác. Ngày nay, tư tưởng đó đã trở thành phương châm hành động: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Những thành tựu đối ngoại mà chúng ta đạt được đến nay đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển, đồng thời nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ở mức cao nhất từ trước đến nay. Có thể khẳng định, các thành quả đối ngoại rực rỡ ấy bắt nguồn từ việc quán triệt tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh – kết hợp nhuần nhuyễn giữa kiên định về nguyên tắc và linh hoạt về sách lược, đặt lợi ích quốc gia-dân tộc lên trên hết, đồng thời đóng góp tích cực cho hòa bình, tiến bộ của khu vực và thế giới và nền văn minh nhân loại.  Đảng và Nhà nước ta đang kiên định mục tiêu phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn
Nguồn cảm hứng bất tận Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu rằng sự nghiệp cách mạng là một quá trình lâu dài, đòi hỏi các thế hệ nối tiếp nhau chung sức, chung lòng. Tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người vì thế không chỉ soi sáng chặng đường đã qua, mà còn tỏa sáng như một nguồn cảm hứng bất tận cho hiện tại và tương lai. Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh mãi là nền tảng tư tưởng, là ngọn cờ dẫn dắt dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030, tầm nhìn 2045 đều lấy mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" làm trọng tâm - đó chính là mong ước của Bác Hồ lúc sinh thời về một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, phồn vinh. Những định hướng lớn như phát triển bền vững, tăng trưởng đi đôi với tiến bộ xã hội, xây dựng nền kinh tế tự chủ, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân… đều bắt nguồn từ tư tưởng xuyên suốt của Người. Học tập Bác, toàn Đảng, toàn dân ta càng nêu cao ý chí tự lực tự cường, khát vọng vươn lên, đổi mới sáng tạo để đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính tinh thần dám nghĩ, dám làm, hết lòng vì nước vì dân của Bác đã và đang truyền lửa cho thế hệ hôm nay quyết tâm thực hiện những mục tiêu, khát vọng lớn, đưa Việt Nam trở thành nước phát triển hùng cường trong tương lai. Tấm gương đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho mỗi người Việt Nam trong rèn luyện, tu dưỡng bản thân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, về đạo đức cách mạng đặc biệt có ý nghĩa trong công cuộc chỉnh đốn Đảng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, lãng phí hiện nay. Sinh thời, Bác luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải "giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Noi gương Người, toàn Đảng đang ra sức tăng cường kỷ luật, kỷ cương, kiên quyết chống mọi biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực những năm qua đạt nhiều kết quả nổi bật, có sự cổ vũ rất lớn từ tấm gương liêm khiết, chính trực của Bác Hồ. Mỗi cán bộ, đảng viên hôm nay đều tự soi lại mình theo những chuẩn mực đạo đức mà Bác nêu cao, từ việc nhỏ đến việc lớn, nêu cao tinh thần "cần, kiệm, liêm, chính" và ý thức phục vụ nhân dân. Đặc biệt, đối với thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường và hoài bão cống hiến. Những câu chuyện giản dị mà cảm động về đức hy sinh, về lối sống khiêm tốn, giản dị của Bác luôn truyền cảm hứng mạnh mẽ cho thanh niên Việt Nam học tập và phấn đấu. Từ em nhỏ học sinh thuộc từng câu thơ, từng bài hát về Bác, đến những thanh niên, trí thức đang miệt mài sáng tạo trong các lĩnh vực, tất cả đều tìm thấy ở Bác nguồn động lực tinh thần to lớn. Chính nguồn cảm hứng ấy đã thôi thúc biết bao người trẻ xung phong đảm nhận việc khó, tình nguyện đến những nơi gian khổ, chung tay dựng xây đất nước ngày càng "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" như di nguyện của Người. Có thể nói, sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh đang tiếp tục tỏa sáng trong mỗi người Việt, tạo nên sức mạnh mềm nâng bước dân tộc ta trên con đường hướng tới tương lai. Chặng đường phía trước của dân tộc ta còn nhiều cơ hội, song cũng không ít thách thức lớn, cả khách quan và chủ quan. Toàn cầu hóa, cách mạng công nghiệp lần thứ tư, biến đổi khí hậu, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn… đang tác động ngày càng sâu sắc đến mọi mặt đời sống chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước. Trong nước, những khó khăn nội tại như năng suất lao động còn thấp, nền tảng khoa học - công nghệ chưa thật vững chắc, chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, tham nhũng, lãng phí… vẫn là những vấn đề cấp bách cần xử lý kiên quyết và hiệu quả. Ý thức sâu sắc về trách nhiệm trước nhân dân và lịch sử, Đảng và Nhà nước ta đang kiên định mục tiêu phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, đồng thời quyết liệt triển khai các đột phá chiến lược để tạo chuyển biến rõ rệt trong thời kỳ mới. Những đột phá quan trọng đang được tập trung chỉ đạo gồm: tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực quản trị quốc gia; đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế xanh, kinh tế số; đẩy mạnh khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; nâng cao chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện. Mỗi bước chuyển mình đều nhằm thực hiện trọn vẹn tâm nguyện của Bác, xây dựng đất nước ta "bằng mười ngày nay", "sánh vai với các cường quốc năm châu". Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là yêu cầu thường xuyên và bức thiết. Chúng ta cần học Bác mỗi ngày - học từ điều lớn đến điều nhỏ, học ở tầm lý tưởng nhưng cũng học trong từng hành vi ứng xử, từng việc làm cụ thể. Học Bác để sống có lý tưởng, có kỷ cương, biết yêu thương, trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Học Bác không phải để ca ngợi Người một cách hình thức, mà để tiếp thêm niềm tin, động lực, bản lĩnh cho công cuộc dựng xây đất nước hôm nay. Mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam nguyện khắc ghi lời dạy của Bác, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, đoàn kết, chung sức đồng lòng vì mục tiêu chung. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục là nguồn năng lượng vô tận, giúp chúng ta vượt qua mọi thử thách, giành nhiều thắng lợi trong công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển. Kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là dịp để chúng ta thêm một lần nhắc nhở chính mình về trách nhiệm đối với Tổ quốc và nhân dân. Chúng ta tự hào về Bác bao nhiêu, càng phải nỗ lực phấn đấu bấy nhiêu để biến những ước nguyện của Người thành hiện thực. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mãi mãi là hành trang quý báu cho dân tộc ta trên con đường phát triển. Mãi mãi, Bác vẫn cùng chúng ta hành quân - Người vẫn sống động trong từng việc làm, từng thắng lợi của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Chúng ta nguyện tiếp bước con đường cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai cùng cường quốc năm châu, xứng đáng với công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Và đó là chân lý thiêng liêng đã đi vào lịch sử: "Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!" H.T
_____________ [1] Điếu văn của Ban chấp hành trung ương Đảng đọc trong lễ truy điệu Hồ Chủ tịch ngày 9-9-1969. [2] Hồ Chí Minh toàn tập sdd-T9-Tr578
| True | | Chính trị | | Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn | Bài viết | An Bình | Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn | /SiteAssets/135-sinhnhatbac.jpg | | 12/05/2025 5:00 CH | No | Đã ban hành | | (TUAG)- Với mỗi người dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là biểu tượng sáng ngời về đạo đức cách mạng, tấm gương hy sinh, hiến dâng trọn cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Người đã đi xa, nhưng tư tưởng của Người mãi mãi là kim chỉ nam, là ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta. Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh, để Đảng xứng đáng "là đạo đức, là văn minh" chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng và tính thời sự sâu sắc.

"Đạo đức", "văn minh" là những khái niệm của triết học, văn hóa học, đạo đức học,.. bên cạnh những giá trị chung mang tính xã hội còn có những giá trị riêng do quy định của tính giai cấp và điều kiện lịch sử - cụ thể. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng ta "là đạo đức, là văn minh" khẳng định sứ mệnh và sự cống hiến vĩ đại của Đảng đối với Tổ quốc và dân tộc; đồng thời, đặt ra trách nhiệm lớn lao cho công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Đảng ta "là đạo đức, là văn minh" trước hết thể hiện ở bản chất và mục đích của Đảng, "đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc". Một đảng đạo đức, văn minh không phải là một tổ chức để làm quan phát tài, mà phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Mục đích của người cách mạng là để làm đầy tớ cho Nhân dân, một người đầy tớ xứng đáng, trong sạch, trung thành chứ không phải là mục đích thăng quan phát tài". Nói cách khác, đạo đức cách mạng cao nhất của Đảng và mỗi đảng viên là chí công vô tư. Đảng viên phải thật thà, trung thành, hăng hái; phải hy sinh lợi ích cá nhân cho Đảng, cho Tổ quốc và dân tộc. Bất kỳ lúc nào, bất kỳ việc gì, người cán bộ, đảng viên đều phải tính đến lợi ích chung, phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của Tổ quốc lên trên hết, trước hết. "Đạo đức", "văn minh" tức là phải hiểu dân, học dân, hỏi dân, thuận lòng dân, "theo đúng đường lối Nhân dân"; "từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng"; "phải đưa chính trị vào giữa dân gian". Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một đảng văn minh là khi lời nói và việc làm của đảng phải làm cho Nhân dân tin, Nhân dân phục, Nhân dân yêu; ngược lại, mất lòng tin của Nhân dân là mất tất cả, bởi "Ý DÂN LÀ TRỜI. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại". Người nhấn mạnh, việc gì đúng với nguyện vọng của Nhân dân thì đều được quần chúng nhân dân ủng hộ và hăng hái đấu tranh; và như vậy, mới thật sự là một phong trào quần chúng. Đảng phải nhận thức sâu sắc được rằng, tư tưởng và hành động của Đảng là vì Nhân dân và Đảng mạnh là do sự ủng hộ của Nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng không phải là một đặc quyền theo kiểu "đảng trị", mà là thực hiện sứ mệnh phục vụ Nhân dân. Do đó, Bác căn dặn: "Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta".

"Đạo đức", "văn minh" còn thể hiện ở việc giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng, thực hành tự phê bình và phê bình, mọi tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, thắt chặt mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Đoàn kết thống nhất dựa trên nhận thức sâu sắc và hành động nhất quán theo Cương lĩnh, đường lối chính trị, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ. Khi xây dựng đường lối, chủ trương phải thực hành dân chủ rộng rãi, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng khi đã thành quyết định chính trị thì mọi tổ chức đảng và đảng viên đều phải phục tùng, nghiêm chỉnh thực thi, không cho phép ai nói và làm trái nghị quyết. Đối lập với đoàn kết thống nhất là chia rẽ, bè phái, "lợi ích nhóm", nguy hại khôn lường, đẩy Đảng rơi vào suy yếu, phân liệt. Tự phê bình và phê bình là một cơ chế phòng ngừa, tự phát hiện lỗi và sửa chữa lỗi khi còn mới manh nha, ngăn chặn khả năng biến thành khuyết điểm nghiêm trọng. Điều này phân biệt với các biểu hiện chủ quan, tự mãn, thiếu nghiêm khắc với chính mình và đồng chí của mình, từ đó mà phát sinh khuyết điểm. Quản trị xã hội văn minh đặt ra yêu cầu bắt buộc mọi công dân phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; trong đó, tổ chức đảng và đảng viên phải làm gương, không cho phép bất cứ ai đứng trên pháp luật và đứng ngoài pháp luật. Quy định pháp luật là đạo đức tối thiểu, nếu công dân được làm những gì pháp luật không cấm thì cán bộ, đảng viên chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Gắn bó máu thịt với Nhân dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng không chỉ là yêu cầu, mà còn là nghĩa vụ đạo đức của mọi tổ chức đảng và đảng viên. "Đạo đức", "văn minh" còn thể hiện ở nội dung quan trọng là tư cách, nghĩa vụ, trách nhiệm của đảng viên. Mỗi đảng viên khi nhận thức và hành động đúng theo các chuẩn mực "đạo đức", "văn minh" thì sẽ trở thành nhân tố quyết định nhất cho xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Nói cách khác, đây chính là xem xét phẩm cách "đạo đức", "văn minh" của Đảng qua đảng viên - nhân tố "động" cấu thành tổ chức đảng. Tư cách người đảng viên cộng sản thể hiện tập trung ở phẩm chất đạo đức, trình độ, tính tiên phong để xứng đáng với vai trò lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền. Tư cách đó giúp người đảng viên làm tròn vai trò tiền phong, gương mẫu, "đảng viên đi trước, làng nước đi sau"; suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; định hình chế độ kỷ luật tự giác, chấp hành nghiêm Cương lĩnh, Điều lệ, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Để hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo và trách nhiệm cầm quyền, người đảng viên phải nỗ lực phấn đấu, rèn luyện suốt đời về mọi mặt, được chế định thành tiêu chuẩn cụ thể về trình độ học vấn, trình độ lý luận, năng lực lãnh đạo, phẩm chất đạo đức, lối sống, gắn bó máu thịt với nhân dân, phục tùng tổ chức, giữ nghiêm kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng. Là đảng viên của Đảng cầm quyền, nắm giữ cương vị càng cao thì càng phải nêu gương học tập, rèn luyện để hội đủ tiêu chuẩn cao cả về trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức. Tư cách đảng viên đòi hỏi mỗi đảng viên phải tự giác tuân thủ kỷ luật, tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời, rèn luyện phong cách, lối sống hằng ngày, cả trong hoạt động công vụ và sinh hoạt đời thường, thường xuyên "tự soi", "tự sửa", phòng ngừa nguy cơ suy thoái. Kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2025), chúng ta nguyện trung thành và tiếp nối sự nghiệp vĩ đại của Người, học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức mẫu mực của Người để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững lạnh, "là đạo đức, là văn minh" đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong Kỷ nguyên mới. Mỗi cán bộ, đảng viên phải là những con người thật sự có đạo đức và văn minh; phải tu thân, chính tâm, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và nâng cao năng lực trí tuệ, bản lĩnh chính trị; suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy, trung thành của Nhân dân, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, trung thực, trách nhiệm, gắn bó với Nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng; nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng; tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức; cổ vũ, biểu dương, lan tỏa các gương sáng về đạo đức... Đó chính là sự kiên định, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng ta "là đạo đức, là văn minh" trong giai đoạn hiện nay. "…Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn…". Sự Thật
| False | | Chính trị | | Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp tạo cơ sở hiến định cho tinh gọn bộ máy và phát triển bền vững | Bài viết | Nguyễn Lam | Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp tạo cơ sở hiến định cho tinh gọn bộ máy và phát triển bền vững | /SiteAssets/Suadoi-Hienphap-1.jpg | | 09/05/2025 2:00 CH | No | Đã ban hành | | (TUAG)- Hiến pháp là nền tảng pháp lý cao nhất, định hình “bộ khung” cho sự phát triển của quốc gia. Tại Việt Nam, mỗi lần sửa đổi Hiến pháp đều gắn với những bước ngoặt lịch sử, phản ánh nhu cầu đổi mới để đáp ứng thực tiễn. Trong bối cảnh hiện nay, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, được Quốc hội khóa XV thông qua tại Nghị quyết số 194/2025/QH15 ngày 05/5/2025 là bước đi quan trọng nhằm thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị, hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiệu quả, gần dân và vì dân.  Bối cảnh và sự cần thiết của việc sửa đổi, bổ sung Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới. Sau gần bốn thập kỷ đổi mới, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng: kinh tế tăng trưởng bền vững, vị thế quốc tế được nâng cao và đời sống Nhân dân ngày càng cải thiện. Tuy nhiên, thực tiễn cũng đặt ra yêu cầu cấp bách về cải cách hành chính, chuyển đổi số và tối ưu hóa bộ máy nhà nước… Hiến pháp năm 2013 dù đã tạo nền tảng vững chắc cho các chính sách đổi mới, đến nay đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế khi áp dụng vào thực tế, đặc biệt trong tổ chức chính quyền địa phương và tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các tổ chức chính trị - xã hội. Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 của Hội nghị Trung ương 11 khóa XIII đã xác định rõ chủ trương tổ chức chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp (tỉnh và xã), kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện từ ngày 01/7/2025. Đồng thời, việc sắp xếp, tinh gọn các tổ chức chính trị - xã hội trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng được nhấn mạnh nhằm giảm trùng lặp chức năng, nâng cao hiệu quả hoạt động. Những định hướng này đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung Hiến pháp để đảm bảo tính đồng bộ và khả thi, tạo cơ sở pháp lý cho các cải cách mang tính đột phá. Ủy ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội thành lập theo Nghị quyết số 195/2025/QH15 ngày 05/5/2025 đã tổ chức xây dựng dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với phạm vi đã được Quốc hội xác định. Theo đó, dự thảo Nghị quyết tập trung vào hai nhóm nội dung chính: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương. Về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội Sửa đổi, bổ sung Điều 9 nhằm khẳng định vai trò trung tâm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Dự thảo làm rõ nguyên tắc hoạt động “hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động” dưới sự chủ trì của Mặt trận, đồng thời quy định các tổ chức chính trị - xã hội như Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Hội Cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức trực thuộc Mặt trận. Điều này tạo cơ sở pháp lý để sắp xếp, giảm bớt tầng nấc trung gian, khắc phục tình trạng trùng lặp chức năng, giúp các tổ chức này hoạt động hiệu quả hơn trong việc đại diện và bảo vệ quyền lợi của Nhân dân. Sửa đổi, bổ sung Điều 10 nhấn mạnh vai trò của Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội trực thuộc Mặt trận, đại diện cho giai cấp công nhân và người lao động ở cấp quốc gia trong quan hệ lao động và quan hệ quốc tế về công đoàn. Điều này không chỉ khẳng định vị trí không thể thay thế của Công đoàn Việt Nam mà còn đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh xuất hiện các tổ chức bất hợp pháp mạo danh đại diện người lao động. Ngoài ra, khoản 1 Điều 84 được sửa đổi, bổ sung để quy định chỉ Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quyền trình dự án luật trước Quốc hội và dự án pháp lệnh trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thay vì cùng với các tổ chức thành viên như trước đây. Điều này đảm bảo tính thống nhất và phù hợp với mô hình tổ chức tinh gọn sau sắp xếp. Về đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương Sửa đổi, sổ sung Điều 110 là nội dung trọng tâm, chuyển từ mô hình ba cấp (tỉnh, huyện, xã) sang hai cấp (tỉnh và xã), với việc kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện từ ngày 01/7/2025. Dự thảo quy định đơn vị hành chính gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các đơn vị hành chính dưới tỉnh (như xã, phường, đặc khu). Quy định này tạo điều kiện để cụ thể hóa mô hình hai cấp trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi), đồng thời linh hoạt hơn trong việc xác định các loại đơn vị hành chính thông qua luật. Sửa đổi, bổ sung các điều 111, 112, 114 của Hiến pháp năm 2013 theo hướng quy định tổ chức chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; không sử dụng thuật ngữ “cấp chính quyền địa phương” để thể hiện tính thống nhất về mô hình tổ chức chính quyền địa phương, tránh gây nhầm lẫn. Đặc biệt, khoản 2 Điều 115 được điều chỉnh theo hướng không quy định quyền chất vấn Chánh án Tòa án nhân dân và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân bởi đại biểu Hội đồng nhân dân, do không còn Tòa án và Viện kiểm sát cấp huyện sau sắp xếp. Tuy nhiên, Hội đồng nhân dân vẫn giữ quyền giám sát hoạt động của các cơ quan này, đảm bảo cơ chế kiểm soát quyền lực. Quy trình sửa đổi, bổ sung thật sự dân chủ và minh bạch Quá trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp được thực hiện với tinh thần dân chủ, minh bạch. Bắt đầu từ ngày 06/5/2025, Quốc hội tổ chức lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, thời gian tổ chức lấy ý kiến trong 30 ngày, thông qua các hội thảo, diễn đàn trực tuyến, các kênh tiếp nhận ý kiến trực tiếp, đặc biệt là trên ứng dụng VNeID. Sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân, tổ chức chính trị - xã hội và các cơ quan nhà nước không chỉ nâng cao chất lượng dự thảo mà còn củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Theo Điều 120 Hiến pháp 2013, việc thông qua sửa đổi phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội tán thành, đảm bảo tính nghiêm minh và đồng thuận cao. 
Lấy ý kiến người dân về nội dung sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 trên ứng dụng VNeID Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp lần này mang ý nghĩa to lớn, không chỉ về mặt pháp lý mà còn về chính trị và xã hội. Thứ nhất, tạo cơ sở pháp lý để thực hiện chủ trương tinh gọn bộ máy, giảm chi phí hành chính và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Mô hình chính quyền hai cấp, kết hợp với ứng dụng chuyển đổi số sẽ giúp hoạt động hành chính thông suốt, gần dân hơn và phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Thứ hai, việc sắp xếp các tổ chức chính trị - xã hội trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ tăng cường vai trò của Mặt trận trong việc phát huy đoàn kết toàn dân, bảo vệ quyền lợi Nhân dân và giám sát, phản biện xã hội. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc kiện toàn, sắp xếp về tổ chức, cán bộ, ban hành các văn bản pháp luật có liên quan để thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, dự thảo Nghị quyết đề nghị xác định thời điểm có hiệu lực thi hành là từ ngày 01/7/2025. Các điều khoản chuyển tiếp, như quy định về chỉ định chức danh lãnh đạo Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân trong năm 2025, sẽ đảm bảo quá trình chuyển đổi diễn ra thông suốt, không ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan và đời sống Nhân dân. Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một bước ngoặc mang tính lịch sử, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng một hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu quả và gần dân. Với sự đồng thuận của toàn dân và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, bản Hiến pháp sửa đổi, bổ sung sẽ trở thành nền tảng vững chắc để Việt Nam tiếp tục vươn lên, khẳng định vị thế trong khu vực và trên trường quốc tế, hướng tới một tương lai thịnh vượng, công bằng và văn minh. Nguyễn Lam
| False | | Chính trị | | “Vấn đề là ở chỗ thay đổi thế giới!” | Bài viết | TTCTTT | “Vấn đề là ở chỗ thay đổi thế giới!” | /SiteAssets/Cac%20Mac.jpg | | 05/05/2025 7:00 SA | No | Đã ban hành | | (TUAG)- Các Mác (Karl Marx) sinh ngày 05/5/1818 ở thành phố Trier trên bờ sông Mozel, một nhánh của sông Rhein thuộc Trier là một thành phố cổ của Đức, thời Trung cổ. Năm 1835, ông tốt nghiệp trung học, cuối năm đó vào học Luật tại Đại học Tổng hợp Bonn sau đó chuyển sang Đại học Tổng hợp Berlin. Năm 1841, khi mới 23 tuổi, C.Mác nhận bằng Tiến sĩ triết học. 
Các Mác. Ảnh tư liệu. C.Mác tham gia hoạt động báo chí, đầu tiên cộng tác với tờ Rheinische Zeitung và sau đó trở thành chủ bút và tờ báo đã bị đóng cửa vào tháng 5/1843. Tháng 8/1844 đánh dấu cho lần hợp tác lý luận đầu tiên giữa C.Mác và Ph.Ăngghen. Trong cuộc gặp gỡ ở Paris lần này không những đã xây dựng nên “tình bạn vĩ đại và cảm động”, mà còn là sự kết hợp “hoàn hảo” trí tuệ thiên tài tạo nên những kết quả kỳ diệu. Ph.Ăngghen đã kể lại: “Vào mùa Hạ năm 1844, khi tôi đến thăm Mác ở Paris, chúng tôi thấy rằng chúng tôi hoàn toàn nhất trí với nhau về tất cả các vấn đề lý luận và chính từ lúc đó, chúng tôi bắt đầu cộng tác với nhau”,… C.Mác đã để lại cho nhân loại một kho tàng tri thức lý luận rất đồ sộ và phong phú trên nhiều lĩnh vực, nhưng điển hình nhất là triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kinh tế chính trị học mác-xít và chủ nghĩa xã hội khoa học. Gần hai thế kỷ đã trôi qua với biết bao thăng trầm của lịch sử, hứng chịu sự công kích, chống phá từ nhiều kẻ thù tư tưởng khác nhau,… Nhưng chủ nghĩa Mác vẫn tồn tại, đứng vững và luôn được bổ sung, phát triển bởi những người mác-xít chân chính. Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học. Lần đầu tiên, các quy luật phát triển của xã hội loài người được giải thích một cách khoa học, khách quan, xuất phát từ các quy luật vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội. Triết học Mác không hề hạ thấp mà còn nhấn mạnh sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất; kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng; ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội; chính trị đối với kinh tế, v.v. Hơn nữa, triết học Mác luôn quan niệm: Vấn đề không chỉ là giải thích thế giới mà quan trọng hơn là cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn, phục vụ con người. Kế thừa những người đi trước song vượt lên khỏi tư duy của chủ nghĩa "duy vật tầm thường" và chủ nghĩa "duy vật kinh tế", C.Mác đã sáng tạo ra học thuyết khoa học biện chứng về phát triển. Học thuyết về giá trị thặng dư là một trong ba phát kiến vĩ đại của C.Mác, là 'hòn đá tảng' trong học thuyết Mác. Với phát kiến này, C.Mác đã bóc trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, lý giải nguồn gốc dẫn tới sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội tư bản. Ngày nay, trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ, quá trình toàn cầu hóa và kinh tế tri thức, quy luật giá trị thặng dư vẫn phát huy tác dụng. Lao động trí tuệ hóa với máy móc hiện đại càng tạo ra giá trị thặng dư lớn hơn cho nhà tư bản. Mặc dù đội ngũ giai cấp công nhân rất đa dạng về nghề nghiệp, với sự xuất hiện hàng loạt lĩnh vực sản xuất, dịch vụ mới hiện đại, nhưng xét về địa vị của họ trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì họ vẫn đều là những người lao động làm thuê bị cột chặt vào tư bản và họ chỉ được thuê khi có thể làm gia tăng khối lượng giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Một cống hiến kiệt xuất khác của C.Mác là đã xây dựng nên học thuyết về chủ nghĩa xã hội, trong đó ông chỉ ra những nguyên tắc chung nhất, cơ bản nhất của “xã hội tương lai” sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản. C.Mác đã luận giải một cách khoa học về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân, về vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, về khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản ở các nước lạc hậu... Từ đây, người đã vạch ra đường lối chiến lược, sách lược đấu tranh cách mạng, phương thức giành chính quyền về tay giai cấp công nhân,v.v. Cùng với Ph.Ăng-ghen, C.Mác đã phân tích rõ và chỉ ra mâu thuẫn cơ bản giữa tính xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với tính tư nhân tư bản chủ nghĩa trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển, mâu thuẫn này không mất đi mà càng bộc lộ dưới nhiều hình thức khác nhau. Bằng chứng là ngày nay nhiều quốc gia tư bản giàu có vẫn đứng trước rủi ro của các cuộc khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng chu kỳ, cơ cấu, khủng hoảng mô hình phát triển, khủng hoảng thể chế. Chiến tranh thương mại, chiến tranh tiền tệ, các cú sốc tài chính, v.v. tình trạng bất bình đẳng, phân hóa giàu nghèo, xung đột xã hội tiếp tục gia tăng và rất khó điều hòa trong bối cảnh toàn cầu hóa. Và đúng như C.Mác dự kiến: Sau 500 năm tồn tại, chủ nghĩa tư bản đã bước vào thời kỳ “lão suy”. Xét trong toàn cục: Chủ nghĩa tư bản không giải quyết được đói nghèo, không bảo vệ được môi trường, không đối phó được sự biến đổi của khí hậu, không khắc phục được bất công xã hội, do vậy không thể tồn tại mãi mãi… C.Mác đã đi xa, nhưng tư tưởng của ông vẫn còn sống mãi cùng nhân loại, bởi bản chất khoa học, cách mạng, phát triển và nhân văn của tư tưởng đó vẫn hoàn toàn đúng đắn. Nhiều giá trị lý luận của chủ nghĩa Mác mang sức sống trường tồn vẫn tiếp tục tỏa sáng, như: Phương pháp biện chứng duy vật, quan niệm duy vật về lịch sử, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, học thuyết phát triển, chủ nghĩa nhân văn vì con người, học thuyết về chủ nghĩa xã hội, v.v. Chính vì lẽ phải hiển nhiên đó mà hiện nay không ít học giả, chính khách tư sản có đầu óc khách quan và trung thực vẫn khẳng định thế giới hiện nay phải trở lại với những vấn đề C.Mác đã đặt ra. Không thể có một tương lai mà không có C.Mác. C.Mác vẫn là nhà tư tưởng của thế kỷ XXI,… Chúng ta có trách nhiệm tiếp tục lan tỏa học thuyết Mác trên tinh thần của một học thuyết khoa học, cách mạng và phát triển; học thuyết cải tạo và thay đổi thế giới; học thuyết giải phóng con người;… “Các nhà triết học chỉ giải thích thế giới bằng các phương thức khác nhau, vấn đề là ở chỗ thay đổi thế giới!”. Trung Thành
| False | | Chính trị | | Viết tiếp câu chuyện hòa bình! | Bài viết | Hải Lam | Viết tiếp câu chuyện hòa bình! | /SiteAssets/50-nam-GPMN.jpg | | 29/04/2025 9:00 SA | No | Đã ban hành | | (TUAG)- Thời khắc lá cờ giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một sự kiện trọng đại - Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, non sông thu về một mối. Đó không chỉ là chiến thắng vĩ đại của Nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy gian khổ, mà còn là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của ý chí độc lập, tự cường và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

50 năm ngày non sông nối liền một dải không chỉ là dịp để hoài niệm, mà là thời điểm để dân tộc Việt Nam đối diện với thách thức hiện tại và tương lai. Câu hỏi “Làm gì để đất nước không còn tụt hậu” không thể trả lời bằng lý thuyết suông hay giáo điều, mà phải bằng hành động thực chất của từng người Việt Nam, từ lãnh đạo đến mỗi công dân. Trong bài viết kỷ niệm 30/4 mang tiêu đề “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” của Tổng Bí thư Tô Lâm đã viết: Đất nước không thể để tụt hậu, không thể bỏ lỡ cơ hội, không thể tái diễn những vòng xoáy lịch sử từng kiềm hãm dân tộc. Thông điệp ấy thôi thúc hành động ngay hôm nay, không phải vì bất kỳ hình thức nào, mà vì sự tồn vong và phát triển của quốc gia trong một thế giới đầy biến động.  Văn hóa nhân văn và lòng đoàn kết Như bài viết của Tổng Bí thư đã đề cập: Trong hơn một thế kỷ qua, dân tộc Việt Nam đã trải qua những trang sử bi tráng, phải gánh chịu biết bao đau thương, mất mát dưới ách đô hộ, áp bức của thực dân, phong kiến và đặc biệt là hai cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hơn ba thập kỷ. Chiến tranh không chỉ lấy đi sinh mạng của hàng triệu người, mà còn để lại những di chứng sâu sắc về thể chất, tinh thần, kinh tế - xã hội và môi trường, ảnh hưởng đến cả những thế hệ sinh ra khi tiếng súng đã ngưng. Không có vùng đất nào trên quê hương Việt Nam không có đau thương; không có gia đình nào mà không gánh chịu những mất mát, hy sinh và cho đến nay chúng ta vẫn còn phải khắc phục hậu quả chiến tranh và bom mìn, chất độc da cam… Nhưng thời gian, lòng nhân ái, đức vị tha đã giúp dân tộc Việt Nam từng bước vượt qua nỗi đau, chữa lành vết thương, gác lại quá khứ, tôn trọng sự khác biệt, hướng tới tương lai. Sau 50 năm đất nước thống nhất, chúng ta đã có đủ bản lĩnh, đủ niềm tin, sự tự hào và đủ bao dung để vượt qua đau thương cùng nhau nhìn về phía trước - để cuộc chiến tranh đã qua không còn là hố ngăn cách giữa những người con cùng một dòng máu Lạc Hồng. Hòa hợp dân tộc không có nghĩa là quên lãng lịch sử hay xóa nhòa sự khác biệt, mà là chấp nhận những góc nhìn khác nhau trong tinh thần bao dung và tôn trọng, để cùng hướng tới mục tiêu lớn hơn: Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, hùng mạnh, văn minh, thịnh vượng, để các thế hệ mai sau không bao giờ phải chứng kiến chiến tranh, chia ly và hận thù, mất mát như cha ông từng đối mặt. Chúng ta tin tưởng rằng, mọi người con đất Việt - dù sinh sống ở đâu, dù quá khứ thế nào - đều có thể đồng hành, chung sức, góp phần xây dựng một tương lai tươi sáng cho dân tộc. Đảng và Nhà nước luôn nhất quán mở rộng vòng tay, trân trọng mọi đóng góp, lắng nghe mọi tiếng nói xây dựng, đoàn kết từ cộng đồng người Việt ở nước ngoài - những người đang góp phần kết nối Việt Nam với thế giới. Chúng ta không thể viết lại lịch sử, nhưng chúng ta có thể hoạch định lại tương lai. Quá khứ là để ghi nhớ, để tri ân và để rút ra bài học. Tương lai là để cùng nhau xây dựng kiến tạo và phát triển. Đó là lời hứa danh dự của thế hệ hôm nay với những người đã ngã xuống, là tâm nguyện chung của một dân tộc từng trải qua nhiều đau thương nhưng chưa bao giờ khuất phục. Văn hóa và nhân văn không chỉ là khái niệm, mà là nền móng của đoàn kết dân tộc. Con đường duy nhất là đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết.  Vận nước và khí của đại nghĩa Hơn ai hết, thế hệ hôm nay hiểu rõ rằng độc lập và thống nhất không phải là cái đích cuối cùng, mà là điểm khởi đầu cho một hành trình mới: Hành trình xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, giàu mạnh, văn minh, phát triển và trường tồn. Nếu như thế hệ cha anh đã khắc ghi chân lý “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” bằng những hy sinh mất mát, thì thế hệ hôm nay phải biến lý tưởng đó thành động lực phát triển, thành đôi cánh vươn lên trong thời đại mới. Tinh thần thống nhất đất nước - từng là niềm tin và ý chí sắt đá để vượt qua khó khăn, thử thách, mưa bom, bão đạn - nay phải trở thành quyết tâm chính trị, ý chí đổi mới và hành động cụ thể để bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân. Phải làm cho mỗi người Việt Nam, dù ở đâu, dù làm gì, đều tự hào về đất nước, tin tưởng vào tương lai và có cơ hội đóng góp vào sự phát triển chung. Vận mệnh quốc gia không chỉ là chuyện của nhà nước, mà là trách nhiệm của toàn dân tộc. Như bài viết đã nhấn mạnh: “Nhất thiết phải phát huy trí tuệ và sức mạnh toàn dân”, bao gồm cả người Việt ở năm châu. Sức mạnh Việt Nam không thể cầu từ bên ngoài, mà phải bắt nguồn từ nội lực: Từ tinh thần tự lực tự cường, từ bản lĩnh một dân tộc chưa bao giờ chịu khuất phục. Không có nội lực, không có nền tảng vững chắc, thì không thể đứng vững trước thời cuộc. Đây là bài học xuyên suốt lịch sử Việt Nam. Mỗi quyết định hôm nay sẽ định hình tương lai Việt Nam nhiều thập kỷ tới. Thế hệ hôm nay - từ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức đến công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, học sinh, sinh viên, mọi tầng lớp nhân dân đều cần ý thức sâu sắc rằng: Chúng ta đang thừa hưởng những giá trị di sản vĩ đại từ cha ông, và chúng ta có trách nhiệm làm rạng danh đất nước trong thời đại mới. Mỗi hành động hôm nay phải xứng đáng với máu xương đã đổ xuống, với những hy sinh mất mát mà cả dân tộc đã từng gánh chịu. 
Chúng ta không thể để đất nước tụt hậu. Chúng ta không thể để dân tộc đánh mất cơ hội. Chúng ta không thể để lặp lại những vòng xoáy của lịch sử. Vì vậy, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết. Chúng ta phải hành động vì tương lai lâu dài chứ không vì thành tích ngắn hạn. Phải kiên định giữ gìn độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định. Đồng thời phải đổi mới mạnh mẽ trong tư duy phát triển, cải cách hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng và xây dựng Xã hội xã hội chủ nghĩa hiện đại. Nhìn về phía trước, chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào tin tưởng vào sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam - một dân tộc đã bao lần đánh thắng ngoại xâm và đứng dậy từ chiến tranh, khẳng định mình trước lịch sử và trước thế giới. Với truyền thống nghìn năm dựng nước và giữ nước, với khát vọng vươn lên không ngừng, thế hệ trẻ tài năng, hoài bão, yêu nước, yêu hòa bình, sáng tạo và đầy bản lĩnh - Việt Nam nhất định sẽ thành công viết tiếp những chương mới rực rỡ trong hành trình phát triển của mình./. HẢI LAM | False | | Chính trị | | Tự hào 50 năm thống nhất: Lòng biết ơn và khát vọng vươn xa | Bài viết | Nguyễn Lam | Tự hào 50 năm thống nhất: Lòng biết ơn và khát vọng vươn xa | /SiteAssets/kn50nam-gpmn-1.jpg | | 28/04/2025 3:00 CH | No | Đã ban hành | |
(TUAG)- Ngày 30/4/1975, lá cờ cách mạng tung bay kiêu
hãnh trên Dinh Độc Lập, khoảnh khắc thiêng liêng ấy đã khắc sâu vào trái tim mỗi
người dân Việt Nam, đánh dấu chiến thắng lịch sử giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước. Kỷ niệm 50 năm sự kiện trọng đại này (30/4/1975 - 30/4/2025), chúng
ta tự hào ôn lại trang sử vàng, tri ân những hi sinh cao cả và thắp lên khát vọng
đưa Việt Nam vươn xa, sánh vai các cường quốc. Đây là dịp để lòng biết ơn hòa
quyện với khát vọng, để ngọn lửa quá khứ soi sáng con đường tương lai, khơi dậy
tinh thần đoàn kết và đổi mới cho một Việt Nam hùng cường.
Quang cảnh buổi tổng duyệt lễ diễu binh, diễu
hành kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam Chiến thắng 30/4/1975 là bản anh hùng ca bất diệt, là
minh chứng sống động cho khát vọng độc lập, tự do của dân tộc. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân ta đã vượt qua
muôn vàn gian khó trong hơn hai thập kỷ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, với sự đồng lòng tuyệt đối của quân và
dân ta đã đập tan cơ quan đầu não của chính quyền và quân đội Sài Gòn, đưa non
sông về một mối, mở ra kỷ nguyên hòa bình, thống nhất. Hành trình ấy thấm đẫm
máu xương, là câu chuyện về hàng triệu người con đất Việt ngã xuống. Những cái
tên như Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Đặng Thùy Trâm… đã hóa
thành bất tử, trở thành ngọn lửa soi đường cho các thế hệ. Chiến thắng ấy không
chỉ là thắng lợi quân sự, mà là đỉnh cao của ý chí Việt Nam, khi cả dân tộc, từ
miền Bắc “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đến miền Nam “thành đồng Tổ quốc”,
cùng chung một nhịp đập vì quê hương. Nhìn lại 50 năm, lòng ta trào dâng niềm tự hào xen lẫn
xúc động. Hòa bình hôm nay là món quà vô giá, được đánh đổi bằng máu và nước mắt
của cha ông. Như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhấn mạnh: “Độc lập, tự
do là di sản thiêng liêng, là ngọn lửa mà chúng ta phải gìn giữ, để không phụ
lòng những người đã hi sinh vì Tổ quốc”. Chiến thắng 30/4/1975 dạy chúng ta
bài học sâu sắc về sức mạnh đoàn kết; trong những năm tháng chiến tranh, dù đối
mặt với kẻ thù vượt trội về tiềm lực, Việt Nam đã chiến thắng nhờ sự đồng lòng
của toàn dân; từ sĩ, nông, công, thương, binh, tất cả đều hướng về lý tưởng giải
phóng dân tộc. Tinh thần ấy, được hun đúc từ tình yêu nước nồng nàn, đã biến Việt
Nam thành một khối thép không gì lay chuyển. 
Vào những ngày tháng 4 lịch sử này, người
dân khắp cả nước đến tham quan di tích lịch sử Dinh Độc Lập rất đông Phát huy giá trị đoàn kết, trong bối cảnh thế giới đầy
biến động, Việt Nam đối mặt với những thách thức mới: cạnh tranh kinh tế, biến
đổi khí hậu và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0… Để vươn lên, chúng ta cần tiếp tục
phát huy tinh thần chiến thắng 30/4/1975, cùng nhau vượt qua khó khăn, xây dựng
một xã hội công bằng, văn minh. Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định: “Đoàn
kết là ngọn lửa bất diệt, là nguồn sức mạnh để Việt Nam chinh phục mọi thử
thách, từ quá khứ đến tương lai”. Hơn nữa, chiến thắng 30/4 còn là bài học
về lòng nhân ái và bao dung. Sau ngày thống nhất, Đảng, Nhà nước ta đẩy mạnh
chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc, hàn gắn vết thương chiến tranh để xây dựng
một đất nước phát triển toàn diện, bền vững, khẳng định vị thế của quốc gia thống
nhất, hòa bình trên trường quốc tế. Từ một đất nước tan hoang sau chiến tranh, Việt Nam đã
viết nên câu chuyện hồi sinh kỳ diệu. Sau ngày thống nhất, cả nước đối mặt với
muôn vàn khó khăn: kinh tế kiệt quệ, cơ sở hạ tầng đổ nát và sự cấm vận khắc
nghiệt. Nhưng với tinh thần tự lực tự cường, Nhân dân ta đã tái thiết quê
hương, biến đau thương thành sức mạnh. Hôm nay, Việt Nam là một trong những nền
kinh tế năng động nhất khu vực. Theo Ngân hàng Thế giới, GDP bình quân đầu người
tăng từ vài chục USD năm 1986 lên khoảng 4.700 USD vào năm 2024. Tỷ lệ hộ nghèo
giảm ngoạn mục, từ hơn 50% xuống còn 4,06%. Các ngành công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ đều khởi sắc, với những thương hiệu như VinFast, Viettel, FPT, Vinamilk
hay cà phê Trung Nguyên vươn tầm thế giới. Hội nhập quốc tế cũng đạt nhiều dấu ấn,
Việt Nam đang là thành viên tích cực của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực quan
trọng như: Tổ chức Liên hợp quốc (UN), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương (APEC). Những thành tựu ấy là kết tinh của ý chí kiên cường và tầm
nhìn chiến lược, là món quà dành tặng những người đã ngã xuống vì độc lập. Chiến thắng 30/4/1975 không chỉ là một sự kiện lịch sử,
mà còn là nguồn cảm hứng để Việt Nam hướng tới tương lai. Những giá trị cốt lõi
– đoàn kết, nhân ái và ý chí đổi mới – là hành trang quý giá cho hành trình
phát triển đất nước. Kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam là thời khắc để khơi dậy
khát vọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm
2045, nhân kỷ niệm 100 năm thành lập nước. Để hiện thực hóa khát vọng phát triển
đất nước, Trung ương yêu cầu tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao, gắn với khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số là nhiệm vụ ưu
tiên hàng đầu. Phong trào “Bình dân học vụ số” đang giúp người dân làm chủ công
nghệ, thúc đẩy kinh tế số và chính phủ điện tử. Đầu tư vào trí tuệ nhân tạo,
công nghệ cao và giáo dục STEM sẽ đưa Việt Nam vào nhóm dẫn đầu khu vực. Phát
triển bền vững cũng là ưu tiên, khi biến đổi khí hậu và cạn kiệt tài nguyên đòi
hỏi chuyển sang kinh tế xanh, ưu tiên năng lượng tái tạo, nông nghiệp bền vững,
và bảo vệ môi trường. Nâng cao chất lượng giáo dục, y tế sẽ đảm bảo nguồn nhân
lực chất lượng cho tương lai. Đồng thời, đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, củng cố khối đại
đoàn kết và hội nhập quốc tế sâu rộng, kết hợp với bảo tồn bản sắc dân tộc, sẽ
giúp Việt Nam tỏa sáng trên trường quốc tế.  Một góc của Thành phố Hồ Chí Minh về đêm Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắn nhủ: “Non sông
Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh
quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một
phần lớn ở công học tập của các cháu”. Lời dạy ấy là ngọn lửa truyền cảm hứng
để thế hệ trẻ hôm nay học tập, cống hiến, đưa Việt Nam vươn xa. Trái tim mỗi
người Việt Nam, trong dịp kỷ niệm 50 năm trào dâng niềm tự hào, lòng biết ơn và
khát vọng mãnh liệt. Chiến thắng 30/4/1975 là ngọn lửa bất diệt, thắp sáng hành
trình đến vinh quang. Hãy để tinh thần ấy tiếp tục cháy bỏng, để tình yêu nước
và sự đồng lòng dẫn lối chúng ta vượt qua mọi thử thách. Như Tổng Bí thư Tô Lâm
đã nhấn mạnh: “Chúng ta không thể viết lại lịch sử, nhưng chúng ta có thể hoạch
định lại tương lai. Quá khứ là để ghi nhớ, để tri ân và để rút ra bài học.
Tương lai là để cùng nhau xây dựng kiến tạo và phát triển”. Với khát vọng
vươn xa và trái tim rực cháy, Việt Nam sẽ khắc tên mình trên bản đồ thế giới,
như một ánh sao sáng, rực rỡ và trường tồn. Nguyễn
Lam | False | | Chính trị | | V.I. Lê-nin - Lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản toàn thế giới! | Bài viết | TTCTTT | V.I. Lê-nin - Lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản toàn thế giới! | /SiteAssets/Le-nin-22-4.jpg | | 22/04/2025 7:00 SA | Yes | Đã ban hành | | (TUAG)- Vla-đi-mia I-lích Lê-nin - Nhà tư tưởng vĩ đại, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới, người kế tục xuất sắc sự nghiệp giải phóng con người của C.Mác, Ph.Ăng-ghen. V.I. Lê-nin sinh ngày 22 tháng Tư năm 1870 trong một gia đình trí thức có tinh thần dân chủ, sớm đến với chủ nghĩa Mác. Bằng một trí tuệ phi thường cùng với tinh thần cách mạng vô song, V.I. Lê-nin đã cống hiến cho nhân loại nhiều thành tựu vĩ đại cả về lý luận và thực tiễn. 
Người đã bảo vệ và phát triển toàn bộ chủ nghĩa Mác một cách khoa học, hệ thống, cơ bản trước sự xuyên tạc của phái dân túy, của những người theo chủ nghĩa Makhơ, theo chủ nghĩa cơ hội, xét lại và luận điệu phản cách mạng của nhiều nhà tư tưởng tư sản khác. Người bổ sung nhiều nội dung mang tính chân lý bền vững cho cả ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác. Cụ thể: Về phương diện triết học, là những nội dung về thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật, về lý luận nhận thức, về nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội, về vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử, về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, về nhà nước, nhà nước chuyên chính vô sản,… Về Kinh tế chính trị học, V.I. Lê-nin là người đầu tiên đưa ra kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước Nga-quốc gia có trình độ phát triển trung bình; đặc sắc nhất là đưa ra chính sách Kinh tế mới (NEP) với chủ trương phát triển nhiều thành phần kinh tế mà mục tiêu của nó là phát triển sản xuất để giải phóng người lao động trên cơ sở kỹ thuật tiên tiến, quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN). V.I. Lê-nin cũng là người xác định cụ thể những nhiệm vụ kinh tế - xã hội cơ bản trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH (thực hiện xã hội hóa sản xuất trong thực tế thông qua công nghiệp hóa; từng bước đưa nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn thông qua con đường hợp tác hóa; tiến hành cách mạng về văn hóa để nâng cao ý thức chính trị, trình độ học vấn, khoa học - kỹ thuật cho Nhân dân; kiên quyết đấu tranh xóa bỏ tư tưởng, tập quán cũ, làm cho nhiệt tình cách mạng, tinh thần sáng tạo của Nhân dân được phát huy mạnh mẽ…). Về chủ nghĩa xã hội khoa học, V.I. Lê-nin đã chỉ ra khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản trước tiên ở một số nước, thậm chí ở một nước; chỉ ra đặc điểm của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa; chỉ rõ thời kỳ quá độ với các hình thức quá độ, các “bước quá độ”, các mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ; đặc điểm, thực chất của thời kỳ quá độ… Chính Lê-nin đã bổ sung khẩu hiệu "Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại", do C. Mác và Ph. Ăng-ghen đưa ra trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản bất thành "Vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới liên hiệp lại" (V.I. Lê-nin viết cuốn "Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản" vào năm 1916)… Với những cống hiến vĩ đại đó, chủ nghĩa Mác đã phát triển thành chủ nghĩa Mác - Lê-nin - thể hiện trọn vẹn sự thống nhất giữa tính khoa học, tính cách mạng và tính nhân văn cao đẹp. Về thực tiễn, từ năm 1900, Người đã sáng lập Báo “Tia Lửa”, ngay khi xuất bản số đầu tiên, Người đã chỉ rõ sự cấp bách phải thống nhất tất cả các lực lượng giác ngộ của giai cấp vô sản Nga, thành lập một chính đảng lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng mới có thể đưa cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đến thắng lợi. Cùng với nhiều nhà dân chủ xã hội Nga. V.I.Lê-nin đã đầu tư, tích cực chuẩn bị cả về tư tưởng, lý luận lẫn tổ chức cho sự ra đời của Đảng Công nhân Dân chủ - Xã hội Nga - tiền thân của Đảng Bôn-sê-vích (Đảng Cộng sản Nga) vào năm 1903. Trong Cương lĩnh của mình, Đảng đã khẳng định nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là làm cách mạng XHCN, thực hiện chuyên chính vô sản. Ngày 16/4/1917, V.I. Lê-nin đến Petrograt để trình bày bản Luận cương Tháng Tư nổi tiếng, thực chất đây là một văn kiện mang tính cương lĩnh đề ra đường lối giành chiến thắng cho cuộc cách mạng XHCN với khẩu hiệu: "Toàn bộ chính quyền về tay các Xô Viết!". Hội nghị lần thứ VII toàn Nga (tháng 4/1917) của Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga đã nhất trí thông qua đường lối cách mạng do V.I. Lê-nin đề ra. Rạng sáng ngày 7/11/1917, toàn thành phố Saint Petersburg nằm trong tay những người khởi nghĩa và đến đêm ngày 7/11/1917, Cách mạng Tháng Mười Nga toàn thắng. Riêng tại nước ta, với khát vọng cứu dân, cứu nước Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường. Sau nhiều năm bôn ba Người đã tìm thấy “Sơ thảo lần thứ nhất về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lê-nin. Người khẳng định: “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Cả cuộc đời hoạt động, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới, V.I. Lê-nin đã để lại cho chúng ta một gia tài đồ sộ. Đó là di sản quý báu về tư tưởng và lý luận; đó là tấm gương đạo đức cao đẹp, mẫu mực của người cộng sản chân chính, suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người khỏi nạn áp bức, nô dịch. Dù thời gian đã lùi xa và thế giới hiện đã có nhiều đổi thay to lớn, song tư tưởng của V.I.Lê-nin vẫn là ngọn đuốc soi đường cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, dân sinh, vì tiến bộ và công bằng xã hội trên toàn thế giới. Kỷ niệm Ngày sinh của V.I. Lê-nin (22/4/1870-22/4/2025) là dịp chúng ta tiếp tục khẳng định lòng biết ơn về những công lao, cống hiến vĩ đại của Người; tiếp tục thực hiện chỉ dạy của Bác Hồ: “Chúng ta kỷ niệm đồng chí Lê-nin, thương nhớ đồng chí Lê-nin thì càng phải học tập và thực hành chủ nghĩa Mác-Lê-nin”; “là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lê-nin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta”. TRUNG THÀNH
| True | | Chính trị | | Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 11 | Bài viết | Admin | Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 11 | /SiteAssets/HN-trienkhai-hntw11-6.png | | 16/04/2025 6:00 CH | No | Đã ban hành | | (TUAG)- Cổng TTĐT Đảng bộ An Giang trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII 
Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu Thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; cấp ủy đảng Trung ương và các địa phương, Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị tại các điểm cầu toàn quốc, Thưa các đồng chí, đồng bào, Hôm nay, Bộ Chính trị, Ban Bí thư triệu tập Hội nghị toàn quốc để kịp thời quán triệt, triển khai thực hiện những chủ trương, quyết sách quan trọng vừa được Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII thông qua. Hội nghị được tổ chức với hình thức trực tiếp, kết hợp với trực tuyến tới cấp xã và truyền hình trực tiếp trên sóng VTV1 Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam cho thấy tầm quan trọng của các nội dung cần quán triệt cũng như quy mô, phạm vi tác động ảnh hưởng của các nội dung này. Đây cũng là những nội dung đông đảo cán bộ, đảng viên và Nhân dân đang rất quan tâm theo dõi, mong muốn sớm được triển khai thực hiện. Thưa các đồng chí, Tại Hội nghị Trung ương 11 khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã làm việc với tinh thần rất khẩn trương, nghiêm túc, trách nhiệm, thảo luận hết sức dân chủ, lắng nghe, trao đổi thẳng thắn nhiều vấn đề mới, hệ trọng và thống nhất rất cao những nội dung lớn, cốt lõi. Có thể nói, đây là hội nghị mang tính lịch sử, quyết sách những vấn đề rất quan trọng, đột phá của giai đoạn cách mạng mới, tạo ra khí thế mới, xung lực mới cho sự nghiệp đổi mới toàn diện, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới. Trên cơ sở thống nhất tuyệt đối, Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 60-NQ/TW, ngày 12/4/2025 với nhiều nội dung đặc biệt quan trọng, tập trung là 2 nhóm vấn đề tiếp tục sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính, tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp và chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng. Những nội dung này có liên quan chặt chẽ với nhau và đều là những vấn đề trọng tâm, cấp bách mà chúng ta phải tập trung thực hiện ngay sau Hội nghị này đến hết năm 2025. Các đồng chí đã được nghe đồng chí Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, đồng chí Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và đồng chí Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng trực tiếp quán triệt 3 chuyên đề là những nội dung cốt lõi của Hội nghị Trung ương 11 và các văn bản triển khai thực hiện, nhất là Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 14/4/2025 của Bộ Chính trị thay thế Chỉ thị 35 về tổ chức đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng; Kết luận số 150-KL/TW của Bộ Chính trị về hướng dẫn xây dựng nhân sự cấp ủy cấp tỉnh thuộc diện hợp nhất, sáp nhập và cấp xã thành lập mới; Kế hoạch số 47-KH/BCĐ của Ban Chỉ đạo Trung ương tổng kết Nghị quyết 18 về phân công trách nhiệm triển khai thực hiện với 121 nhóm công việc gắn với thời gian phải hoàn thành được tính theo từng ngày. Cùng với quán triệt trực tiếp tại Hội nghị, các văn bản này cùng các hướng dẫn khác đã - đang và sẽ được gửi đến các bộ, ngành, địa phương sớm nhất để triển khai thực hiện (về cơ bản trong tháng 4/2025 sẽ ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn). Cũng trong tuần này, dự thảo đầy đủ 4 văn kiện trình Đại hội XIV sẽ được gửi đến các đồng chí để tham gia ý kiến và làm căn cứ xây dựng văn kiện của cấp mình. Bộ Chính trị đã có Quyết định số 284-QĐ/TW, ngày 12/4/2025 phân công 19 đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư phụ trách các địa phương để theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn, chỉ đạo, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các đồng chí trong quá trình triển khai. Như vậy, về cơ bản, chủ trương đã rõ, phương án, kế hoạch, lộ trình triển khai đã cụ thể. Đây là điểm mới trong tổ chức quán triệt, triển khai các Nghị quyết của Đảng theo hướng rõ người, rõ việc, rõ cách làm, rõ trách nhiệm, rõ thời gian hoàn thành, sau Hội nghị là bắt tay thực hiện được ngay. Sau Hội nghị quán triệt hôm nay, tôi cho rằng, các đồng chí đã xác định được những công việc cần làm trong thời gian tới tại cơ quan, đơn vị, địa phương mình. Từng cán bộ, đảng viên dự Hội nghị cũng đã hình dung ra được trách nhiệm cá nhân trong "cuộc cách mạng" chung của đất nước. Sau Hội nghị này, các cấp ủy, tổ chức đảng có trách nhiệm tiếp tục nghiên cứu, quán triệt đầy đủ, thấu đáo, kỹ lưỡng các nội dung của Nghị quyết và xây dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể để thực hiện. Trước yêu cầu cùng lúc phải triển khai một khối lượng công việc rất lớn, phạm vi rộng, thời gian ngắn, chất lượng cao, nhiều việc chưa có tiền lệ như vậy, tôi nhấn mạnh thêm 3 yêu cầu chung và 4 lưu ý để thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện như sau: Ba yêu cầu chung là: (1) Phải xác định quyết tâm chính trị cao nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 11, xác định đây là một "cuộc cách mạng" về sắp xếp bộ máy tổ chức, sắp xếp đơn vị hành chính và cải cách, đổi mới để phát triển đất nước. Các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp phải sâu sát, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức đầy đủ, sâu sắc tầm quan trọng đặc biệt của chủ trương này, tạo được sự thống nhất nhận thức, tư tưởng trong toàn Đảng và lan tỏa ra toàn xã hội, quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, định hướng mà Trung ương đã đề ra. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan triển khai quyết liệt các công việc trên tinh thần "đúng vai, thuộc bài", phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng, chặt chẽ từ Trung ương đến các địa phương và giữa các địa phương với nhau, không được có tư tưởng "quyền anh, quyền tôi", địa phương này, địa phương kia, tất cả vì lợi ích chung của đất nước, vì Nhân dân. (2) Triển khai các công việc trên tinh thần "vừa chạy vừa xếp hàng", nhưng phải thận trọng, chắc chắn, bài bản, không nóng vội, chủ quan; có thứ tự ưu tiên, làm việc nào chắc việc đó, làm việc này phải tính đến việc khác liên quan, và phải thực hiện đúng các quy trình thủ tục theo quy định, không làm tắt, làm ẩu, làm qua loa đại khái bất cứ công việc nào. Bám sát các mốc thời gian trong kế hoạch, bảo đảm các công việc được thực hiện đúng tiến độ thời gian quy định, nhất là các mốc thời gian quan trọng như: Trước ngày 30/6/2025, phải hoàn thành sửa đổi Hiến pháp và pháp luật có liên quan; bắt đầu kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã mới đi vào hoạt động từ ngày 1/7/2025 theo lộ trình chuyển tiếp và hoàn thành toàn bộ trước ngày 15/8/2025; hoàn thành sáp nhập các tỉnh trước ngày 1/9/2025; hoàn thành đại hội đảng tại cấp xã trước ngày 31/8/2025; hoàn thành đại hội cấp tỉnh trước ngày 31/10/2025; Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng vào đầu quý I/2026; Bầu cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp vào tháng 3/2026. Căn cứ lộ trình nêu trên, khuyến khích các địa phương, cơ quan, đơn vị hoàn thành sớm các công việc trước mốc thời gian quy định trên tinh thần "ổn định sớm để phát triển". (3) Tăng cường thông tin, tuyên truyền tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, các quy trình, thủ tục lấy ý kiến Nhân dân phải được thực hiện theo đúng quy định, nhất là những nội dung liên quan đến sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, sáp nhập các tỉnh, sáp nhập các xã. Vận động, tuyên truyền trong Nhân dân, chịu sự giám sát, đóng góp của Nhân dân, tạo sự đồng tình, hưởng ứng triển khai thực hiện của Nhân dân. 
Toàn cảnh Hội nghị tại điểm cầu Hội trường Diên Hồng Bốn vấn đề cần lưu ý là: Một là, về thực hiện chủ trương sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính và xây dựng chính quyền địa phương 2 cấp. Đây là chủ trương xuất phát từ tầm nhìn chiến lược phát triển đất nước lâu dài; Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thảo luận đánh giá kỹ lưỡng, cân nhắc nhiều mặt để đi đến thống nhất cao về thực hiện chủ trương này với nguyên tắc, tiêu chí thực hiện việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp tỉnh, xác định tên gọi và địa điểm đặt trung tâm chính trị - hành chính cấp tỉnh sau sắp xếp; các tiêu chí, tiêu chuẩn và định hướng sắp xếp cấp xã như đã thông báo với các đồng chí. Triển khai thực hiện chủ trương này sẽ tác động nhất định đến tâm tư, tình cảm của cán bộ, đảng viên và Nhân dân - Đây là điều dễ hiểu bởi mỗi con người Việt Nam chúng ta đều in sâu trong ký ức những hình ảnh về quê hương, nơi chôn rau cắt rốn của mình. Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, chúng ta phải thay đổi về tư duy, tầm nhìn; thống nhất về nhận thức, tư tưởng; phải vượt lên chính mình, hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của đất nước; vượt qua những băn khoăn, lo lắng, tâm lý, thói quen bình thường; vượt qua những tâm lý, tâm trạng vùng miền để hướng tới tư duy, tầm nhìn rộng lớn hơn - "đất nước là quê hương". Nội dung các hướng dẫn đã đầy đủ, tôi nhấn mạnh thêm 3 vấn đề cần tiếp tục quán triệt sâu sắc là: (1) Tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị, sáp nhập tỉnh, không tổ chức cấp huyện, sáp nhập xã không chỉ đơn thuần là vấn đề điều chỉnh tổ chức bộ máy, địa giới hành chính mà còn là vấn đề điều chỉnh không gian kinh tế, điều chỉnh sự phân công, phân cấp, phân bổ nguồn lực cho phát triển. Là cơ hội để chúng ta sàng lọc, sắp xếp, xây dựng đội ngũ cán bộ thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới. (2) Tinh thần thực hiện phải quyết liệt, khẩn trương, "vừa chạy vừa xếp hàng", "không được để gián đoạn công việc", "bộ máy mới phải tốt hơn, hiệu quả hơn bộ máy cũ"; lộ trình thực hiện phải bài bản, khoa học, bảo đảm đúng Điều lệ Đảng, quy định, nguyên tắc, định hướng chỉ đạo của Trung ương; mạnh mẽ, triệt để, khoa học, nhân văn, bảo đảm tầm nhìn xa, bảo đảm hình thành và mở rộng không gian phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa phù hợp cho phát triển đất nước. (3) Chính quyền địa phương sau sắp xếp phải bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát dân, đáp ứng các yêu cầu quản trị xã hội hiện đại, thực hiện được các mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền vững; tạo thế và lực mới cho nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại; tạo đà và động lực cho phát triển kinh tế; đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; chăm lo ngày một tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Trong quá trình thực hiện chủ trương này, các địa phương phải hết sức chủ động và trách nhiệm trong việc xây dựng phương án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, phường; bởi các đồng chí là những người am hiểu địa bàn hơn ai hết. Căn cứ các tiêu chí, tiêu chuẩn và định hướng số lượng giảm khoảng 60 - 70% của Trung ương, các địa phương chủ động nghiên cứu để có phương án sắp xếp cụ thể cho phù hợp với địa bàn, mục tiêu cao nhất là xây dựng chính quyền cấp xã tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát dân, chủ động hướng về nhân dân để phục vụ tốt hơn. Cần lưu ý khắc phục cả 2 khuynh hướng: (1) Sáp nhập các xã, phường quá rộng như một "cấp huyện thu nhỏ" dẫn đến không quán xuyến được địa bàn, không chủ động phục vụ được nhân dân, dẫn đến biến chủ trương không tổ chức cấp huyện thành không tổ chức cấp xã. (2) Sáp nhập các xã, phường quá nhỏ, dẫn đến hạn chế về không gian, dư địa phát triển, đầu mối nhiều hơn dẫn đến cồng kềnh, kém hiệu quả. Đây là những vấn đề tôi đề nghị ban thường vụ các tỉnh phải bàn bạc, tính toán rất kỹ, trên tinh thần tầm nhìn lâu dài, vì nước, vì dân để có phương án bố trí, sắp xếp hợp lý nhất. Trên cơ sở mô hình chính quyền địa phương hai cấp, các cơ quan Trung ương và địa phương cần sớm rà soát, ban hành cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, các vấn đề có tính chất liên vùng, liên cơ sở, bảo đảm thống nhất trên toàn quốc và từng địa phương. Nhất quán nguyên tắc "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm", đẩy mạnh phân quyền từ Trung ương về cấp tỉnh, nhất là trong việc ban hành cơ chế, chính sách, lĩnh vực quy hoạch, tài chính, ngân sách, đầu tư. Cấp cơ sở tổ chức thực hiện chính sách (từ Trung ương và tỉnh), tập trung vào các nhiệm vụ phục vụ người dân, trực tiếp giải quyết các vấn đề của cộng đồng dân cư, cung cấp các dịch vụ công cơ bản, thiết yếu cho người dân trên địa bàn. Chính quyền đặc khu (hải đảo) được trao nhiều quyền tự chủ, bảo đảm linh hoạt, chủ động ứng phó khi có sự kiện, tình huống đột xuất, bất ngờ xảy ra nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Tất cả công việc này đều phải triển khai cùng lúc, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, thông suốt, hiệu quả, không để việc sắp xếp tổ chức bộ máy làm gián đoạn hoạt động của các cơ quan, hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động thường ngày của người dân, doanh nghiệp. Hai là, về công tác cán bộ. Diện cán bộ thuộc phạm vi tác động, ảnh hưởng trong đợt sắp xếp này rất lớn. Chủ trương chung của chúng ta là trước mắt cơ bản bố trí biên chế cán bộ, công chức, viên chức (bao gồm các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể) cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã như hiện có để bảo đảm ổn định; sau khi bộ máy mới đi vào hoạt động sẽ chỉ đạo rà soát, hoàn thiện vị trí việc làm, xác định biên chế của từng cấp trong tổng thể biên chế chung của cả hệ thống chính trị. Tôi đề nghị các cấp ủy, tổ chức đảng cần thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy, công tác cán bộ, quản lý đội ngũ cán bộ và biên chế của hệ thống chính trị. Phải hết sức công tâm, khách quan trong bố trí cán bộ; thực hiện đầy đủ các quy định, hướng dẫn về công tác cán bộ bảo đảm công khai, minh bạch, tăng cường kiểm soát quyền lực, gắn quyền lực với trách nhiệm cá nhân. Không để xảy ra tình trạng mất đoàn kết, lợi ích nhóm, chạy chức, chạy quyền, cục bộ, bè phái, tham nhũng, lãng phí trong công tác bố trí, sắp xếp cán bộ, sắp xếp tổ chức bộ máy và đơn vị hành chính các cấp. Đặc biệt lưu ý làm tốt công tác lựa chọn, bố trí lãnh đạo, nhất là người đứng đầu các cơ quan cấp tỉnh, cấp xã sau khi sáp nhập. Phải tính toán đồng bộ, liên thông giữa cả 4 giai đoạn: Bố trí cán bộ sau khi hợp nhất - Nhân sự đại hội đảng cấp tỉnh, cấp xã - Nhân sự Đại hội XIV - Nhân sự bầu cử Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Công tác nhân sự đã rất quan trọng, nay lại càng quan trọng hơn trước yêu cầu mới. Như tôi đã nói, tiêu chí đầu tiên để bố trí cán bộ là vì yêu cầu công việc, sau đó mới đến các tiêu chí khác. Nhân sự lãnh đạo các cấp và nhân sự Đại hội XIV phải hội tụ "đủ đức - đủ tài - đủ tâm - đủ tầm - đủ sức - đủ nhiệt huyết cách mạng" để gánh vác trọng trách lịch sử của đất nước. Trong tình hình hiện nay, không có chỗ cho những cán bộ cơ hội, bon chen, trung bình chủ nghĩa, lừng chừng, ngại đổi mới, thu vén cá nhân. Những ai tự thấy mình không đáp ứng yêu cầu thì tự nguyện rút lui, nhường chỗ cho người xứng đáng hơn - tự nguyện đứng về phía sau vì sự phát triển cũng là hành động bản lĩnh, dũng cảm, đáng tự hào, đáng được khen ngợi. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo các cơ quan ở địa phương sau khi sáp nhập, hợp nhất là trách nhiệm của ban thường vụ cấp ủy theo phân cấp, đề nghị các đồng chí phải bàn bạc, thống nhất để bố trí "đúng người, đúng việc" theo tinh thần Kết luận số 150-KL/TW của Bộ Chính trị về hướng dẫn xây dựng nhân sự cấp ủy cấp tỉnh thuộc diện hợp nhất, sáp nhập và cấp xã thành lập mới. Ba là, về văn kiện đại hội đảng các cấp. Dự thảo 4 văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng được thông qua tại Hội nghị Trung ương 11 đã bổ sung nhiều nội dung rất quan trọng, thể hiện tư duy, tầm nhìn mới trong phát triển đất nước, quyết tâm thực hiện 2 mục tiêu 100 năm (đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao). Đồng chí Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã quán triệt đầy đủ với các đồng chí những nội dung này, nhất là những vấn đề cốt lõi như: "xác lập mô hình tăng trưởng mới"; "xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới" "đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia"; phát triển kinh tế tư nhân là "một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia"… Tôi nhấn mạnh thêm: Đây là những vấn đề rất lớn, rất chiến lược. Sắp tới, Trung ương sẽ bàn nhiều về mô hình tăng trưởng mới ở Việt Nam như thế nào? Thế giới họ đi quá xa, họ đã có những nhà máy, bến cảng "không đèn" (hoạt động bằng robot, trí tuệ nhân tạo, tự động hoàn toàn, không còn người trực tiếp, làm được suốt ngày đêm, không giải lao, không ca kíp, không ngừng nghỉ… chỉ tính riêng về thời gian thì năng suất đã tăng gấp 3 - 4 lần), nếu ta không thay đổi thì khó có thể bắt kịp, nguy cơ tụt hậu là thấy rõ; hoặc vấn đề chuẩn bị nguồn nhân lực cho giai đoạn tới như thế nào để có được nguồn nhân lực đủ bản lĩnh, trí tuệ, sức khỏe, tầm nhìn cho đất nước phát triển giai đoạn tới? Nếu không lo ngay từ bây giờ thì khó có thể đạt được… Đại hội đảng các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV diễn ra trong bối cảnh đặc thù, khi chúng ta cùng lúc thực hiện nhiều công việc lớn mang tính cách mạng. Vừa sắp xếp, tinh gọn về tổ chức bộ máy - vừa sắp xếp lại đơn vị hành chính - vừa tăng tốc, bứt phá phát triển kinh tế - vừa tổ chức Đại hội. Vì vậy, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức Đại hội bảo đảm chặt chẽ, bài bản theo đúng tinh thần Chỉ thị số 45-CT/TW của Bộ Chính trị, nhất là những địa phương mới sáp nhập, hợp nhất. Tôi lưu ý cần coi trọng và tập trung nhiều hơn nữa cho công tác chuẩn bị văn kiện (một số nơi đang có biểu hiện xem nhẹ vấn đề này, chủ yếu tập trung cho phương án nhân sự). Các tỉnh ủy, thành ủy tập trung lãnh đạo tổ chức thảo luận thật kỹ lưỡng, sâu sắc, hiệu quả các quan điểm, mục tiêu, chủ trương, định hướng lớn nêu tại dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng; khẩn trương xây dựng, hoàn thiện dự thảo văn kiện của cấp mình, phải hoàn thành dự thảo trước ngày 30/6/2025 (bao gồm cả đối với các tỉnh sau khi sáp nhập). Như vậy là mặc dù chưa sáp nhập chính thức nhưng các đồng chí đã phải tư duy, suy nghĩ để vạch ra đường lối phát triển của tỉnh mới thành lập, xã mới thành lập dựa trên cơ sở không gian, dư địa và nguồn lực mới. Đây là công việc rất quan trọng cần sự đầu tư trí tuệ, công sức và sự phối hợp chặt chẽ của các địa phương với nhau để thực hiện tốt công việc này. Nghị quyết đại hội đảng các cấp từ chi bộ đến cấp ủy cấp xã, tỉnh, ngành sau đại hội là có giá trị triển khai thực hiện ngay, không chờ nghị quyết của cấp trên mới triển khai. Bốn là, về triển khai Nghị quyết Hội nghị Trung ương 11 cùng lúc với thực hiện các công việc lớn quan trọng của đất nước. Chúng ta quán triệt, triển khai Nghị quyết Hội nghị Trung ương 11 trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực đang có những diễn biến hết sức phức tạp, nhất là "cuộc chiến thuế quan toàn cầu" đặt ra nhiều thách thức mới, song cũng là cơ hội để chúng ta khẳng định mình. Chúng ta đã và đang tổ chức thành công nhiều hoạt động đối ngoại quan trọng, nhất là chuyến thăm của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình vừa qua với nhiều thỏa thuận hợp tác quan trọng; Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 4 diễn đàn Đối tác vì tăng trưởng xanh và mục tiêu toàn cầu (P4G) với 46 quốc gia và hơn 1.000 đại biểu quốc tế tham dự, những sự kiện này tiếp tục khẳng định vai trò, vị thế của Việt Nam trên các diễn đàn đa phương và trên trường quốc tế. Cả nước đang tập trung thực hiện cùng lúc nhiều công việc lớn, quan trọng, tập trung tăng tốc, bứt phá phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng từ 8% trở lên trong năm 2025, tạo đà để tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn tiếp theo; tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TW về đẩy mạnh hội nhập quốc tế; sắp tới, Bộ Chính trị sẽ tiếp tục có các Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân, Nghị quyết về phát triển giáo dục, đào tạo… Tất cả các công việc này đều rất quan trọng và đều phải thực hiện theo đúng mục tiêu yêu cầu đề ra, không vì sắp xếp tổ chức mà lơ là nhiệm vụ nào. Các tỉnh ủy, thành ủy cần khẩn trương khắc phục những tồn tại, hạn chế mà 19 đoàn kiểm tra của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ ra, đặc biệt là khắc phục tình trạng một bộ phận lãnh đạo, cán bộ có tâm lý chờ đợi, nghe ngóng sắp xếp tổ chức nên hạn chế tính quyết liệt trong triển khai công việc… Trước mắt, tập trung tổ chức tốt các hoạt động Kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, khơi dậy khí thế hào hùng của cả dân tộc năm xưa, biến thành động lực để thực hiện tốt những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, mang tính cách mạng mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức thực hiện ngày hôm nay. Thưa toàn thể các đồng chí, Công việc phía trước rất bộn bề, khẩn trương. Tôi đề nghị các đồng chí từ Trung ương đến cơ sở có mặt tại Hội nghị hôm nay phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo với quyết tâm cao nhất để hoàn thành các mục tiêu Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã đề ra, chuẩn bị nền tảng vững chắc tiến tới Đại hội XIV của Đảng, đưa đất nước vững vàng tiến vào kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh của dân tộc Việt Nam. Một lần nữa, chúc các đồng chí, đồng bào sức khỏe, hạnh phúc, thành công. Xin trân trọng cảm ơn! | False | | Đưa Nghị quyết vào cuộc sống | | An Giang: Sinh hoạt chính trị tuyên truyền kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước | Tin | Hữu Đặng | An Giang: Sinh hoạt chính trị tuyên truyền kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước | /SiteAssets/TTkn-50nam-3.jpg | | 16/04/2025 3:00 CH | No | Đã ban hành | | (TUAG)- Chiều ngày 16/4, Bộ CHQS tỉnh An Giang đã có buổi sinh hoạt chính trị tuyên truyền kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước với cán bộ, viên chức và người lao động Trường Chính trị Tôn Đức Thắng.  Tại buổi sinh hoạt, các đại biểu đã được Đại tá Nguyễn Thúc Linh, Chính ủy Bộ CHQS tỉnh thông tin về ý nghĩa, bài học lịch sử 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2025). 
Đây là dịp toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức sâu sắc hơn về tầm vóc, giá trị, ý nghĩa lịch sử to lớn của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự chỉ đạo, điều hành, tổ chức, chỉ huy mưu lược, trí tuệ, sáng tạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh; tinh thần đoàn kết, anh dũng kiên cường của quân và dân cả nước; qua đó nâng cao nhận thức, bồi đắp lý tưởng cách mạng, niềm tin của cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân vào sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế dưới sự lãnh đạo của Đảng để đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.  Đại tá Nguyễn Thúc Linh chia sẻ: Phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân và phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới; LLVT tỉnh tích cực học tập, nâng cao trình độ huấn luyện, khả năng sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Nêu cao trách nhiệm trong xây dựng đơn vị, xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, đến năm 2030 xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn, thách thức, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và tiến hành tổ chức tốt đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030 tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; đưa nước ta tiến vào kỷ nguyên phát triển mới… Hữu Đặng | False | | Chính trị | | Đề án sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp | Bài viết | Minh Anh | Đề án sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp | /SiteAssets/phe-duyet-de-an-sap-xep-to-chuc-lai-don-vi-hanh-chinh-cac-cap.jpg | | 15/04/2025 2:00 CH | No | Đã ban hành | | (TUAG)- Ngày 14/4/2025, Phó
Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình vừa ký Quyết định số 759/QĐ-TTg
phê duyệt Đề án sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính
(ĐVHC) các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp
(Đề án).

Ảnh minh họa
Ưu tiên sắp xếp các ĐVHC miền núi, đồng bằng với các ĐVHC có biển Đề
án nêu rõ nguyên tắc sắp xếp ĐVHC. Cụ thể, việc sắp xếp ĐVHC các cấp
ngoài các tiêu chí về diện tích tự nhiên, quy mô dân số theo quy định
của pháp luật,
cần cân nhắc thấu đáo các tiêu chí về lịch sử, truyền thống, văn hóa,
dân tộc; vị trí, điều kiện địa lý; quy mô, trình độ phát triển kinh tế -
xã hội; hạ tầng giao thông, công nghệ thông tin; yêu cầu bảo đảm quốc
phòng, an ninh quốc gia và hội nhập quốc tế. Đặt mục
tiêu cao nhất là phát triển đất nước, mở rộng không gian phát triển cho
ĐVHC mới, phát huy vai trò dẫn dắt của các vùng động lực, hành lang kinh
tế, cực tăng trưởng; ưu tiên sắp xếp các ĐVHC miền núi, đồng bằng với
các ĐVHC có biển; kết hợp hài hòa, hợp lý các ĐVHC có vị trí liền kề gắn
với yêu cầu định hướng phát triển để hỗ trợ lẫn nhau, cùng thúc đẩy
phát triển kinh tế của ĐVHC sau sắp xếp và yêu cầu, định hướng phát
triển nhanh, bền vững của đất nước trong giai đoạn mới. Ưu tiên bố trí
các khu thương mại tự do, khu, cụm công nghiệp, đô thị, cảng biển,
logistics, hồ chứa nước, đập thủy điện,... trong phạm vi 01 ĐVHC cấp xã
để thuận lợi trong quản lý nhà nước. PHƯƠNG ÁN TỔ CHỨC LẠI ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH CÁC CẤP Nguyên tắc xác định tên gọi Đề
án nêu rõ: Việc đặt tên cho ĐVHC sau sắp xếp phải được nghiên cứu kỹ
lưỡng, thấu đáo, cân nhắc thận trọng các yếu tố truyền thống, lịch sử,
văn hóa. Ưu tiên sử dụng một trong các tên gọi của
các ĐVHC trước khi sáp nhập để đặt tên cho ĐVHC hình thành mới, hạn chế
tối đa tác động ảnh hưởng tới người dân, doanh nghiệp do phải chuyển đổi
giấy tờ, chỉ dẫn địa lý liên quan đến ĐVHC cấp tỉnh. Tên
gọi của ĐVHC mới cần dễ nhận diện, ngắn gọn, dễ đọc, dễ nhớ, bảo đảm
tính hệ thống, khoa học và phát huy được lợi thế so sánh của địa phương,
phù hợp với xu thế hội nhập. Nghiên cứu đặt tên của
xã, phường theo số thứ tự hoặc theo tên của ĐVHC cấp huyện (trước sắp
xếp) có gắn với số thứ tự để thuận lợi cho việc số hóa, cập nhật dữ liệu
thông tin. Tên của xã, phường mới sau sắp xếp không
được trùng với tên của ĐVHC cùng cấp hiện có trong phạm vi tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương hoặc phạm vi tỉnh, thành phố dự kiến thành lập
theo định hướng sắp xếp ĐVHC cấp tỉnh đã được cấp có thẩm quyền phê
duyệt. Nguyên tắc xác định trung tâm hành chính - chính trị Lựa
chọn trung tâm hành chính - chính trị của 01 trong số các ĐVHC hiện nay
là trung tâm hành chính - chính trị của ĐVHC mới để bảo đảm chính quyền
địa phương nhanh chóng đi vào hoạt động ổn định. Trung
tâm hành chính - chính trị của ĐVHC mới có vị trí địa lý thuận lợi, hạ
tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, nhất là hệ thống giao thông phát triển
(sân bay, đường bộ, cảng,...), dễ dàng kết nối với các khu vực trong nội
tỉnh, thành phố và các đô thị lớn, trung tâm kinh tế của cả nước hoặc
với hệ thống không gian biển. Trung tâm hành chính -
chính trị của ĐVHC mới cần có không gian phát triển trong tương lai; phù
hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của ĐVHC mới, bảo đảm
hài hòa, hợp lý, tránh sự mất cân đối giữa các địa phương khi sáp nhập
và giữ vững quốc phòng an ninh. Sau khi ĐVHC mới đi
vào hoạt động ổn định, có thể nghiên cứu quy hoạch, xây dựng các trung
tâm hành chính - chính trị mới hợp lý, phù hợp với xu thế phát triển
chung của địa phương và tạo ra không gian phát triển mới. 6 tiêu chí sắp xếp, sáp nhập ĐVHC cấp tỉnh Trên
cơ sở nghiên cứu lịch sử hình thành, phát triển, quá trình sắp xếp ĐVHC
các cấp ở Việt Nam, cơ sở khoa học về các yếu tố cấu thành ĐVHC cấp
tỉnh và kinh nghiệm quốc tế, đề xuất 06 tiêu chí sắp xếp, sáp nhập ĐVHC
cấp tỉnh gồm: Diện tích tự nhiên; quy mô dân số; tiêu chí về lịch sử,
truyền thống, văn hóa, dân tộc; tiêu chí về địa kinh tế; tiêu chí về địa
chính trị; tiêu chí về quốc phòng, an ninh. Căn cứ
vào 6 tiêu chí và định hướng của Bộ Chính trị, Ban Bí thư tại Kết luận
số 127-KL/TW ngày 28/02/2025, Kết luận số 130-KL/TW ngày 14/3/2025 và
kết luận số 137-KL/TW ngày 28/3/2025, Chính phủ đã nghiên cứu kỹ lưỡng,
đa chiều với tư duy đổi mới và tầm nhìn chiến lược xây dựng phương án
sắp xếp, sáp nhập ĐVHC cấp tỉnh trình Bộ Chính trị và Ban Chấp hành
Trung ương thông qua với định hướng cụ thể như sau: Có
tổng số 52 ĐVHC cấp tỉnh thực hiện sắp xếp, gồm: 04 thành phố: Hải
Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ và 48 tỉnh: Hà Nam, Hưng
Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Thái Bình, Hải Dương, Nam Định, Ninh Bình, Bắc
Kạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Hòa Bình, Tuyên Quang,
Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Ninh Thuận, Quảng Trị, Phú Yên, Quảng Bình,
Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Đắk Nông, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Thuận, Bình
Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bến Tre, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Hậu Giang, Trà
Vinh, Tiền Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, An Giang, Long An, Cà Mau, Quảng
Nam, Bình Định, Đắk Lắk, Đồng Nai, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng và Kiên
Giang. Riêng đối với tỉnh Cao Bằng có diện tích tự
nhiên chưa đạt theo quy định (6.700,4 km2 chỉ đạt 83,8% tiêu chuẩn)
nhưng không thực hiện sắp xếp vì các lý do: (1) Tỉnh có đường biên giới
quốc gia rất dài giáp với nước Trung Quốc, địa hình đồi núi cao chia cắt
phức tạp, hiểm trở, có gần 95% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số; (2)
Các tỉnh giáp ranh đều không phù hợp để sắp xếp, sáp nhập: Phía Tây
giáp ranh tỉnh Hà Giang đã dự kiến sáp nhập với tỉnh Tuyên Quang thành
một tỉnh mới có diện tích tự nhiên lớn. Phía Nam giáp ranh với tỉnh Bắc
Kạn nhưng đã dự kiến sáp nhập với tỉnh Thái Nguyên. Phía Đông giáp ranh
với tỉnh Lạng Sơn có diện tích lớn và đã bảo đảm đạt 100% cả 2 tiêu
chuẩn về diện tích và quy mô dân số, nếu sáp nhập tỉnh
Cao Bằng và tỉnh Lạng Sơn sẽ thành một tỉnh mới có chiều dài đường biên
giới lớn, khó khăn trong công tác bảo đảm quốc phòng an ninh. Phương án sắp xếp cụ thể đối với 52 ĐVHC cấp tỉnh 1-
Sáp nhập tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang thành 1 tỉnh mới có tên gọi
là tỉnh Tuyên Quang, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại thành phố
Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự
nhiên 13.795,6 km2 và quy mô dân số 1.731.600 người. 2-
Sáp nhập tỉnh Lào Cai và tỉnh Yên Bái thành 1 tỉnh mới có tên gọi là
tỉnh Lào Cai, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại thành phố Yên
Bái, tỉnh Yên Bái hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên 13.257
km2 và quy mô dân số 1.656.500 người. 3- Sáp nhập
tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Thái Nguyên thành 1 tỉnh mới có tên gọi là tỉnh
Thái Nguyên, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại thành phố Thái
Nguyên, tỉnh Thái Nguyên hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên
8.375,3 km2 và quy mô dân số 1.694.500 người. 4- Sáp
nhập tỉnh Hòa Bình, tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Phú Thọ để thành 1 tỉnh mới
có tên gọi là tỉnh Phú Thọ, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại
thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ hiện nay (giảm 2 tỉnh) có diện tích tự
nhiên 9.361,4 km2 và quy mô dân số 3.663.600 người. 5-
Sáp nhập tỉnh Bắc Giang và tỉnh Bắc Ninh (đã được quy hoạch đến năm
2030 trở thành thành phố trực thuộc trung ương) thành 1 tỉnh mới có tên
gọi là tỉnh Bắc Ninh, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại thành phố
Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên
4.718,6 km2 và quy mô dân số 3.509.100 người. 6- Sáp
nhập tỉnh Thái Bình và tỉnh Hưng Yên thành 1 tỉnh mới có tên gọi là tỉnh
Hưng Yên, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại thành phố Hưng Yên,
tỉnh Hưng Yên hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên 2.514,8 km2 và
quy mô dân số 3.208.400 người. 7- Sáp nhập tỉnh Hải
Dương và thành phố Hải Phòng thành 1 thành phố trực thuộc trung ương có
tên gọi là thành phố Hải Phòng, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại
thành phố Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng hiện nay (giảm 1 tỉnh) có
diện tích tự nhiên 3.194,7 km2 và quy mô dân số 4.102.700 người. 8-
Sáp nhập tỉnh Hà Nam, tỉnh Nam Định và tỉnh Ninh Bình (đã được quy
hoạch đến năm 2030, cơ bản đạt tiêu chí thành phố trực thuộc Trung ương)
thành 1 tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Ninh Bình, trung tâm hành chính -
chính trị đặt tại thành phố Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình hiện nay (giảm 2
tỉnh) có diện tích tự nhiên 3.942,6 km2 và quy mô dân số 3.818.700
người. 9- Sáp nhập tỉnh Quảng Bình và tỉnh Quảng Trị
thành 1 tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Quảng Trị, trung tâm hành chính -
chính trị đặt tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình hiện nay (giảm 1
tỉnh) có diện tích tự nhiên 12.700 km2 và quy mô dân số 1.584.000 người. 10-
Sáp nhập tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng thành 1 thành phố trực
thuộc trung ương có tên gọi là thành phố Đà Nẵng, trung tâm hành chính -
chính trị đặt tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng hiện nay (giảm 1
tỉnh) có diện tích tự nhiên 11.859,6 km2 và quy mô dân số 2.819.900
người. 11- Sáp nhập tỉnh Kon Tum và tỉnh Quảng Ngãi
thành 1 tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Quảng Ngãi, trung tâm hành chính -
chính trị đặt tại thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi hiện nay (giảm 1
tỉnh) có diện tích tự nhiên 14.832,6 km2 và quy mô dân số 1.861.700
người. 12- Sáp nhập tỉnh Gia Lai và tỉnh Bình Định
thành 1 tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Gia Lai, trung tâm hành chính -
chính trị đặt tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định hiện nay (giảm 1
tỉnh) có diện tích tự nhiên 21.576,5 km2 và quy mô dân số 3.153.300
người. 13- Sáp nhập tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Khánh Hòa
(đã được quy hoạch đến năm 2030 trở thành thành phố trực thuộc trung
ương) thành 1 tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Khánh Hòa, trung tâm hành
chính - chính trị đặt tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa hiện nay
(giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên 8555,9km2 và quy mô dân số 1.882.000
người. 14- Sáp nhập tỉnh Đắk Nông, tỉnh Bình Thuận
và tỉnh Lâm Đồng thành 1 tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Lâm Đồng, trung tâm
hành chính - chính trị đặt tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng hiện nay
(giảm 2 tỉnh) có diện tích tự nhiên 24.233,1 km2 và quy mô dân số
3.324.400 người. 15- Sáp nhập tỉnh Phú Yên và tỉnh
Đắk Lắk thành 1 tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Đắk Lắk, trung tâm hành
chính - chính trị đặt tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk hiện nay
(giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên 18.096,4 km2 và quy mô dân số
2.831.300 người. 16- Sáp nhập tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,
tỉnh Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh thành 1 thành phố trực thuộc
trung ương có tên gọi là Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm hành chính -
chính trị đặt tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay (giảm 2 tỉnh),
có diện tích tự nhiên 6.772,6 km2 và quy mô dân số 13.608.800 người. 17-
Sáp nhập tỉnh Bình Phước và tỉnh Đồng Nai thành 1 tỉnh mới có tên gọi
là tỉnh Đồng Nai, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên
12.737,2 km2 và quy mô dân số 4.427.700 người. 18-
Sáp nhập tỉnh Tây Ninh và tỉnh Long An thành 1 tỉnh mới có tên gọi là
tỉnh Tây Ninh, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại thành phố Tân
An, tỉnh Long An hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên 8.536,5
km2 và quy mô dân số 2.959.000 người. 19- Sáp nhập
tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Hậu Giang và thành phố Cần Thơ thành 1 thành phố
trực thuộc trung ương mới có tên gọi là thành phố Cần Thơ, trung tâm
hành chính - chính trị đặt tại quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ hiện
nay (giảm 2 tỉnh), có diện tích tự nhiên 6.360,8 km2 và quy mô dân số
3.207.000 người. 20- Sáp nhập tỉnh Bến Tre, tỉnh Vĩnh
Long và tỉnh Trà Vinh thành 1 tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Vĩnh Long,
trung tâm hành chính - chính trị đặt tại thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh
Long hiện nay (giảm 2 tỉnh) có diện tích tự nhiên 6.296,2 km2 và quy mô
dân số 3.367.400 người. 21- Sáp nhập tỉnh Tiền Giang
và tỉnh Đồng Tháp thành 1 tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Đồng Tháp, trung
tâm hành chính - chính trị đặt tại thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang
(giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên 5.938,7 km2 và quy mô dân số
3.397.200 người. 22- Sáp nhập tỉnh Bạc Liêu và tỉnh
Cà Mau thành 1 tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Cà Mau, trung tâm hành chính -
chính trị đặt tại thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau hiện nay (giảm 1 tỉnh)
có diện tích tự nhiên 7.942,4 km2 và quy mô dân số 2.140.600 người. 23-
Sáp nhập tỉnh Kiên Giang và tỉnh An Giang thành 1 tỉnh mới có tên gọi
là tỉnh An Giang, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại thành phố
Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên
9.888,9 km2 và quy mô dân số 3.679.200 người. Phương án tổ chức lại ĐVHC cấp xã Trên
cơ sở định hướng của Bộ Chính trị, Ban Bí thư tại Kết luận số 127-KL/TW
ngày 28/02/2025, Kết luận số 130-KL/TW ngày 14/3/2025, Kết luận số
137-KL/TW ngày 28/3/2025 và Nghị quyết số 60-NQ/TW Hội nghị lần thứ 11
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Chính phủ đã nghiên cứu, hoàn
thiện kỹ lưỡng, đa chiều với tư duy đổi mới, từ đó đề xuất các nguyên
tắc tổ chức sắp xếp, tổ chức lại các ĐVHC cấp xã hiện nay thành các ĐVHC
cấp xã mới, như sau: Sắp xếp, tổ chức lại các ĐVHC
cấp xã hiện nay theo hướng bỏ cấp trung gian (cấp huyện), hình thành các
ĐVHC cấp xã mới, gồm xã, phường và đặc khu (không còn loại hình ĐVHC
thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương,
thị xã, quận, huyện, thị trấn). ĐVHC cấp xã sau sắp
xếp phải đảm bảo chính quyền địa phương cấp xã quản lý hiệu quả địa bàn,
nắm chắc tình hình, gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân tốt nhất. Trường
hợp sắp xếp phường với các ĐVHC cùng cấp thì ĐVHC sau sắp xếp là
phường; trường hợp sắp xếp xã, thị trấn thì ĐVHC mới sau sắp xếp là xã. Chuyển
các huyện đảo, thành phố đảo hiện nay thành ĐVHC cấp xã có tên gọi là
đặc khu. Theo đó, hình thành 11 đặc khu thuộc tỉnh từ 1 huyện đảo, (11
huyện đảo, gồm: Vân Đồn, Cô Tô, Cát Hải, Trường Sa, Hoàng Sa, Phú Quý,
Kiên Hải, Bạch Long Vĩ, Cồn Cỏ, Lý Sơn, Côn Đảo). Riêng đối với thành
phố Phú Quốc tỉnh Kiên Giang, cấp có thẩm quyền đã đồng ý chủ trương
tách xã Thổ Châu thuộc thành phố Phú Quốc để thành lập 01 huyện riêng,
theo đó nghiên cứu thành lập 02 đặc khu: Phú Quốc và Thổ Châu. Trường
hợp thực hiện sắp xếp ĐVHC cấp xã làm thay đổi địa giới ĐVHC cấp huyện
thì không phải xem xét điều kiện, tiêu chuẩn và không phải thực hiện quy
trình, thủ tục điều chỉnh địa giới của ĐVHC cấp huyện mà ĐVHC cấp xã đó
trực thuộc. Không bắt buộc sắp xếp đối với các ĐVHC
cấp xã có vị trí biệt lập và khó tổ chức giao thông kết nối với các ĐVHC
liền kề hoặc có vị trí đặc biệt quan trọng ảnh hưởng đến quốc phòng, an
ninh và việc bảo vệ chủ quyền quốc gia. Tổng số
lượng ĐVHC xã, phường sau sắp xếp giảm khoảng 60 - 70% so với số lượng
ĐVHC cấp xã hiện nay trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
đồng thời phải bảo đảm tương quan hợp lý, tránh tạo sự giãn cách, chênh
lệch lớn về diện tích tự nhiên và quy mô dân số giữa các xã, phường mới
sau sắp xếp. TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG 02 CẤP Theo
Đề án, phương án tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp như sau: Cấp
tỉnh gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; (2) cấp xã gồm xã,
phường (trong đất liền) và đặc khu (ở hải đảo). Theo đó, bỏ ĐVHC cấp
huyện và thị trấn. 
Cơ cấu tổ chức chính quyền địa phương cấp tỉnh cơ bản giữ nguyên như chính quyền địa phương cấp tỉnh như hiện nay. Chính
quyền địa phương cấp tỉnh gồm có Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban
nhân dân (UBND); HĐND tỉnh thành lập 03 Ban là Ban Pháp chế, Ban Kinh tế
- Ngân sách, Ban Văn hóa - Xã hội (đối với tỉnh có nhiều đồng bào dân
tộc thiểu số có thể thành lập thêm Ban Dân tộc). HĐND thành phố trực
thuộc trung ương thành lập 04 Ban (Ban Pháp chế, Ban Kinh tế - Ngân
sách, Ban Văn hóa - Xã hội và Ban Đô thị) theo quy định của Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2025. Số lượng cán bộ, công chức, viên chức của cấp tỉnh sau sắp xếp
tối đa không vượt quá tổng số cán bộ, công chức, viên chức (số có mặt)
của cấp tỉnh trước sắp xếp và thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ
cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, bảo
đảm trong thời hạn 05 năm cơ bản bố trí theo đúng quy định. Sau khi
chính quyền địa phương cấp tỉnh sau sắp xếp đi vào hoạt động, đề nghị Bộ
Chính trị giao Ban Tổ chức Trung ương phối hợp với Đảng ủy Chính phủ và
các cơ quan liên quan căn cứ quy mô dân số, diện tích tự nhiên, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp tỉnh để xây
dựng, hoàn thiện vị trí việc làm trình cấp có thẩm quyền giao biên chế
cho các địa phương. Về phương án bố trí đội ngũ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh: Đề
nghị Bộ Chính trị giao Ban Tổ chức Trung ương tham mưu, hướng dẫn bố
trí, sắp xếp đội ngũ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh (Đảng, đoàn thể, HĐND,
UBND cấp tỉnh và các Ban chuyên môn của cơ quan Đảng, đoàn thể) của các
địa phương sau sáp nhập, đặc biệt là nhân sự bố trí đối với cấp trưởng
và định hướng giải quyết đối với số lượng cấp phó dôi dư sau sáp nhập
các tỉnh, thành phố. Chính phủ chỉ đạo Bộ Nội vụ hướng dẫn việc sắp xếp,
bố trí đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của các cơ quan chuyên môn,
tổ chức hành chính khác thuộc UBND cấp tỉnh và các đơn vị sự nghiệp
công lập. Trước mắt, giữ nguyên số lượng cán bộ, công chức, viên chức
trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị; sau khi các cơ quan này đi vào hoạt
động ổn định, giao Bộ Nội vụ phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương rà
soát, hoàn thiện vị trí việc làm, xác định biên chế các địa phương trình
cấp có thẩm quyền giao biên chế của cả hệ thống chính trị ở các địa
phương. Tổ chức chính quyền địa phương cấp xã (xã, phường, đặc khu) Chính quyền địa phương cấp xã gồm có HĐND và UBND. HĐND cấp xã thành lập 02 Ban là Ban Pháp chế và Ban Kinh tế - Xã hội. Về
tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp xã: Do bỏ toàn bộ ĐVHC cấp
huyện, tổ chức sắp xếp lại các ĐVHC cấp xã để hình thành các ĐVHC cấp xã
có quy mô lớn hơn so với cấp xã hiện nay; đồng thời chuyển toàn bộ
nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp huyện hiện nay về cho
xã, phường, đặc khu thực hiện. Theo đó, Chính phủ dự kiến UBND cấp xã
tổ chức tối đa 04 Phòng chuyên môn và tương đương phù hợp với đặc điểm
đô thị, nông thôn, hải đảo (đặc khu). Đối với ĐVHC
cấp xã giữ nguyên trạng (không sắp xếp) thì có thể không tổ chức Phòng
chuyên môn. Chính phủ dự kiến bố trí tăng thêm 01 Phó Chủ tịch UBND và
một số công chức cho UBND cấp xã nơi không tổ chức Phòng chuyên môn và
giao chính quyền địa phương cấp tỉnh quyết định cụ thể đối với từng ĐVHC
cấp xã trên địa bàn. Đối với trường hợp sắp xếp từ
02 ĐVHC cấp xã trở lên thành 01 ĐVHC cấp xã mới, định hướng tổ chức tối
đa 04 Phòng chuyên môn và tương đương thuộc UBND cấp xã. Định hướng tổ chức 04 Phòng và tương đương gồm: (1) Văn phòng HĐND và UBND (tham mưu thực hiện nhiệm vụ chung của HĐND và UBND cấp xã); (2) Phòng Kinh tế (đối với xã, đặc khu) hoặc Phòng Kinh tế, Hạ tầng và Đô thị (đối với phường và đặc khu Phú Quốc); (3) Phòng Văn hóa - Xã hội; (4) Trung tâm phục vụ hành chính công. Về biên chế cán bộ, công chức, viên chức cấp xã, Đề
án nêu rõ: Do quy mô ĐVHC cấp xã lớn hơn so với hiện nay và nhiệm vụ,
quyền hạn của chính quyền địa phương cấp xã tăng lên (thực hiện toàn bộ
nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp huyện và cấp xã hiện
nay). Theo đó, Chính phủ dự kiến biên chế cán bộ, công chức, viên chức
cấp xã theo định hướng như sau: Trước mắt giữ nguyên số lượng biên chế
cán bộ, công chức, viên chức của cấp huyện và cán bộ, công chức của cấp
xã hiện có trước sắp xếp để bố trí cho các ĐVHC cấp xã mới (sau sắp
xếp). Thực hiện việc rà soát, tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại và
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cấp xã đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ, bảo đảm trong thời hạn 05 năm cơ bản theo đúng quy
định. Giao Bộ Nội vụ phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương và các cơ quan
liên quan căn cứ quy mô dân số, diện tích tự nhiên, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của chính quyền địa phương cấp xã làm cơ sở xây dựng, hoàn
thiện vị trí việc làm trình cấp có thẩm quyền giao biên chế cán bộ, công
chức, viên chức cấp xã cho các địa phương. Kết thúc
việc sử dụng người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; giao chính
quyền địa phương xem xét, có thể sắp xếp người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tham gia công tác tại thôn, tổ
dân phố; thực hiện chính sách nghỉ việc đối với người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã mà không bố trí công tác theo quy định. Căn
cứ quy mô dân số, diện tích tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế-xã
hội của các ĐVHC cấp xã, Chính phủ định hướng giao tổng biên chế chính
quyền địa phương cấp xã cho các địa phương (dự kiến bình quân khoảng 32
biên chế/01 cấp xã). Trên cơ sở đó, giao chính quyền địa phương cấp tỉnh
quyết định số lượng biên chế đối với chính quyền địa phương từng ĐVHC
cấp xã trên địa bàn cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn. P.V
| False | | Đưa Nghị quyết vào cuộc sống | | Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị mới về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng | Bài viết | Minh Anh | Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị mới về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng | /SiteAssets/Khaimac-HNTW11-1.jpg | | 14/04/2025 6:00 CH | No | Đã ban hành | | (TUAG)- Ngày
14/4, Tổng Bí thư Tô Lâm thay mặt Bộ Chính trị đã ký ban hành Chỉ thị
số 45-CT/TW về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIV của Đảng. Cổng TTĐT Đảng bộ tỉnh An Giang lược đăng một số nội
dung quan trọng của Chỉ thị này.
Quang cảnh Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.
Chỉ
thị số 45-CT/TW của Bộ Chính trị chỉ rõ, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIV của Đảng tổ chức vào đầu năm 2026 là sự kiện chính trị quan
trọng của Đảng, trọng đại của đất nước; là dấu mốc đặc biệt trên con
đường phát triển, mở ra kỷ nguyên mới, "kỷ nguyên vươn mình của dân
tộc", "tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc"; đồng thời, là
thời điểm tiến hành mạnh mẽ cuộc cách mạng toàn diện, đồng bộ về sắp
xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của hệ thống chính trị. Đại hội tiến hành kiểm điểm 5 năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; tổng
kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam; tổng kết công tác
xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng; đánh giá 5 năm thực hiện Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, phương hướng, nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2026 - 2030 và những năm tiếp
theo; bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIV nhiệm kỳ 2026 - 2031. Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 -
2030 là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, diễn ra trong bối cảnh nước ta
đạt được nhiều thành tựu to lớn, kết quả quan trọng, nổi bật, toàn diện
trên các lĩnh vực: xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; phát triển kinh tế -
xã hội, quốc phòng, an ninh và công tác đối ngoại. Vai trò, tiềm lực, vị
thế, uy tín quốc tế của đất nước ta tiếp tục được nâng cao; sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy mạnh mẽ; niềm tin của Nhân dân
đối với Đảng ngày càng được củng cố, tăng cường...
Văn kiện Đại hội phải ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm và dễ kiểm tra Chỉ thị số 45-CT/TW nêu rõ yêu cầu, công
tác chuẩn bị và tổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp phải được các cấp ủy
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện theo đúng quy định, nguyên tắc của
Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy đầy đủ thẩm
quyền, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu cấp ủy
các cấp; bảo đảm an toàn, thiết thực, hiệu quả, không phô trương hình
thức, kiên quyết chống lãng phí, tiêu cực. Tiếp tục nâng cao năng lực
lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; củng cố,
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và niềm tin của cán bộ,
đảng viên, Nhân dân đối với Đảng. Nâng cao chất lượng văn kiện Đại hội
Đảng bộ các cấp gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện chủ trương,
nghị quyết của Trung ương Đảng về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy
trong toàn hệ thống chính trị; tập trung lãnh đạo tổ chức thảo luận
thật kỹ lưỡng, sâu sắc, hiệu quả các quan điểm, mục tiêu, chủ
trương, định hướng lớn nêu tại dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của
Đảng và Đại hội Đảng bộ cấp trên; dự báo được tình hình, xác định rõ
thế mạnh, định hướng, trọng tâm phát triển gắn với chiến lược, nhiệm
vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội của khu vực, các đơn vị
hành chính mới được thành lập và cả nước; văn kiện Đại hội phải
ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm và dễ kiểm tra. Báo cáo chính trị phải đánh giá trung
thực, khách quan, toàn diện tình hình và kết quả thực hiện nghị quyết
Đại hội nhiệm kỳ 2020 - 2025, nhất là các nhiệm vụ trọng tâm, đột
phá công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại; chỉ rõ ưu điểm, khuyết
điểm, nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, rút ra những bài học
kinh nghiệm sâu sắc trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực
hiện. Đồng thời, xác định rõ phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp nhiệm kỳ tới sát với tình hình, bối cảnh, yêu cầu mới và có tính
khoa học, khả thi cao. Công tác nhân sự "làm đến đâu chắc đến đó" Chỉ thị số 45-CT/TW nêu rõ, công tác
nhân sự phải bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, cấp ủy
các cấp và đề cao vai trò, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và người
đứng đầu theo quy định. Bảo đảm sự kế thừa, đổi mới và phát triển liên
tục của đội ngũ cán bộ; đề cao, coi trọng chất lượng, có số lượng và
cơ cấu hợp lý, tăng cường ở các vị trí, địa bàn, lĩnh vực quan
trọng, trọng yếu. Cấp ủy khóa mới phải tiêu biểu về bản
lĩnh chính trị, trí tuệ, phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực, uy
tín; thật sự là trung tâm đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, thống nhất ý
chí và hành động; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tầm nhìn, tư
duy đổi mới, gắn bó mật thiết với Nhân dân; có năng lực lãnh đạo, cầm
quyền, có sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn
phát triển mới để thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng bộ các
cấp, Nghị quyết Đại hội XIV của Đảng. Công tác chuẩn bị nhân sự, bầu cử hoặc
chỉ định phải thực hiện nghiêm, đúng nguyên tắc, quy định của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; bảo đảm đồng bộ, tổng thể, liên thông, chặt
chẽ, dân chủ, khoa học, khách quan, công tâm, minh bạch, trách nhiệm
giải trình; bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất cao; làm thận trọng từng
bước, "làm đến đâu chắc đến đó"; gắn kết chặt chẽ với công tác quy
hoạch, chuẩn bị nhân sự lãnh đạo các cơ quan đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc (gồm các tổ chức chính trị - xã hội) nhiệm kỳ tới, đáp
ứng yêu cầu thực tiễn. Chú trọng phát hiện, lựa chọn, giới
thiệu những cán bộ tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức,
đã kinh qua thực tiễn, có thành tích, kết quả, sản phẩm công tác và
quan tâm cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số, cán
bộ có trình độ khoa học, công nghệ. Đánh giá cán bộ phải toàn diện, khách
quan, thực chất, đúng quy định, đúng thẩm quyền; lấy phẩm chất chính
trị, đạo đức, lối sống, hiệu quả công tác và uy tín của cán bộ làm
thước đo, tiêu chí cơ bản để đánh giá. Phải kế thừa, đổi mới mạnh mẽ,
đồng bộ công tác thẩm định nhân sự trên cơ sở mở rộng, phát huy tối
đa trách nhiệm của các cơ quan chức năng; chủ động rà soát, thẩm
tra, thẩm định chặt chẽ, kỹ lưỡng tiêu chuẩn, điều kiện, kê khai tài
sản, thu nhập, thông tin, trách nhiệm của nhân sự liên quan đến các
kết luận kiểm tra, thanh tra, kiểm toán hoặc vụ án, vụ việc của các
cơ quan chức năng đã xem xét, kết luận và kết quả giải quyết đơn,
thư khiếu nại, tố cáo... Không sử dụng thông tin giả, thông tin không
phải của cơ quan có thẩm quyền, thông tin không chính thức trên
Internet, mạng xã hội, thông tin, dư luận xấu chưa được kiểm chứng
liên quan đến nhân sự và công tác chuẩn bị nhân sự. Không để lọt những người kê khai tài sản, thu nhập không trung thực Chỉ thị số 45-CT/TW cũng nêu rõ yêu cầu,
có cơ chế, tiêu chí sàng lọc hiệu quả để không bỏ "sót” những người
thật sự có đức, có tài; đồng thời, kiên quyết không để "lọt" vào cấp ủy
khóa mới những người: Bản lĩnh chính trị không vững vàng, dao động,
không kiên định đường lối, quan điểm của Đảng; phẩm chất đạo đức, năng
lực, uy tín giảm sút, ý thức tổ chức kỷ luật kém, mất đoàn kết; né
tránh, đùn đẩy, sợ trách nhiệm, không dám làm; có biểu hiện cơ hội
chính trị, tham vọng quyền lực, tư duy nhiệm kỳ, xu nịnh - chạy chọt,
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu, cục bộ, "lợi ích nhóm", có
biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự
diễn biến", "tự chuyển hoá"; vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của
Nhà nước; vi phạm tiêu chuẩn chính trị, những điều đảng viên không
được làm và quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ; kê
khai tài sản, thu nhập không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh,
nhiều tài sản mà không giải trình rõ được nguồn gốc; vi phạm trách
nhiệm nêu gương, để bản thân hoặc vợ (chồng), con có lối sống thiếu
gương mẫu, lợi dụng chức, quyền để thu lợi bất chính; để nội bộ mất
đoàn kết nghiêm trọng hoặc xảy ra tham nhũng, thất thoát lớn, vụ việc
tiêu cực gây ảnh hưởng xấu ở địa phương, cơ quan, đơn vị trong thời
gian phụ trách. Nhân sự không trúng cử cấp ủy cấp dưới, thì không giới
thiệu để bầu cấp ủy cấp trên... Nội dung Đại hội Đảng bộ các cấp Chỉ thị số 45-CT/TW chỉ rõ, Đại hội Đảng
bộ các cấp thực hiện 4 nội dung sau: (1) Tổng kết thực hiện nghị quyết
đại hội đảng bộ nhiệm kỳ 2020 - 2025 và xác định phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp của nhiệm kỳ 2025 - 2030. (2) Thảo luận, đóng góp ý
kiến vào dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng và văn kiện Đại hội
Đảng bộ cấp trên trực tiếp. (3) Bầu Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 2025 -
2030. (4) Bầu đoàn đại biểu dự Đại hội Đảng bộ cấp trên. Những nơi thực sự có khó khăn về công
tác chuẩn bị nhân sự, được cấp ủy có thẩm quyền đồng ý, thì Đại hội với 3
nội dung, chưa tiến hành bầu cấp uỷ khoá mới. Những Đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương hợp nhất, sáp nhập; Đảng bộ xã, phường, đặc khu trực thuộc
cấp tỉnh (gồm cả các xã không sáp nhập, các xã thuộc diện hợp nhất, sáp
nhập đã tổ chức Đại hội), Đảng bộ (Chi bộ) hợp nhất, sáp nhập, thành lập
mới theo chủ trương, nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá XIII về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ
máy các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị, thì Đại hội với 2 nội
dung (tổng kết việc thực hiện nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ 2020 - 2025
trên cơ sở nội dung nghị quyết Đại hội của các Đảng bộ, Chi bộ trước khi
hợp nhất, sáp nhập; xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp nhiệm kỳ 2025 2030 và thảo luận, đóng góp ý kiến vào dự thảo văn
kiện Đại hội XIV của Đảng, dự thảo văn kiện Đại hội cấp trên trực tiếp),
không bầu cấp ủy khoá mới và đoàn đại biểu dự Đại hội cấp trên. Ban
Thường vụ cấp uỷ cấp trên trực tiếp chỉ định Ban Chấp hành, Ban Thường
vụ, bí thư, phó bí thư, uỷ ban kiểm tra, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm uỷ ban
kiểm tra cấp ủy nhiệm kỳ khoá mới và phân bổ số lượng, chỉ định đại
biểu dự Đại hội Đảng bộ cấp trên. Đối với các Đảng bộ cấp xã không hợp
nhất, sáp nhập nếu đã tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 2025 - 2030, thì: (i) Tổ
chức hội nghị Ban Chấp hành để thảo luận các dự thảo văn kiện Đại hội
Đảng bộ cấp trên trực tiếp theo quy định. (ii) Căn cứ tiêu chuẩn, điều
kiện, cơ cấu, số lượng theo Chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Thường vụ tỉnh
ủy, thành ủy tiếp tục chỉ đạo rà soát, kiện toàn nhân sự cấp ủy nhiệm
kỳ 2025 - 2030 và nhân sự đại biểu dự Đại hội Đảng bộ cấp trên, bảo đảm
theo đúng quy định. Dự thảo văn kiện của cấp ủy trình Đại hội gồm 2 báo cáo chủ yếu Báo cáo chính trị của Đảng bộ là báo cáo
trung tâm, có vai trò định hướng cho các văn kiện khác; phải đánh giá
toàn diện, khách quan, trung thực tình hình, kết quả đạt được, ưu điểm,
hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm cho phù hợp với tình hình,
yêu cầu nhiệm vụ mới; đồng thời, tiếp thu những quan điểm chỉ đạo, chủ
trương, định hướng lớn trong các dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng,
của cấp trên, dự báo được tình hình để đề ra phương hướng, mục tiêu, chỉ
tiêu, nhiệm vụ, giải pháp có tính khả thi cho nhiệm kỳ 2025 - 2030, chú
ý các nhiệm vụ, giải pháp đột phá với tầm nhìn dài hạn. Báo
cáo kiểm điểm của cấp ủy phải có tính chiến đấu, nêu cao tinh thần tự
phê bình và phê bình; đánh giá đúng, khách quan, toàn diện, trung thực
về kết quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện trong nhiệm
kỳ 2020 - 2025; kết quả thực hiện các nghị quyết, kết luận Hội nghị
Trung ương 4 khoá XI, XII, XIII gắn với việc học tập, làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Quy định những điều đảng viên không
được làm và các quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người
đứng đầu; chỉ rõ nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan của những hạn
chế, khuyết điểm, yếu kém và xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá
nhân; đồng thời, phải đề ra kế hoạch, lộ trình, biện pháp hiệu quả nhằm
sửa chữa, khắc phục trong nhiệm kỳ 2025 - 2030. Tiêu chuẩn cấp ủy viên Về tiêu chuẩn cấp ủy viên, Chỉ thị số
45-CT/TW nêu rõ, việc lựa chọn, giới thiệu nhân sự cấp ủy khoá mới phải
quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá XII; tiêu chuẩn cán bộ nêu tại Quy định số
89-QĐ/TW ngày 4/8/2017, Quy định số 214-QĐ/TW ngày 2/1/2020 của Bộ Chính
trị khoá XII và các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, cấp uỷ
các cấp căn cứ vào yêu cầu, tiêu chuẩn chung nêu tại Chỉ thị này để cụ
thể hoá cho phù hợp với tình hình, đặc điểm ở cấp mình theo quy định. Thời điểm tính độ tuổi tham gia cấp uỷ, chính quyền, MTTQ (gồm các tổ chức chính trị - xã hội) Thời điểm tính độ tuổi tham gia cấp ủy
(là thời điểm bắt đầu tổ chức Đại hội Đảng bộ ở mỗi cấp): cấp cơ sở là
tháng 4/2025; cấp trên trực tiếp cơ sở (gồm cả đảng bộ trực thuộc Đảng
ủy Công an Trung ương) là tháng 6/2025; đảng bộ các xã, phường, đặc khu
trực thuộc cấp tỉnh là tháng 7/2025; cấp trực thuộc Trung ương là tháng
9/2025. Thời điểm tính độ tuổi tham gia chức danh lãnh đạo HĐND, UBND, đoàn đại biểu Quốc hội tháng 3/2026. Thời điểm tính độ tuổi tham gia chức
danh lãnh đạo MTTQ (gồm các tổ chức chính trị - xã hội) là thời điểm đại
hội ở các cấp của mỗi tổ chức. Độ tuổi tham gia cấp ủy, chính quyền, MTTQ (gồm các tổ chức chính trị - xã hội) Những đồng chí lần đầu tham gia cấp ủy,
chính quyền, MTTQ (gồm các tổ chức chính trị - xã hội) phải còn thời
gian công tác ít nhất trọn 1 nhiệm kỳ trở lên tại thời điểm bắt đầu tổ
chức Đại hội Đảng bộ ở mỗi cấp, thời điểm bầu cử hoặc đại hội của mỗi tổ
chức theo quy định tại về “Thời điểm tính độ tuổi tham gia cấp uỷ,
chính quyền, MTTQ (gồm các tổ chức chính trị - xã hội)” nêu trên. Những đồng chí được giới thiệu tái cử
cấp ủy phải còn thời gian công tác ít nhất từ 48 tháng trở lên tại thời
điểm bắt đầu tổ chức đại hội đảng bộ ở mỗi cấp. Trường hợp đặc biệt đối
với nhân sự là phó bí thư tỉnh uỷ, thành ủy phải còn thời gian công tác
ít nhất từ 42 tháng trở lên. Cán bộ tái cử cấp ủy thì được tái cử các
chức danh lãnh đạo chính quyền, MTTQ (gồm các tổ chức chính - xã hội)
nhưng phải còn thời gian công tác ít nhất 36 tháng trở lên tại thời điểm
bầu cử hoặc đại hội của mỗi tổ chức. Thời điểm bầu cử hoặc đại hội của
mỗi tổ chức theo quy định tại “Thời điểm tính độ tuổi tham gia cấp ủy,
chính quyền, MTTQ (gồm các tổ chức chính trị - xã hội)” nêu trên. Các
đồng chí ủy viên Trung ương Đảng khoá XIII thực hiện quy định về độ
tuổi tái cử theo Phương hướng công tác nhân sự Đại hội XIV của Đảng. Độ
tuổi tái cử uỷ ban kiểm tra các cấp: giao Ủy ban Kiểm tra Trung ương cụ
thể hoá, hướng dẫn theo định hướng tăng thời gian tối thiểu tái cử ủy
ban kiểm tra từ 24 tháng thành 42 tháng (tăng 18 tháng so với quy định
hiện nay), bảo đảm đồng bộ, thống nhất với độ tuổi tái cử cấp uỷ theo
quy định của Bộ Chính trị. Thời gian tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp Đại hội đảng viên hoặc Đại hội đại biểu cấp cơ sở không quá 2 ngày, hoàn thành trước ngày 30/6/2025. Đại hội đại biểu Đảng bộ cấp trên trực
tiếp cơ sở và Đảng bộ xã, phường, đặc khu không quá 2 ngày, hoàn thành
trước ngày 31/8/2025. Đại hội đại biểu Đảng bộ trực thuộc
Trung ương không quá 4 ngày (đối với những nơi tiến hành đại hội 2 nội dung thời gian
có thể ngắn hơn), hoàn thành trước ngày 31/10/2025. Thời gian họp trù bị được tính vào thời gian tiến hành đại hội, đối với cấp trên trực tiếp cơ sở trở lên không quá 1/2 ngày. Thời gian tổ chức đại hội điểm: cấp trên trực tiếp cơ sở vào đầu quý III/2025; cấp trực thuộc Trung ương trong quý III/2025. Việc kiện toàn, bổ sung cấp ủy viên, ủy
viên ban thường vụ cấp uỷ nhiệm kỳ 2020 - 2025 thực hiện theo Kết luận
số 128-KL/TW ngày 7/3/2025 của Bộ Chính trị về chủ trương công tác cán
bộ. Chỉ thị số 45-CT/TW cũng nêu rõ công tác
chuẩn bị văn kiện Đại hội và tổ chức thảo luận, công tác chuẩn bị nhân
sự và bầu cử cấp uỷ, cơ cấu, số lượng cấp uỷ viên, uỷ viên ban thường vụ
và phó bí thư cấp uỷ, quy trình nhân sự cấp uỷ, thực hiện bầu cử trong
Đại hội, cơ cấu, số lượng đại biểu và việc bầu đại biểu dự Đại hội cấp
trên; tổ chức thực hiện...
| False | | Chính trị | | Thông báo Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII | Tin | H.T | Thông báo Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII | /SiteAssets/Khaimac-HNTW11-1.jpg | | 13/04/2025 10:00 SA | No | Đã ban hành | | (TUAG)-
Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa, Hội nghị lần thứ 11
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII họp từ ngày 10/4 đến ngày
12/4/2025 tại Thủ đô Hà Nội.
Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII họp từ ngày 10/4 đến ngày 12/4/2025 tại Thủ đô Hà Nội. Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thảo luận, cho ý kiến về 02 nhóm vấn đề: Nhóm vấn đề tiếp tục sắp xếp, tinh gọn các cơ quan hệ thống chính
trị, sắp xếp đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp:
(1) Báo cáo về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo Kết
luận số 127-KL/TW, ngày 28/02/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trình
Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. (2) Đề án
sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ
chức chính quyền địa phương 2 cấp. (3) Đề án sắp xếp, tinh gọn cơ quan
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần
chúng do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ (cấp Trung ương, cấp tỉnh và cấp
xã). (4) Đề án tiếp tục sắp xếp, tinh gọn bộ máy Tòa án nhân dân hoạt
động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình
hình mới. (5) Đề án tiếp tục sắp xếp, tinh gọn bộ máy Viện Kiểm sát nhân
dân theo định hướng không tổ chức cấp huyện. (6) Đề án hệ thống tổ chức
đảng ở địa phương (cấp tỉnh và cấp xã). (7) Đề án rà soát, sửa đổi, bổ
sung Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước phục vụ việc sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị. (8) Dự thảo Quy định thi hành Điều lệ Đảng
và Dự thảo Quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Nhóm vấn đề công tác chuẩn bị Đại hội XIV và bầu cử Quốc hội khóa
XVI, bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031: (1) Dự thảo
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. (2) Dự thảo Báo cáo "Tổng
kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam". (3) Dự thảo Báo cáo
đánh giá 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2021 - 2030; phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2026 - 2030. (4) Dự thảo Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XIII tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng trình Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. (5) Phương hướng công tác
nhân sự Đại hội XIV của Đảng. (6) Rà soát, bổ sung quy hoạch Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XIV. (7) Sửa đổi, bổ sung, thay thế Chỉ thị số
35-CT/TW, ngày 14/6/2024 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp
tiến tới Đại hội XIV của Đảng để tiếp tục thực hiện chủ trương sắp xếp,
tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. (8) Đề án phương hướng
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
nhiệm kỳ 2026 - 2031. Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII cho ý kiến (bằng văn bản) về một số nội dung quan trọng khác. Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì và có bài phát biểu quan trọng khai mạc, bế mạc Hội nghị. 1. Ban Chấp hành Trung ương đã thống nhất nội dung cơ bản các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV: Báo
cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; Báo cáo tổng kết một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam; Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XIII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ
Đảng trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; Báo cáo đánh
giá 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 -
2030; phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2026 -
2030. 1.1. Về dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng Ban Chấp hành Trung ương thống nhất đánh giá dự thảo Báo cáo đã được
chuẩn bị công phu, toàn diện, sâu sắc; tiếp thu tối đa những ý kiến đóng
góp tại Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII; tập trung trình bày những
nhận định, đánh giá chung, khái quát về những kết quả thực hiện Nghị
quyết Đại hội XIII; tiếp tục cập nhật tình hình hiện nay, nhất là những
quyết sách chiến lược mới mang tính cách mạng. Ban Chấp hành Trung ương đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc, trí tuệ,
trách nhiệm nhằm tiếp tục hoàn thiện dự thảo Báo cáo, trong đó, tập
trung nghiên cứu, đóng góp nhiều ý kiến đánh giá khách quan về thành
tựu, hạn chế và nguyên nhân; bài học kinh nghiệm rút ra sau 5 năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội XIII; cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín đất nước
qua 40 năm đổi mới; các quan điểm chỉ đạo cần được quán triệt, thực hiện
trong nhiệm kỳ tới; mục tiêu phát triển tổng quát, các mục tiêu phát
triển chủ yếu giai đoạn 2026 - 2030; cấu trúc và nội dung 13 định hướng
phát triển đất nước giai đoạn 2026 - 2030, trong đó có việc tiếp tục xây
dựng, hoàn thiện thể chế; cơ cấu lại nền kinh tế; phát triển mạnh mẽ,
toàn diện văn hóa và con người Việt Nam; xây dựng nền giáo dục quốc dân;
đột phá phát triển khoa học công nghệ; quản lý phát triển xã hội bền
vững; quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường quốc phòng, an
ninh; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; phát huy mạnh mẽ
vai trò chủ thể của Nhân dân; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh
đốn Đảng… 1.2. Về dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong
40 năm qua ở Việt Nam Ban Chấp hành Trung ương thống nhất đánh giá, dự thảo Báo cáo "Tổng
kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam" đã cập nhật, tiếp
thu những quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, những kết
quả trong đổi mới tổ chức bộ máy tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực,
hiệu quả và những biến động trên thế giới trong thời gian gần đây; biên
tập, cập nhật nội dung, diễn đạt lại, bổ sung các số liệu, đánh giá mới,
nhất là các ý kiến nhận định của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về những
thành tựu trong kinh tế, văn hóa, xã hội và con người, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. 1.3. Về dự thảo Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XIII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng
trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng Ban Chấp hành Trung ương thống nhất đánh giá dự thảo Báo cáo đã cập
nhật, bổ sung các nội dung mới theo tinh thần chỉ đạo của Trung ương từ
Hội nghị Trung ương lần thứ 10 đến nay, nhất là những tư tưởng, quan
điểm chỉ đạo rất quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm tại cuộc làm
việc ngày 27/02/2025 và 06/3/2025; được rút gọn để thể hiện tính hành
động, cô đọng, súc tích. 1.4. Về dự thảo Báo cáo đánh giá 5 năm thực hiện Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030; phương hướng, nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2026 - 2030 (gọi tắt là dự thảo Báo cáo Kinh tế - Xã hội) Ban Chấp hành Trung ương thống nhất đánh giá dự thảo Báo cáo Kinh tế -
Xã hội đã tiếp thu ý kiến Trung ương (tại Hội nghị Trung ương 10 và Hội
nghị Trung ương tháng 01/2025); các bài viết, bài phát biểu và nhất là
chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm tại cuộc họp với Thường trực các
Tiểu ban và Tiểu ban Kinh tế - Xã hội; các nghị quyết, kết luận của
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tình hình thực tiễn diễn ra trong,
ngoài nước và dự thảo Báo cáo Chính trị của Tiểu ban Văn kiện. Trên cơ
sở nghiên cứu, cập nhật bối cảnh và chỉ đạo mới cùng những quyết sách
chiến lược mang tính lịch sử đã và đang được thực hiện, dự thảo Báo cáo
Kinh tế - Xã hội được bổ sung, hoàn thiện theo hướng có tính cách mạng,
hành động, khả thi cao, ngắn gọn, súc tích, có trọng tâm, trọng điểm
hơn. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị căn cứ ý kiến thảo luận
của Trung ương và Báo cáo tiếp thu, giải trình của Bộ Chính trị để chỉ
đạo các Tiểu ban Đại hội XIV tiếp thu, hoàn thiện các dự thảo văn kiện
trên để lấy ý kiến đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030 theo quy
định. 2. Ban Chấp hành Trung ương cơ bản thống nhất dự thảo Phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV Ban Chấp hành Trung ương thống nhất đánh giá dự thảo Phương hướng
công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV đã tiếp thu ý
kiến của Trung ương tại Hội nghị Trung ương 10, ý kiến tham gia, góp ý
của các đồng chí nguyên lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước và chủ
trương, Nghị quyết của Trung ương về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy
các cơ quan, đơn vị và địa phương trong hệ thống chính trị. Ban Chấp
hành Trung ương đã thảo luận, cân nhắc kỹ lưỡng, nhiều mặt và xuất phát
từ yêu cầu thực tiễn, căn cứ quy định hiện hành của Đảng và kế thừa quy
định về số lượng, cơ cấu của một số nhiệm kỳ gần đây, xác định phương
hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV bảo đảm sự
lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư đối với các lĩnh vực công tác quan trọng sau khi thực hiện
sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy các cơ quan, đơn vị, địa phương trong
hệ thống chính trị và chủ động xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao
của Đảng đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng yêu
cầu lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị căn cứ ý kiến thảo luận
của Trung ương và Báo cáo tiếp thu, giải trình của Bộ Chính trị để chỉ
đạo hoàn thiện Phương hướng công tác nhân sự, tiếp tục báo cáo Ban Chấp
hành Trung ương Đảng. 3. Ban Chấp hành Trung ương cho ý kiến về giới thiệu nhân sự bổ sung quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV để Bộ Chính trị xem xét, quyết định quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhiệm kỳ 2026 - 2031 theo thẩm quyền. 4. Ban Chấp hành Trung ương cơ bản thống nhất Đề án phương
hướng bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031 Ban Chấp hành Trung ương nhấn mạnh bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân là hình thức dân chủ trực tiếp, là phương thức
thể hiện ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân trong việc xây
dựng Nhà nước nói chung và cơ quan đại diện - cơ quan quyền lực nhà
nước từ Trung ương đến địa phương ở nước ta nói riêng. Cuộc bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp lần này được tổ chức
trong bối cảnh nước ta đang tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, triển khai mạnh mẽ công cuộc đổi mới, sắp
xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả; do vậy, cần bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện của Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy Đảng để cuộc bầu cử được tiến hành
đồng bộ, dân chủ, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm và thật sự là ngày
hội, đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn của toàn dân; thực hiện tốt chủ
trương của Đảng về bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ trong các cơ quan nhà
nước ở Trung ương và địa phương; gắn kết quả nhân sự Đại hội Đảng các
cấp và quy hoạch cán bộ với công tác chuẩn bị nhân sự đại biểu Quốc hội
và nhân sự đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; công tác bầu cử với yêu
cầu xây dựng và củng cố tổ chức bộ máy nhà nước, đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn 2026 - 2031. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị căn cứ ý kiến thảo luận
của Trung ương và Báo cáo tiếp thu, giải trình của Bộ Chính trị để ban
hành Kết luận về phương hướng bầu cử và Chỉ thị về lãnh đạo cuộc bầu cử
đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm
kỳ 2026 - 2031; chỉ đạo Đảng ủy Quốc hội tổ chức triển khai thực hiện;
lãnh đạo, chỉ đạo công tác chuẩn bị và tổ chức thành công cuộc bầu cử
đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm
kỳ 2026 - 2031. 5. Về tiếp tục sắp xếp, tinh gọn các cơ quan hệ thống chính trị, sắp xếp đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp Ban Chấp hành Trung ương cơ bản thống nhất với các nội dung đề xuất
của Bộ Chính trị và Đề án về phương án sáp nhập đơn vị hành chính cấp
tỉnh, không tổ chức cấp huyện, sáp nhập cấp xã và xây dựng mô hình tổ
chức chính quyền địa phương 2 cấp; sắp xếp các tổ chức chính trị - xã
hội, các hội quần chúng được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ vào Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam; sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân,
Viện Kiểm sát nhân dân; xây dựng hệ thống tổ chức đảng ở địa phương; chủ
trương sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013. Ban Chấp hành Trung ương thống nhất thông qua một số nội dung cụ thể
tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp để hoàn thiện và nâng cao
hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị như sau: 5.1. Về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp: (1)
Thống nhất chủ trương tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp: Cấp tỉnh
(tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương), cấp xã (xã, phường, đặc khu
trực thuộc tỉnh, thành phố); kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính
cấp huyện từ ngày 01/7/2025 sau khi Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số
điều của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2025 (sửa đổi) có hiệu lực thi hành. (2) Thống nhất số lượng đơn vị hành
chính cấp tỉnh sau sáp nhập là 34 tỉnh, thành phố. (3) Thống nhất sáp
nhập đơn vị hành chính cấp xã bảo đảm cả nước giảm khoảng 60 - 70% số
lượng đơn vị hành chính cấp xã so với hiện nay. 5.2. Về tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ: (1)
Thống nhất chủ trương sắp xếp 5 tổ chức chính trị - xã hội, 30 tổ chức
hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ và các hội quần chúng
khác về trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, do Ban Thường trực Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì hiệp thương, phối hợp thống
nhất hành động. Việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy cơ quan Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng do
Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ phải bảo đảm hướng về cơ sở, bám sát địa
bàn, chăm lo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân và đoàn
viên, hội viên của tổ chức mình. (2) Thống nhất chủ trương kết thúc hoạt
động của công đoàn viên chức, công đoàn lực lượng vũ trang; giảm mức
đóng góp công đoàn phí của đoàn viên công đoàn. 5.3. Về hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp: Thống
nhất chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân, Viện
Kiểm sát nhân dân; hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân
dân có 3 cấp: Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, cấp
tỉnh, khu vực. Kết thúc hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát
nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện. 5.4. Về hệ thống tổ chức đảng ở địa phương: Thống
nhất chủ trương lập tổ chức đảng ở địa phương tương ứng với hệ thống
hành chính cấp tỉnh, cấp xã (sau sắp xếp). Kết thúc hoạt động của đảng
bộ cấp huyện (huyện, thị xã, thành phố, quận trực thuộc tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương). Lập tổ chức đảng tương ứng với đơn vị hành chính
cấp tỉnh, cấp xã theo đúng Điều lệ Đảng, quy định của Trung ương. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị căn cứ ý kiến thảo luận
của Trung ương và Báo cáo tiếp thu, giải trình của Bộ Chính trị để chỉ
đạo tiếp thu, hoàn thiện, ban hành các quy định, hướng dẫn có liên quan
bảo đảm hệ thống tổ chức đảng ở địa phương hoạt động ổn định, không gián
đoạn. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị chỉ đạo Đảng ủy Chính phủ:
Chỉ đạo hoàn thiện Đề án sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp
(trong đó, nghiên cứu, rà soát hoàn thiện tiêu chí về sắp xếp các xã,
phường, đặc khu) và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2
cấp; chỉ đạo cơ quan chức năng phối hợp các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương liên quan hoàn thiện hồ sơ Đề án sắp xếp, sáp nhập, hợp nhất
đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân
các cấp trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định
theo thẩm quyền; khẩn trương lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng ở
Trung ương phối hợp chặt chẽ với các địa phương tham mưu hoàn thiện các
văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời tổ chức thực hiện sắp xếp đơn vị
hành chính các cấp và tổ chức hoạt động chính quyền địa phương 2 cấp gắn
với đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương, bảo đảm đủ điều kiện,
nguồn lực để thực hiện, nâng cao vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của chính quyền địa phương; rà soát chế độ, chính sách, lộ trình tinh
giản biên chế, tính toán chi phí, cân đối ngân sách; bảo đảm thống nhất,
đồng bộ, gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện có hiệu quả chủ trương,
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
khóa XIII về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Ban Chấp hành Trung ương giao ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy
trực thuộc Trung ương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và khẩn trương xây
dựng Đề án theo hướng dẫn của cấp có thẩm quyền thực hiện sắp xếp đơn vị
hành chính cấp tỉnh, không tổ chức cấp huyện, sắp xếp cấp xã. Trong đó,
căn cứ tiêu chí và thực tế địa phương chủ động nghiên cứu, xây dựng
phương án, báo cáo cấp có thẩm quyền quyết định thực hiện sắp xếp, tên
gọi, địa điểm đặt trụ sở xã, bảo đảm chính quyền cấp xã tinh gọn, hiệu
lực, hiệu quả, gần dân, sát dân, phục vụ lợi ích thiết thực của Nhân
dân, tiết giảm chi phí; đồng thời, triển khai tổ chức hoạt động chính
quyền địa phương 2 cấp theo quy định pháp luật bảo đảm đúng lộ trình,
tiến độ đề ra, đạt mục tiêu tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả gắn
với tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; tăng cường phòng, chống tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực trong sắp xếp cán bộ, quản lý, sử dụng tài chính, tài
sản công; giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, doanh nghiệp bảo
đảm không ngắt quãng, không gián đoạn. 6. Ban Chấp hành Trung ương cơ bản thống
nhất nội dung sửa đổi, bổ sung Quy định số 232-QĐ/TW, ngày 20/01/2025
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về thi hành Điều lệ Đảng; Quy định số
22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 và Quy định số 262-QĐ/TW, ngày 03/02/2025 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật
của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị căn cứ ý kiến thảo luận
của Trung ương để chỉ đạo tiếp thu, hoàn thiện và ban hành theo thẩm
quyền. 7. Ban Chấp hành Trung ương cơ bản thống
nhất nội dung sửa đổi, bổ sung Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 14/6/2024 và
Kết luận số 118-KL/TW, ngày 18/01/2025 của Bộ Chính trị về đại hội đảng
bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương nhấn mạnh công tác chuẩn bị và tổ chức đại
hội đảng bộ các cấp phải được các cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực
hiện theo đúng quy định, nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập
trung dân chủ, bảo đảm an toàn, thiết thực, hiệu quả, không phô trương
hình thức, kiên quyết chống lãng phí, tiêu cực. Nâng cao chất lượng văn
kiện đại hội đảng bộ các cấp gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện chủ
trương, nghị quyết của Trung ương Đảng về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ
máy trong toàn hệ thống chính trị. Công tác chuẩn bị nhân sự, bầu cử
hoặc chỉ định phải thực hiện nghiêm, đúng nguyên tắc, quy định của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; bảo đảm đồng bộ, tổng thể, liên thông, chặt
chẽ, dân chủ, khoa học, khách quan, công tâm, minh bạch; bảo đảm sự đoàn
kết, thống nhất cao; làm thận trọng từng bước, "làm đến đâu chắc đến
đó"; gắn kết chặt chẽ với công tác quy hoạch, chuẩn bị nhân sự lãnh đạo
các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc (gồm các tổ chức chính trị -
xã hội) nhiệm kỳ tới, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị căn cứ ý kiến thảo luận
của Trung ương và Báo cáo tiếp thu, giải trình của Bộ Chính trị để chỉ
đạo tiếp thu, hoàn thiện và ban hành theo thẩm quyền. 8. Ban Chấp hành Trung ương thống nhất chủ trương sửa đổi, bổ
sung Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước liên quan đến các quy định về
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; các quy
định về chính quyền địa phương phục vụ việc sắp xếp tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị; bảo đảm hoàn thành trước ngày 30/6/2025, có
hiệu lực từ ngày 01/7/2025; quy định thời gian chuyển tiếp để bảo đảm
hoạt động thông suốt, không gián đoạn, phù hợp với lộ trình dự kiến sắp
xếp, sáp nhập. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị chỉ đạo Đảng ủy Quốc hội
lãnh đạo, chỉ đạo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phối hợp với các
cơ quan liên quan triển khai việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến
pháp năm 2013 theo đúng quy định; ban hành các Nghị quyết của Quốc hội,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội liên quan sắp xếp đơn vị hành chính các cấp và
tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp theo đúng tiến độ, tạo cơ sở pháp
lý thuận lợi cho quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khai thông điểm nghẽn, giải phóng sức
sản xuất, huy động mọi nguồn lực cho phát triển; Đảng ủy Chính phủ chỉ
đạo, hướng dẫn cụ thể về giấy tờ, thủ tục hành chính, sử dụng con dấu…
tránh xáo trộn, lãng phí. 9. Ban Chấp hành Trung ương thông qua Báo cáo của Bộ
Chính trị về những công việc quan trọng Bộ Chính trị đã giải quyết từ
sau Hội nghị lần thứ 10 đến Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XIII và một số nhiệm vụ trọng tâm từ Hội nghị lần thứ 11 đến
Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII; Báo cáo
công tác hoàn thiện thể chế; Báo cáo công tác chuẩn bị Đại hội XIV của
Đảng; Báo cáo khái quát về tình hình đất nước, về những thách thức đe
dọa an ninh, trật tự nổi lên thời gian gần đây, về tình hình thế giới,
khu vực và phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới; tình hình và giải
pháp liên quan đến ứng phó chính sách thuế quan mới của Hoa Kỳ. 10. Ban Chấp hành Trung ương nghe Báo cáo chuyên đề
về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển
đổi số quốc gia. 11. Ban Chấp hành Trung ương thực hiện một số nội dung về công tác cán bộ,
gồm: (1) Đồng ý để đồng chí Nguyễn Văn Hiếu thôi giữ chức Uỷ viên dự
khuyết Trung ương Đảng khoá XIII. (2) Thi hành kỷ luật bằng hình thức
Cách chức tất cả các chức vụ trong Đảng đối với đồng chí Trương Hoà
Bình, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Bí thư Ban cán sự đảng
Chính phủ, nguyên Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ. Nhiệm vụ trong giai đoạn tới là rất nặng nề, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng yêu cầu các cấp ủy, cơ quan, đơn vị, tổ chức, nhất là người đứng
đầu tập trung sửa đổi, bổ sung, xây dựng hoàn thiện thể chế, nhất là các
quy định về quản lý nhà nước, quản trị quốc gia, quản lý xã hội theo
hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền, trách nhiệm, tổ chức bộ máy của từng cấp, từng ngành, từng
cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân. Điều chỉnh kịp thời, ban hành đồng
bộ các quy định, hướng dẫn để các cơ quan, đơn vị, tổ chức của hệ thống
chính trị vận hành thông suốt, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả
theo mô hình tổ chức mới. Ban Chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
tiếp tục đoàn kết, thống nhất, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách
thức, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ sắp xếp đơn vị hành chính, tinh gọn
tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết số
18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, mục tiêu tăng
trưởng GDP đạt từ 8% trở lên và các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại năm 2025, tổ chức thành công
đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030 tiến tới Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. VPTW
| False | | Chính trị | | Phát biểu bế mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng 11 khoá XIII | Tin | Admin | Phát biểu bế mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng 11 khoá XIII | /SiteAssets/Khaimac-HNTW11-4.jpg | | 13/04/2025 6:00 SA | No | Đã ban hành | | (TUAG)-
Chiều 12/4, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng 11 khoá XIII
đã bế mạc. Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu bế mạc Hội nghị. Cổng Thông tin
điện tử Đảng bộ tỉnh An Giang trân trọng giới thiệu phát biểu bế mạc của Tổng Bí thư
Tô Lâm.
Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng 11 khoá XIII. Thưa các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Trung ương Đảng, Thưa toàn thể các đồng chí tham dự Hội nghị, Sau 3 ngày làm việc khẩn trương, với tinh thần trách nhiệm cao, các
đồng chí Trung ương đã thảo luận hết sức dân chủ, lắng nghe, trao đổi
thẳng thắn nhiều vấn đề mới, hệ trọng và thống nhất rất cao những nội
dung quan trọng, cốt lõi. Ban Chấp hành Trung ương đã biểu quyết thông
qua Nghị quyết Hội nghị với tỉ lệ tuyệt đối. Có thể khẳng định Hội nghị
Trung ương 11 khoá XIII đã hoàn thành toàn bộ nội dung, chương trình đề
ra. Rất nhiều đồng chí Trung ương đề nghị Bộ Chính trị ghi nhận đây là
Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách
mạng mới của nước ta. Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tôi ghi nhận,
đánh giá cao, biểu dương tinh thần làm việc tích cực, trách nhiệm, chủ
động, khoa học, sáng tạo, quyết đoán, hiệu quả, đổi mới của Trung ương;
công tác chuẩn bị và phục vụ Hội nghị chu đáo, kỹ lưỡng, trọng tâm,
trọng điểm, có nhiều cải tiến của các Tiểu ban, của Văn phòng Trung ương
Đảng và các cơ quan liên quan. Sau đây, Tôi xin khái quát, nhấn mạnh và
kết luận một số vấn đề để thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực
hiện: Thứ nhất: Ban Chấp hành Trung ương thống nhất cao nội dung đề xuất nêu tại các Tờ trình, Báo cáo, Đề án thuộc nhóm
công việc về tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị,
sắp xếp đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp. Trong đó: Ban Chấp hành Trung ương nhấn mạnh: Việc
tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị là quyết sách
chiến lược chưa từng có với mục tiêu cao nhất vì sự phát triển nhanh, ổn
định, bền vững của đất nước, chăm lo tốt hơn đời sống của nhân dân, xây
dựng bộ máy chính quyền tinh gọn, chuyển từ quản lý thụ động sang chủ
động phục vụ nhân dân, kiến tạo phát triển, đủ năng lực tổ chức triển
khai có hiệu quả các chủ trương của Đảng vào thực tiễn cuộc sống trong
kỷ nguyên phát triển và thịnh vượng. Việc sắp xếp đơn vị hành chính địa
phương lần này được xây dựng trên tinh thần khoa học, đột phá, sáng tạo,
bám sát thực tiễn với tầm nhìn xa, trông rộng, ít nhất là 100 năm, bảo
đảm hình thành và mở rộng không gian phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa
mới phù hợp cho phát triển đất nước. Chính quyền địa phương sau sắp xếp
phải bảo đảm tinh gọn, hiệu quả, gần dân, đáp ứng các yêu cầu quản trị
xã hội hiện đại, thực hiện được các mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền
vững; tạo thế và lực mới cho nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối
ngoại; tạo đà và động lực cho phát triển kinh tế, trong đó chú trọng
thúc đẩy kinh tế tư nhân; đẩy nhanh phát triển khoa học công nghệ và đổi
mới sáng tạo; chăm lo ngày một tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân. Việc sắp xếp lại mô hình, tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng được Đảng, Nhà
nước giao nhiệm vụ phải thực sự tinh gọn, bảo đảm không trùng lắp, chồng
chéo về chức năng, nhiệm vụ; không hành chính hoá hoạt động, hướng mạnh
về địa bàn dân cư, gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân theo tinh thần
"chú trọng và thực hành dân làm gốc", phải thực sự là "cánh tay nối dài"
của Đảng đến từng hộ gia đình, từng người dân; phải chăm lo quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của các đoàn viên, hội viên và của Nhân dân. Thực
hiện nghiêm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ
máy, công tác cán bộ, quản lý đội ngũ cán bộ và biên chế của hệ thống
chính trị. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và thực hiện đồng bộ, chặt chẽ
các quy định về công tác cán bộ ở các cấp, các ngành, địa phương theo
nguyên tắc công khai, minh bạch, tăng cường kiểm soát quyền lực, gắn
quyền lực với trách nhiệm cá nhân. Nhận diện, có biện pháp phòng ngừa,
kiên quyết đấu tranh xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu
cực, gây mất đoàn kết, chạy chức chạy quyền, cục bộ bè phái trong quá
trình sắp xếp tổ chức bộ máy, xử lý tài sản công… Ban Chấp hành Trung ương thống nhất cao các chủ trương: về tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp:
cấp Tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương), cấp xã (xã, phường,
đặc khu trực thuộc tỉnh, thành phố); số lượng đơn vị hành chính cấp tỉnh
sau sáp nhập là 34 tỉnh, thành phố (28 tỉnh và 06 thành
phố trực thuộc Trung ương) với tên gọi và trung tâm hành chính - chính
trị xác định theo các nguyên tắc nêu tại các Tờ trình và Đề án; kết thúc
hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện sau khi Quốc hội quyết nghị
sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2025 (sửa đổi); sáp nhập đơn vị hành chính
cấp xã bảo đảm cả nước giảm khoảng 60-70% số lượng đơn vị hành chính cấp
xã hiện nay. Đồng ý chủ trương lập tổ chức đảng ở địa phương tương ứng với hệ
thống hành chính cấp tỉnh, cấp xã; kết thúc hoạt động của các đảng bộ
cấp huyện; việc lập tổ chức đảng ở địa phương thực hiện theo đúng Điều
lệ Đảng, quy định của Trung ương. Với mô hình tổ chức hành chính mới, cấp Tỉnh vừa là cấp thực hiện chủ
trương, chính sách từ Trung ương, vừa là cấp ban hành chính sách trên
địa bàn tỉnh, thành phố và trực tiếp chỉ đạo, quản lý các hoạt động của
cấp xã trên địa bàn. Cấp xã chủ yếu là thực hiện chính sách từ cấp Trung
ương và cấp Tỉnh ban hành; được tăng cường phân cấp phân quyền và có
thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật để quyết định việc tổ
chức thi hành pháp luật trên địa bàn và quyết định các vấn đề thuộc thẩm
quyền của cấp mình. Thống nhất chủ trương sắp xếp, tinh gọn, hợp nhất cơ quan Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng do
Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở cấp Trung ương, cấp tỉnh và cấp xã nêu
tại Tờ trình và Đề án của Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn
thể Trung ương; chủ trương kết thúc hoạt động của công đoàn viên chức,
công đoàn lực lượng vũ trang, giảm mức đóng góp công đoàn phí của cán
bộ, công chức, viên chức và người lao động. Đồng ý chủ trương tiếp tục
sắp xếp, tinh gọn bộ máy Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân; kết
thúc hoạt động của Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao và
cấp huyện; xác lập hệ thống tổ chức Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân
dân có 03 cấp là: Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao; Tòa
án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và khu vực (hệ thống tòa án và viện kiểm sát quân sự giữ
nguyên mô hình hiện nay). Ban Chấp hành Trung ương thống nhất chủ trương sửa đổi, bổ sung Hiến
pháp, pháp luật của Nhà nước liên quan đến các quy định về chính quyền
địa phương phục vụ việc sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị;
các quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội; bảo đảm hoàn thành trước ngày 30/6/2025; có hiệu lực từ ngày
01/7/2025; quy định thời gian chuyển tiếp để bảo đảm hoạt động thông
suốt, không gián đoạn, phù hợp với kế hoạch, lộ trình dự kiến sắp xếp,
sáp nhập; Trung ương yêu cầu, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan liên
quan phối hợp triển khai chặt chẽ có hiệu quả các nhiệm vụ về hoàn thiện
thể chế. Tập trung cao độ để thực hiện tốt các nhiệm vụ này, đổi mới
mạnh mẽ tư duy, cách làm, phấn đấu ngay trong năm 2025 phải tháo gỡ
triệt để những rào cản, khó khăn, vướng mắc về thể chế để tạo hành lang
pháp lý, tạo nền tảng cho phát triển, nhất là các vấn đề liên quan đến
đấu thầu, ngân sách, đầu tư công, kinh tế tư nhân, khoa học công nghệ,
đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; tạo cơ sở vững chắc, thuận lợi cho cuộc
Cách mạng về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị;
khơi thông các điểm nghẽn, nguồn lực; đẩy mạnh phân cấp phân quyền triệt
để gắn với tinh gọn bộ máy, hoạt động hiệu lực hiệu quả; kiến tạo không
gian phát triển mới cho địa phương và cả nước. Xây dựng, ban hành pháp
luật, cơ chế chính sách phải bám sát sự lãnh đạo của Đảng, theo sát tình
hình thực tiễn và tính đặc thù của cuộc cách mạng về cơ cấu tổ chức,
không để tình trạng chờ luật, chờ cơ chế dẫn đến chậm trễ, mất cơ hội;
tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, an toàn, chi phí
thấp; xử lý triệt để các "điểm nghẽn" về thể chế để biến thành nguồn
lực, lợi thế cạnh tranh, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia
đi đầu về cải cách hành chính, khởi nghiệp sáng tạo để có thể tiến kịp,
đi cùng, vượt lên cùng các nước đi trước. Thứ hai: Về nhóm vấn đề tiếp
tục chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng và Bầu cử đại biểu Quốc hội khoá
XVI, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031. Về dự thảo các văn kiện phục vụ Đại hội XIV của Đảng: Trung
ương thống nhất đánh giá, các dự thảo lần này được biên tập ngắn gọn,
súc tích (giảm khoảng 30-35%), song nội dung khá đầy đủ, sâu sắc vừa bảo
đảm tính văn kiện, toàn diện vừa đảm bảo tính hành động cao, có thể
giúp triển khai ngay, cập nhật, bổ sung nhiều vấn đề lớn, là hình mẫu
cho việc xây dựng văn kiện của các tổ chức Đảng. Qua trao đổi, thảo
luận, Trung ương thống nhất cao và nhận thấy cần triển khai ngay một số
giải pháp lớn đã được nhất trí thông qua trong dự thảo các văn kiện,
đồng thời cụ thể hóa trong văn kiện nhiệm kỳ 2025 - 2030 của các tổ chức
Đảng, gồm: (i) Thống nhất về mục tiêu cao nhất của Đại hội XIV là quyết định những vấn đề chiến lược để bảo đảm "ổn định, phát triển và nâng cao đời sống của nhân dân";
mọi quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp trong dự thảo các văn kiện
đều phải thống nhất, đồng bộ, xuyên suốt và tạo sức mạnh tổng hợp, thực
hiện cho được mục tiêu này. (ii) Thống nhất về yêu cầu cao của giai đoạn tới là "phát triển chất lượng cao, phát triển nhanh và phát triển bền vững","chủ động, tự cường và tự chủ trong phát triển". Từ
đó, yêu cầu các Tiểu ban tiếp tục rà soát các ý kiến của Trung ương, bổ
sung đầy đủ những khó khăn, thách thức khách quan phải đối mặt, những
tồn tại, hạn chế kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chưa khắc phục, những nhiệm
vụ, giải pháp thích ứng với bối cảnh tình hình mới, thời cơ vận hội và
thử thách mới bằng tư duy mới, cách làm mới mang tính cách mạng, vượt
lên chính mình để bảo đảm phát triển chủ động, tự chủ, nhanh, bền vững;
đồng thời yêu cầu các đảng bộ trong quá trình chuẩn bị, tổ chức đại hội
phải tập trung thảo luận kỹ lưỡng những nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục
đóng góp hoàn thiện văn kiện Đại hội XIV của Đảng và văn kiện đại hội
cấp mình. (iii) Thống nhất quyết tâm mạnh mẽ "xác lập mô hình tăng trưởng mới", "xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới" là
các giải pháp căn cơ để khắc phục nguy cơ tụt hậu. Trong mô hình tăng
trưởng mới, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số
quốc gia làm động lực chủ yếu, kinh tế tư nhân (gồm cả khu vực tư nhân trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài) là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia;
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước đối với kinh
tế tư nhân. Đồng thời Trung ương cũng thống nhất cao trong giai đoạn
cách mạng mới, cần tập trung xác định và triển khai mạnh mẽ nội hàm "Đảng ta là đạo đức, là văn minh", mô hình điểm về các tỉnh "xã hội chủ nghĩa", các xã "xã hội chủ nghĩa". Về công tác tổ chức xây dựng và thi hành điều lệ Đảng: Ban
Chấp hành Trung ương đã thảo luận, cho ý kiến và cơ bản thống nhất,
thông qua dự thảo Phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XIV; bổ sung nhân sự quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XIV; các nội dung sửa đổi, bổ sung Quy định của Ban Chấp hành Trung
ương về thi hành Điều lệ Đảng; Quy định về công tác kiểm tra, giám sát
và kỷ luật của Đảng; các nội dung sửa đổi, bổ sung Chỉ thị số 35-CT/TW
ngày 14/6/2024 và Kết luận số 118-KL/TW ngày 18/01/2025 của Bộ Chính trị
về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIV của Đảng; Phương hướng Bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XVI, đại biểu
Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031. Trung ương yêu cầu, Bộ
Chính trị, cấp uỷ, các tổ chức Đảng, các cơ quan có liên quan khẩn
trương triển khai thực hiện các nội dung đã được Trung ương thống nhất,
thông qua. 
Những việc cần làm ngay: Ban chấp hành Trung ương
yêu cầu, ngay sau Hội nghị, các cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị,
địa phương và người đứng đầu triển khai ngay 7 công việc: (1) Chủ động,
tích cực làm tốt công tác quán triệt, tuyên truyền, vận động, định hướng
tư tưởng trong cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức của mình cũng như
tham gia định hướng dư luận xã hội, bảo đảm sự đoàn kết, đồng thuận,
thống nhất cao trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao
động và các tầng lớp nhân dân đối với các chủ trương lớn của Đảng. (2)
Tập trung chỉ đạo, triển khai quyết liệt các nhiệm vụ thực hiện sắp xếp,
tinh gọn tổ chức bộ máy theo các Đề án, kế hoạch đã được Trung ương
thông qua. (3) Chủ động các nhiệm vụ về sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ,
công chức, viên chức, bảo đảm giữ chân người tài, thực hiện tốt chế độ,
chính sách đối với người bị tác động, ảnh hưởng; chuẩn bị đầy đủ cơ sở
pháp lý, tạo thuận lợi cao nhất cho sắp xếp; chủ động phương án quản lý,
sử dụng, xử lý tài sản, trụ sở làm việc, nhà ở công vụ, tuyệt đối không
để thất thoát, lãng phí, tiêu cực. (4) Bảo đảm các cơ quan, đơn vị, tổ
chức trước, trong và sau sắp xếp hoạt động liên tục, thông suốt, hiệu
năng, hiệu lực, hiệu quả, không để gián đoạn công việc, không bỏ trống
nhiệm vụ, địa bàn, lĩnh vực, không để ảnh hưởng đến hoạt động bình
thường của cơ quan, đơn vị, tổ chức và Nhân dân. (5) Về tổ chức đại hội
các cấp tại địa phương sáp nhập, hợp nhất: Chúng ta tổ chức đại hội cấp
xã, cấp tỉnh ngay sau khi sắp xếp đơn vị hành chính. Vì vậy, cần lãnh
đạo, chỉ đạo hết sức chặt chẽ để bảo đảm Đại hội đúng quy định và thực
chất, không hình thức. Bộ Chính trị sẽ ban hành Chỉ thị mới thay thế Chỉ
thị 35 hướng dẫn cụ thể việc tổ chức Đại hội các cấp theo tinh thần
mới. Tôi lưu ý thêm 02 vấn đề là: (i) Về văn kiện: Cấp tỉnh phải sớm bổ
sung, hoàn thiện văn kiện Đại hội cấp mình trên cơ sở dự thảo Văn kiện
mới của Trung ương. Đối với các tỉnh có sáp nhập, hợp nhất thì các Ban
thường vụ phải bàn với nhau để xây dựng Văn kiện của Đại hội tỉnh mới.
Phải trên tinh thần "không gian phát triển mở rộng" của tỉnh mới để xây
dựng văn kiện. Không phải là cộng gộp cơ học các Văn kiện của tỉnh cũ
thành Văn kiện của tỉnh mới. Các xã sáp nhập cũng phải thực hiện theo
tinh thần này. (ii) Về nhân sự: Nhiều đồng chí băn khoăn vấn đề sắp xếp
nhận sự khi sáp nhập, hợp nhất và sắp xếp nhân sự Đại hội. Các cơ quan
Trung ương sẽ có hướng dẫn cụ thể về tiêu chí, tiêu chuẩn. Tôi đề nghị
phải lấy tiêu chuẩn cao nhất là vì yêu cầu công việc, sau đó mới đến các
tiêu chí khác. Ban Thường vụ cấp tỉnh (có sáp nhập, hợp nhất) phải bàn
kỹ với nhau về vấn đề này, tạo sự thống nhất cao trong thực hiện, nhất
là bố trí người đứng đầu các cơ quan sau khi sáp nhập. Những vấn đề chưa
thống nhất, đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư được phân công phụ trách
địa bàn sẽ hướng dẫn, chỉ đạo (các tỉnh cũng cần phân công các đồng chí
cấp ủy tỉnh hướng dẫn chỉ đạo Đại hội cấp xã). (6) Đảm bảo lộ trình và
tiến độ, quy trình (nhất là quy trình lấy ý kiến cộng đồng dân cư theo
quy chế dân chủ cơ sở) về sửa đổi hành lang pháp lý, về thời điểm kết
thúc hoạt động của cấp huyện, sáp nhập xã, sắp xếp, sáp nhập tỉnh như
Nghị quyết đã được thông qua. (7) Tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm lớn
trong năm 2025, trọng tâm là Lễ kỷ niệm 50 năm ngày Giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước; 135 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; 80 năm ngày
Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, cùng với các hoạt động kỷ niệm
của từng địa phương. Trung ương yêu cầu các Tiểu ban chuẩn bị Đại hội XIV nhanh chóng tiếp
thu ý kiến góp ý bổ sung, hoàn thiện các dự thảo văn kiện (nhất là phần
định hướng phát triển kinh tế xã hội cho các vùng, địa phương sau sáp
nhập) gửi đại hội đảng bộ các cấp thảo luận, góp ý, tiếp tục hoàn thiện
dự thảo các văn kiện, báo cáo Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị
Trung ương 12 để cán bộ, đảng viên và nhân dân thảo luận cho ý kiến. Ngay sau Hội nghị này, Ban chỉ đạo Trung ương Tổng kết Nghị quyết 18
sẽ họp để cụ thể hóa các công việc cần làm, đưa ra kế hoạch, lộ trình
thực hiện các nhiệm vụ trong thời gian tới và phân công các đồng chí Ủy
viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc.
Cũng ngay trong tuần sau, Bộ Chính trị, Ban Bí thư sẽ tổ chức Hội nghị
cán bộ toàn quốc để quán triệt, thống nhất nhận thức, cách làm trong cả
hệ thống chính trị về những chủ trương mà Hội nghị Trung ương 11 vừa
thông qua. Bộ Chính trị cũng sẽ sớm ban hành Nghị quyết về đổi mới công tác xây
dựng và thực thi pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên
mới và Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân để tạo thêm động lực mới
cùng Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới
sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và Nghị quyết 59 về Hội nhập quốc tế
trong tình hình mới nhằm quyết tâm thực hiện cho bằng được mục tiêu tăng
trưởng GDP từ 8% trở lên của năm 2025, tạo nền tảng tăng trưởng 2 con
số liên tục trong những năm tiếp theo. Phấn đấu hoàn thành bằng được mục
tiêu đến năm 2030 Việt Nam trở thành nước phát triển có công nghiệp
hiện đại và thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát
triển có thu nhập cao. Thưa các đồng chí, Công việc trước mắt rất bộn bề, thực tiễn cuộc sống đang đòi hỏi cấp
bách, nhân dân, cán bộ đảng viên đang mong chờ, nhiệm vụ phía trước rất
nặng nề, gian khó, Tôi nghĩ đây là thử thách lớn, đồng thời là cơ hội để
từng Ủy viên Trung ương Đảng thể hiện tinh thần trách nhiệm trước Đảng,
trước đất nước, trước Nhân dân. Ban Chấp hành Trung ương tin tưởng
rằng, phát huy truyền thống đoàn kết, kiên cường, bất khuất của dân tộc,
dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, sự nỗ lực chung sức,
đồng lòng, phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhất định
chúng ta sẽ vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hoàn thành xuất sắc các
mục tiêu, chỉ tiêu nhiệm vụ đã đề ra. Nhất định chúng ta sẽ thành công. Bế mạc Hội nghị, Tôi chúc các đồng chí và gia đình sức khoẻ, hạnh phúc và hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ công tác đã đề ra. Xin trân trọng cảm ơn! | False | | Chính trị | | Sự thật liên quan đến những nhận định mang nhiều yếu tố cảm tính, thiếu sự nhìn nhận khách quan | Bài viết | Hải Lam | Sự thật liên quan đến những nhận định mang nhiều yếu tố cảm tính, thiếu sự nhìn nhận khách quan | /SiteAssets/ap-thue-toi-thieu-toan-cau.jpg | | 12/04/2025 2:00 CH | No | Đã ban hành | | (TUAG)- Trong bối cảnh thương mại toàn cầu đang diễn biến phức tạp, đặc biệt là sau các động thái tăng thuế mới của Mỹ, BBC Tiếng Việt đã dẫn lời một cố vấn thương mại cấp cao của Nhà Trắng với những phát biểu đáng chú ý xoay quanh vai trò của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Cụ thể: 1. Việt Nam là "thuộc địa của Trung Quốc". 2. Việt Nam đang bị sử dụng làm điểm trung chuyển để hàng Trung Quốc né thuế vào Mỹ. 3. Nếu không thuyết phục được Mỹ, kinh tế Việt Nam có thể "giảm một nửa tăng trưởng". Những phát biểu này nhanh chóng gây ra nhiều tranh cãi không chỉ ở Việt Nam mà còn trong giới quan sát quốc tế. Dù có thể hiểu được mối lo ngại của Mỹ về thương mại công bằng, nhưng rõ ràng, nếu theo thông tin trên thì các nhận định mang nhiều yếu tố cảm tính, thiếu sự nhìn nhận khách quan từ góc độ kinh tế, lịch sử và chính sách thương mại thực tế. Vậy đâu là bức tranh toàn cảnh và đâu là sự thật đằng sau những đánh giá nói trên? 
Việt Nam không phải là "thuộc địa" của bất cứ quốc gia nào Việt Nam là một quốc gia có chủ quyền dân tộc, độc lập hoàn toàn về chính trị, pháp lý và lịch sử. Không một quốc gia nào, kể cả Trung Quốc, có quyền hoặc khả năng thao túng Việt Nam như một "thuộc địa". Việt Nam đã trải qua hơn một thiên niên kỷ chống lại các đế chế phương Bắc để giữ vững chủ quyền. Và trong thời hiện đại, cũng chính Việt Nam đã từ chối mọi sự áp đặt từ cả phương Đông lẫn phương Tây để đi bằng đôi chân của mình. Hơn nữa, nếu cho rằng việc hợp tác thương mại hay sử dụng chuỗi cung ứng từ Trung Quốc là "lệ thuộc", thì Tesla, Apple, Nike - những tập đoàn hàng đầu của Mỹ - cũng đều nhập linh kiện hoặc lắp ráp tại Trung Quốc. Gian lận thương mại không tồn tại ở Việt Nam Về cáo buộc Việt Nam là nơi để hàng Trung Quốc "mượn danh" xuất khẩu sang Mỹ: Đây là vấn đề toàn cầu, không phải đặc thù của riêng Việt Nam. Nhưng khác với cách nhìn phiến diện của vị cố vấn, Việt Nam không hề né tránh mà đang xử lý rất quyết liệt. Ngay từ năm 2019, Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 119/NQ-CP nhằm siết chặt quản lý xuất xứ hàng hóa. Cơ quan Hải quan và Bộ Công thương đã triển khai nhiều đợt thanh tra, kiểm tra xuất xứ tại các cửa khẩu, khu công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, những doanh nghiệp Trung Quốc "nhập nguyên kiện – dán nhãn Việt Nam - xuất sang Mỹ" đang bị đưa vào tầm giám sát đặc biệt. Thủ tướng Phạm Minh Chính ngày 7/4 mới đây cũng đã nhấn mạnh tại phiên họp: "Tăng cường chống gian lận thương mại, đặc biệt là chống xuất xứ hàng hóa từ nước thứ 3", điều đó có nghĩa là không chỉ hiện tại cả tương lai, Việt Nam sẽ tiếp tục nâng cao khả năng truy xuất nguồn gốc, tạo một hệ thống minh bạch hơn trong chuỗi cung ứng. Việt Nam không chọn cách trốn tránh mà chọn đối đầu thẳng thắn và chủ động thích ứng. Việt Nam không đơn độc Về ý kiến cho rằng nếu không thuyết phục được Mỹ thì Việt Nam sẽ "giảm một nửa tăng trưởng" - đây là một kiểu đánh giá thổi phồng, phi thực tế và mang tính hù dọa. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2024 là 5,6%, với xuất khẩu tăng 11,2%, trong đó Mỹ là thị trường lớn nhất - nhưng không phải duy nhất. Việt Nam hiện là đối tác thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, đã ký kết 15 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP. Các thị trường như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN, Trung Đông, châu Phi… đều đang mở rộng hợp tác. Việt Nam không đặt tất cả trứng vào một giỏ. Đặc biệt, những chính sách trung lập, không chọn phe, không tạo đối đầu của Việt Nam đang trở thành điểm đến an toàn và hấp dẫn trong bối cảnh thế giới bất ổn. Việc Mỹ thông tin áp thuế với 180 quốc gia – cho thấy rằng đây là "cuộc chơi" chung, không phải chuyện riêng của Việt Nam. Việt Nam không đơn độc. Cái Việt Nam đang làm là giảm thiểu thiệt hại trong thế trận giằng co toàn cầu, chứ không phải hoảng loạn vì một đòn gió chính trị. Những tín hiệu tích cực Trong chuyến công tác đặc biệt tại Hoa Kỳ với tư cách Đặc phái viên của Tổng Bí thư Tô Lâm, Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc đã đạt được bước đột phá lớn khi thống nhất với phía Hoa Kỳ về việc tiến hành đàm phán một thỏa thuận thương mại song phương giữa hai quốc gia. Đặc biệt, sau nhiều ngày đàm phán, hai bên đã chính thức đồng ý xem xét đàm phán nội dung về thuế quan - trụ cột quan trọng nhất của Hiệp định này. Đây là thành công đáng ghi nhận khi trước đó nội dung về ký hiệp định thương mại song phương mà phía Việt Nam đưa ra nhiều lần nhưng Hoa Kỳ chưa đồng ý. Phó Thủ tướng đã có các cuộc làm việc tốt đẹp với Bộ trưởng Tài chính Scott Bessent và Bộ trưởng Thương mại Howard Lutnick. Bộ trưởng Bessent, người sẽ làm trưởng đoàn đàm phán phía Hoa Kỳ, cho biết từng thăm Việt Nam và có nhiều ấn tượng tốt đẹp về đất nước và con người Việt Nam. Ông cảm ơn Việt Nam đã kịp thời có các biện pháp tích cực xử lý những vấn đề quan tâm của Hoa Kỳ và bày tỏ tin tưởng hai bên sẽ sớm đạt được những giải pháp phù hợp, thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại ổn định, cùng có lợi. Về phía Việt Nam, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chỉ đạo trong ngày 11/4 phải thành lập đoàn đàm phán với phía Mỹ do Bộ trưởng Bộ Công Thương làm Trưởng đoàn để ứng phó với chính sách thuế quan mới của Mỹ. Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ xem xét thành lập nhóm đàm phán kỹ thuật cấp bộ trưởng để cụ thể hóa những kết quả mà đoàn công tác đặc biệt đã đạt được những ngày qua. Tuy nhiên, trong lúc chờ đợi kết quả sắp tới, chúng ta cần tuyệt đối tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, hoạt động hiệu quả của Quốc hội và sự điều hành của Chính phủ. Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng đã nhấn mạnh, không hội nhập bằng mọi giá. "Hội nhập không chỉ có thảm đỏ và hoa hồng, hội nhập có rất nhiều khó khăn, rất nhiều chông gai, phải nỗ lực bắt kịp, tiến cùng và vượt lên thì mới có thể hội nhập sâu rộng, thực chất, hiệu quả, đồng thời giữ vững độc lập, tự chủ". Điều đó có nghĩa là, Việt Nam đang rất nỗ lực trong cuộc đàm phán này, đồng thời cân nhắc nhiều phương án ứng phó, bao gồm cả việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu nếu đàm phán với Mỹ không đạt kết quả như mong đợi. Mỹ là một thị trường lớn nhưng không phải duy nhất và thực tế Việt Nam không hề cô độc../. H.L | False | | Chính trị | | Những nội dung quan trọng tại Hội nghị Trung ương lần thứ 11 khóa XIII | Bài viết | Admin | Những nội dung quan trọng tại Hội nghị Trung ương lần thứ 11 khóa XIII | /SiteAssets/Khaimac-HNTW11-1.jpg | | 10/04/2025 3:00 CH | No | Đã ban hành | | (TUAG)- Sáng 10/4/2025, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã khai mạc trọng thể tại Thủ đô Hà Nội. Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì, phát biểu khai mạc Hội nghị. Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Lương Cường điều hành Phiên khai mạc.
Tại Hội nghị lần này, Trung ương thảo luận, cho ý kiến đối với 15 nội
dung tập trung vào hai nhóm vấn đề chính. Nhóm vấn đề về tiếp tục sắp
xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, sắp xếp đơn vị hành chính và
tổ chức chính quyền địa phương hai cấp. Nhóm vấn đề về tiếp tục chuẩn bị
cho Đại hội lần thứ XIV của Đảng và bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI
và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2026-2031. Cũng tại Hội nghị này, Bộ
Chính trị sẽ báo cáo Trung ương xem xét, quyết định một số nội dung công
tác cán bộ theo thẩm quyền, báo cáo Trung ương về tình hình đất nước,
tình hình thế giới và khu vực. Những công việc quan trọng của Bộ Chính
trị, Ban Bí thư đã giải quyết từ sau Hội nghị Trung ương 10 đến nay và
các chuyên đề về hoàn thiện thể chế và đột phá phát triển khoa học, công
nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Theo chương trình,
Hội nghị làm việc đến ngày 12/4. 

| False | | Chính trị | | Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII | Tin | H.T | Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII | /SiteAssets/Khaimac-HNTW11-3.jpg | | 10/04/2025 10:00 SA | No | Đã ban hành | | (TUAG)- Cổng Thông tin diện tử Đảng bộ tỉnh An Giang trân trọng giới thiệu toàn văn phát biểu khai mạc của Tổng Bí
thư Tô Lâm tại Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
XIII.

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu khai mạc hội nghị.
"Thưa các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Thưa các đồng chí Ủy viên Trung ương đảng, Thưa toàn thể các đồng chí tham dự Hội nghị. Với
tinh thần quyết tâm, quyết liệt thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và khẩn trương, tích cực, chủ
động chuẩn bị Đại hội XIV, Bộ Chính trị quyết định triệu tập Hội nghị
Trung ương 11 khóa XIII sớm hơn 1 tháng so với kế hoạch ban đầu. Thay
mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi nhiệt liệt chào mừng các đồng chí
Trung ương, các đồng chí đại biểu đã về dự Hội nghị. Tôi xin gửi tới các
đồng chí lời chúc sức khỏe, hạnh phúc; chúc Hội nghị thành công tốt
đẹp. Thưa các đồng chí, Trung ương vừa biểu quyết thông qua chương trình Hội nghị. Theo đó, Trung ương sẽ thảo luận, cho ý kiến đối với 15 nội dung, tập trung là 02 nhóm vấn đề chính: Một là,
nhóm vấn đề tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, sắp
xếp đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp; Hai là,
nhóm vấn đề về tiếp tục chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng và Bầu cử đại
biểu Quốc hội khoá XVI, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2026 – 2031. Cũng tại Hội nghị này, Bộ Chính trị sẽ báo cáo Trung ương
xem xét, quyết định một số nội dung công tác cán bộ theo thẩm quyền; báo
cáo Trung ương về tình hình đất nước; tình hình thế giới, khu vực;
những công việc quan trọng Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã giải quyết từ sau
Hội nghị Trung ương 10 đến nay và các chuyên đề về hoàn thiện thể chế
và đột phát phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi
số quốc gia. Về tài
liệu Hội nghị, Văn phòng Trung ương đã gửi trước các đồng chí nghiên
cứu. Khối lượng công việc cần giải quyết tại Hội nghị Trung ương lần này
rất lớn, phạm vi rất rộng, nhiều nội dung nhạy cảm liên quan đến "quốc kế dân sinh".
Vì vậy, để tiết kiệm thời gian, xin phép Trung ương không trình bày lại
các Tờ trình mà dành thời gian cho các đồng chí nghiên cứu, đóng góp ý
kiến. Tôi xin gợi mở một số vấn đề để Trung ương tập trung thảo luận và
quyết định: Thứ
nhất, về nhóm vấn đề tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính
trị, sắp xếp đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp. Trong
hơn 4 tháng qua, thực hiện các kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư đã lãnh đạo, chỉ đạo cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, tinh gọn
tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận ở cấp
Trung ương. Những con số về tinh giảm đầu mối và hiệu quả công việc cũng
như tiết kiệm chi phí nêu trong các báo cáo đã thể hiện rõ tính cách
mạng trong việc tinh gọn này. Song đánh giá một cách tổng thể, mô hình
tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị chưa thật hoàn thiện, nhất là ở
địa phương. Để tiếp tục cuộc cách mạng về tinh giản tổ chức bộ máy, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đã họp nhiều phiên, bàn bạc thấu đáo nhiều khía
cạnh và thống nhất cao trình Trung ương Đề án sắp xếp, tổ chức lại đơn
vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương
2 cấp; cùng với các Đề án về hệ thống tổ chức Đảng ở địa phương; Đề án
về sắp xếp, tinh gọn cơ quan Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị -
xã hội, các hội quần chúng được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ; các Đề
án về sắp xếp các cơ quan Tòa án, Viện Kiểm sát; và các Đề án về sửa
đổi, bổ sung Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, sửa đổi, bổ sung các quy
định thi hành điều lệ Đảng, các quy định về kiểm tra, giám sát Đảng để
bảo đảm triển khai thực hiện đồng bộ. Đây là vấn đề được cán bộ, đảng
viên và nhân dân rất quan tâm. Thông tin mà Bộ Chính trị, Ban Bí thư nắm
được là đại đa số nhân dân, cán bộ đảng viên đều đồng tình ủng hộ, đánh
giá cao chủ trương này và mong muốn sớm được triển khai thực hiện. Đề
án về sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô
hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp cùng với các Đề án kèm theo là
những vấn đề rất hệ trọng, có tính lịch sử; không chỉ sắp xếp về tổ
chức, bộ máy, cán bộ; mà còn phân cấp về thẩm quyền; bố trí lại đơn vị
hành chính; phân bổ về nguồn lực; tạo không gian phát triển. Mục tiêu là
xây dựng Chính quyền theo hướng gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân tốt
hơn; đồng thời, mở ra cục diện mới trong phát triển đất nước với tầm
nhìn lâu dài, ít nhất là cho 100 năm tới. Vì vậy, Bộ Chính trị đề nghị
các đồng chí Trung ương với tư duy đổi mới, tinh thần cách mạng triệt
để, vì sự phát triển của đất nước và vì nhân dân, tập trung cho ý kiến
những nội dung theo gợi ý thảo luận gửi kèm theo từng Đề án, nhất là
những vấn đề lớn như: Về chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính - cấp tỉnh
còn 34 tỉnh, thành phố; không tổ chức cấp huyện, giảm
khoảng 50% đơn vị hành chính cấp xã; mô hình tổ chức chính quyền địa
phương 2 cấp, gắn với phân cấp, phân quyền, đặc biệt là cấp xã mới sau
khi sáp nhập, làm thế nào để thực sự gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân
tốt hơn. Về mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ các cơ quan Đảng ở cấp
tỉnh, cấp xã, tương ứng với chính quyền địa phương 2 cấp để bảo đảm vai
trò lãnh đạo của Đảng. Về sắp xếp, hợp nhất các cơ quan của các tổ chức
chính trị - xã hội, các hội quần chúng được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ
vào trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để phối hợp hành động thống
nhất, hướng mạnh về cơ sở, hướng đến quần chúng Nhân dân. Về sắp xếp mô
hình các cơ quan Tòa án, Viện Kiểm sát thành 03 cấp gắn với điều chỉnh
thẩm quyền xét xử, thẩm quyền kiểm sát, thẩm quyền công tố cho phù hợp.
Về phạm vi, nội dung, cách thức sửa đổi một số điều của Hiến pháp 2013;
các quy định của Đảng, quy định của pháp luật có liên quan để triển khai
thực hiện các chủ trương nêu trên từ 01/07/2025. Tất cả các công việc
này đều phải triển khai cùng lúc, không thể chậm việc nào, vì vậy đề
nghị các đồng chí góp ý về phương án và lộ trình tổ chức thực hiện sao
cho đồng bộ, thống nhất, thông suốt, hiệu quả, không để việc sắp xếp tổ
chức bộ máy làm gián đoạn hoạt động của các cơ quan, hoạt động sản xuất
kinh doanh và hoạt động thường ngày của người dân, doanh nghiệp. 
Hình ảnh tại Hội nghị.
Thứ
hai, về nhóm vấn đề tiếp tục chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng và Bầu
cử đại biểu Quốc hội khoá XVI, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm
kỳ 2026 - 2031. Từ sau Hội nghị Trung ương 10, Bộ Chính trị đã tiếp
tục quyết liệt, khẩn trương chỉ đạo chuẩn bị các công việc tổ chức Đại
hội XIV của Đảng, trọng tâm là 2 nhóm vấn đề: Văn kiện và Nhân sự.
Về
văn kiện: Cùng với việc gửi bản dự thảo tóm tắt 04 văn kiện để Đại hội
cấp cơ sở tham gia ý kiến, Bộ Chính trị đã chỉ đạo bổ sung, cập nhật
nhiều vấn đề mới, nhất là những chủ trương, quyết sách quan trọng mang
tính cách mạng để phát triển đất nước. Nội dung, cách thức trình bày Văn
kiện có nhiều cải tiến bảo đảm tính văn kiện, tính khoa học, tính thực
tiễn, tính hành động, tính khả thi, tính mục đích, theo phương châm Báo
cáo chính trị là "ngọn đuốc soi đường", các báo cáo khác là "cẩm nang hành động".
Nội dung xuyên suốt của các văn kiện thể hiện sự kiên trì không thay
đổi con đường xã hội chủ nghĩa; giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng
giữa ổn định và phát triển, bám sát mục tiêu lớn là "đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân";
quyết tâm hiện thực hóa 2 mục tiêu 100 năm của đất nước. Đây là những
mục tiêu rất cao, phấn đấu thực hiện rất khó khăn. Ngay từ năm 2025,
chúng ta đã phải triển khai nhiều công việc để tạo nền tảng cho thực
hiện mục tiêu này. Bộ Chính trị, Ban Bí thư rất muốn được nghe những
kiến nghị, giải pháp nhằm giúp chúng ta đạt được mục tiêu tăng trưởng
GDP từ 8% trở lên trong năm 2025 và tăng trưởng liên tục 2 con số trong
những năm tiếp theo trong điều kiện chúng ta tiến hành cuộc cách mạng về
tổ chức bộ máy và sắp xếp lại đơn vị hành chính các cấp, cũng như trong
tình hình "chiến tranh thương mại trên phạm vi toàn cầu". Điều quan trọng nhất đối với nội dung này là các đồng chí ở từng địa phương, bộ, ngành phải tìm ra "những việc cần làm ngay" từ chính nội lực của mình thì mới có thể đạt được các chỉ tiêu đề ra. Về nhân sự: Đây là vấn đề "then chốt" của "then chốt"
để hiện thực hóa các mục tiêu, tầm nhìn của Đại hội XIV. Yêu cầu nhiệm
vụ cao hơn, đòi hỏi mặt bằng đội ngũ cán bộ cao hơn, đặc biệt là đội ngũ
cán bộ cấp chiến lược. Công tác nhân sự phải được chuẩn bị từ sớm và sẽ
được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cho đến Đại hội XIV. Bộ Chính trị đã
chỉ đạo rà soát, bổ sung dự thảo Phương hướng công tác nhân sự Ban chấp
hành Trung ương khóa XIV phù hợp với cơ cấu của mô hình tổ chức mới; rà
soát đề xuất Trung ương bổ sung quy hoạch cán bộ cấp chiến lược; dự thảo
sửa đổi, bổ sung một số nội dung Chỉ thị 35 của Bộ Chính trị về tổ chức
Đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Tất cả các công
việc quan trọng này đều hướng đến mục tiêu tổ chức thành công Đại hội
Đảng các cấp và tổ chức Đại hội XIV vào Quý I/2026 theo đúng kế hoạch đề
ra. Đồng thời, để góp phần đưa Nghị quyết Đại hội XIV đi ngay vào cuộc
sống, Bộ Chính trị trình Trung ương Đề án về "Phương hướng Bầu cử đại
biểu Quốc hội khoá XVI, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026
– 2031", với chủ trương là tổ chức bầu cử sớm hơn và cải cách, đổi mới,
nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, góp phần
phát huy đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân đối với công việc của đất
nước. Đây là những vấn đề rất chiến lược, rất quan trọng để phát triển
đất nước trong giai đoạn mới. Đề nghị các đồng chí Trung ương nghiên cứu
kỹ các tài liệu, cho ý kiến vào những nội dung quan trọng của từng
chuyên đề. Các văn bản này sẽ là cơ sở, là "kim chỉ nam" để
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thành công Đại hội Đảng các cấp; Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XIV và Bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XVI, đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031. Thưa các đồng chí. Trong
bối cảnh tình hình mới rất khẩn trương, cần sự đột phá, sự quyết đoán,
quyết liệt, sự đoàn kết, thống nhất từ khâu đề xuất chính sách tới việc
triển khai thực hiện, do vậy Tôi đề nghị các đồng chí Trung ương, các
đại biểu dự Hội nghị phát huy tinh thần trách nhiệm, tập trung trí tuệ,
tham gia đóng góp ý kiến vào các nội dung để Hội nghị đạt được các mục
tiêu, yêu cầu đề ra. Trên
tinh thần như vậy, Tôi tuyên bố khai mạc Hội nghị Trung ương 11 khóa
XIII. Một lần nữa chúc các đồng chí mạnh khỏe, chúc Hội nghị thành công
tốt đẹp. Xin trân trọng cảm ơn các đồng chí."
| False | | Chính trị | | Khai mạc Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII | Tin | Admin | Khai mạc Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII | /SiteAssets/Khaimac-HNTW11-2.jpg | | 10/04/2025 8:50 SA | No | Đã ban hành | | (TUAG)- Hội nghị Trung ương lần thứ 11 khóa XIII khai mạc sáng 10/4, dự kiến kéo dài ba ngày để thảo luận hai nhóm nội dung về sắp xếp đơn vị hành chính và chuẩn bị Đại hội XIV. 
Hội nghị diễn ra tại trụ sở Trung ương Đảng. Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu khai mạc và Chủ tịch nước Lương Cường điều hành phiên khai mạc.  Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu khai mạc hội nghị Trung ương 11, sáng 10/4. Ảnh: TTXVN.
Hội nghị Trung ương lần này sẽ tập trung thảo luận và cho ý kiến về 15 nội dung, xoay quanh hai nhóm vấn đề chính. Nhóm thứ nhất tập trung vào việc tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, sắp xếp đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương hai cấp. Nhóm thứ hai liên quan đến việc tiếp tục chuẩn bị cho Đại hội lần thứ 14 của Đảng và công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa 16, đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2026-2031. Cũng tại hội nghị này, Bộ Chính trị sẽ báo cáo Trung ương xem xét và quyết định một số nội dung quan trọng về công tác cán bộ theo thẩm quyền. Trung ương cũng sẽ được báo cáo về tình hình đất nước, thế giới và khu vực, cũng như những công việc quan trọng mà Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã giải quyết từ sau Hội nghị Trung ương 10 đến nay và các chuyên đề về hoàn thiện thể chế, đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Theo chương trình làm việc, Hội nghị Trung ương 11 khóa 13 dự kiến kéo dài đến ngày 12/4.
| False | | Chính trị | | An Giang: Đánh giá tiến độ thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy | Tin | Duy Anh | An Giang: Đánh giá tiến độ thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy | /SiteAssets/Hop-BCD-nq18-4a.jpg | | 01/04/2025 2:00 CH | Yes | Đã ban hành | | (TUAG)- Sáng 01/4, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang, Trưởng Ban Chỉ đạo tỉnh An Giang về tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) chủ trì cuộc họp Ban Chỉ đạo để đánh giá tiến độ thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của tỉnh thời gian qua, đề ra nhiệm vụ trọng tâm và cho ý kiến một số nội dung theo thẩm quyền để triển khai thực hiện thời gian tới.  Quang cảnh cuộc họp
Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh An Giang Lê Văn Nưng, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo tỉnh An Giang về tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW; Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Hồ Văn Mừng, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo tỉnh An Giang về tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW tham dự hội nghị. 
Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy An Giang Ngô Hồng Yến thông qua Kế hoạch định hướng tiếp tục sắp xếp đơn vị hành chính, tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tỉnh An Giang tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả 
Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Hồ Văn Mừng phát biểu tại cuộc họp Tại cuộc họp, Ban Chỉ đạo tỉnh An Giang về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã tập trung đánh giá tiến độ thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của tỉnh thời gian qua; thảo luận, cho ý kiến, thông qua Kế hoạch định hướng tiếp tục sắp xếp đơn vị hành chính, tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tỉnh An Giang tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Kế hoạch được Ban Chỉ đạo tỉnh xây dựng với mục đích, yêu cầu thực hiện nghiêm túc, quyết liệt các nội dung theo chỉ đạo, định hướng của Ban Chỉ đạo Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, hướng dẫn của Đảng ủy Chính phủ về sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị địa phương tinh gọn, đảm bảo hoạt động thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, nâng cao vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới.
 Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang, Trưởng Ban Chỉ đạo tỉnh An Giang về tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW phát biểu kết luận cuộc họp
Phát biểu kết luận cuộc họp, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang, Trưởng Ban Chỉ đạo tỉnh An Giang về tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW biểu dương những nỗ lực, cố gắng của các cơ quan, đơn vị, địa phương, đặc biệt là Ban Tổ chức Tỉnh ủy (cơ quan thường trực) đã tích cực tham mưu Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy việc sắp xếp tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị của tỉnh với tinh thần chủ động quyết liệt trong triển khai thực hiện nhiệm vụ theo chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương là “vừa chạy vừa xếp hàng”. Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang nhấn mạnh, xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần chỉ đạo của Trung ương là nhiệm vụ chính trị hết sức hệ trọng, cấp bách, là cuộc cách mạng, cần có sự đoàn kết, nhất trí, kiên quyết, kiên trì, quyết tâm chính trị rất cao trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội. Do đó, các thành viên Ban Chỉ đạo tiếp tục nêu cao tinh thần, trách nhiệm, căn cứ nhiệm vụ được phân công; cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, các cấp, ngành, trước hết là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cần gương mẫu, chủ động, quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ được giao; xác định những nội dung công việc ưu tiên và phối hợp nhịp nhàng trong triển khai thực hiện. Cần khẩn trương triển khai các công việc theo tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng”; cấp tỉnh không chờ cấp huyện, cấp huyện không chờ cơ sở. Tiếp tục tập trung lãnh, chỉ đạo thực hiện nghiêm Kết luận 126-KL/TW, ngày 14/2/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Kết luận 127-KL/TW, ngày 28/2/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Công văn 43-CV/BCĐ, ngày 20/3/2025 của Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng kết Nghị quyết 18; Kết luận 134-KL/TW, ngày 28/3/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Công văn 122-CV/ĐU, ngày 15/3/2025 của Đảng ủy Chính phủ liên quan đến việc sắp xếp tổ chức bộ máy. Đồng thời, phát huy vai trò, trách nhiệm của thành viên Ban Chỉ đạo tỉnh, hướng đến mục tiêu xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tỉnh tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức, hành động, quyết tâm chính trị trong cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị và sự đồng thuận trong xã hội để thực hiện thắng lợi chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Cần tổ chức thống kê, rà soát xử lý tài chính, ngân sách Nhà nước, trụ sở cơ quan, đơn vị trong quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy. Tuyệt đối không để xảy ra tình trạng thất thoát tài sản, tài chính, ngân sách Nhà nước và tiêu cực khi thực hiện sắp xếp; đồng thời, không để tình trạng bỏ trống, không sử dụng, sử dụng sai mục đích, sử dụng kém hiệu quả gây lãng phí tài sản. Việc sắp xếp, bố trí cán bộ, nhất là người đứng đầu ở những đơn vị sáp nhập phải thực sự công tâm, khách quan, công khai, minh bạch; dựa trên các quy định và trên cơ sở đánh giá cán bộ, chú trọng những người có năng lực để xem xét bố trí vị trí phù hợp; cán bộ được sắp xếp, bố trí công tác phải chấp hành sự phân công, vì sự phát triển chung của ngành, cơ quan, đơn vị và của tỉnh. Song song đó, tiếp tục nghiên cứu giải quyết chế độ, chính sách và các vấn đề liên quan đến công tác cán bộ khi sắp xếp, tinh gọn bộ máy để động viên, khuyến khích, bảo đảm quyền, lợi ích cho đội ngũ cán bộ thuộc diện phải sắp xếp, tinh gọn bộ máy. DUY ANH | True | | Đưa Nghị quyết vào cuộc sống | | Kế hoạch về tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị | Bài viết | H.T | Kế hoạch về tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị | /SiteAssets/CV-43-bcdtw.jpg | | 23/03/2025 2:00 CH | No | Đã ban hành | |
Ngày 20/3, Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng kết việc thực hiện
Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương
khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã ban hành
Công văn số 43-CV/BCĐ (Công văn số 43-CV/BCĐ) về Kế hoạch tiếp tục sắp
xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

Sau đây là nội dung Kế hoạch tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị: Thực hiện Kết luận số 121-KL/TW, ngày
24/01/2025 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (về tổng kết Nghị
quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả); Kết luận số
126-KL/TW, ngày 14/02/2025, Kết luận số 127-KL/TW, ngày 28/02/2025 của
Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị;
để việc sáp nhập đơn vị hành chính theo mô hình địa phương 2 cấp bảo đảm
đúng mục tiêu tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả gắn với tổ chức
thành công đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIV của Đảng, Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng kết Nghị quyết 18
yêu cầu các ban Đảng, cơ quan, đơn vị của Đảng ở Trung ương, các tỉnh
ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
và khẩn trương thực hiện một số nội dung, nhiệm vụ sau: I. Những nội dung, nhiệm vụ chuẩn bị báo cáo tại Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII 1. Đảng ủy Quốc hội chủ
trì, phối hợp với Đảng ủy Chính phủ, Ban Tổ chức Trung ương và các cơ
quan liên quan tiếp thu ý kiến các cơ quan, đơn vị, hoàn thiện các nội
dung sau đây báo cáo Bộ Chính trị trước ngày 25/3/2025; tiếp thu ý kiến
Bộ Chính trị, hoàn thiện Đề án, Tờ trình và gửi tài liệu, báo cáo Ban
Chấp hành Trung ương (qua Văn phòng Trung ương Đảng) trước ngày
1/4/2025: Đề án rà soát, sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Báo cáo về công tác hoàn thiện thể chế (bao gồm việc sửa đổi các quy định của Đảng, sửa đổi Hiến pháp, pháp luật,…). 2. Đảng ủy Chính phủ chủ
trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương và các cơ quan liên quan tiếp
thu ý kiến các địa phương, cơ quan, đơn vị, hoàn thiện Tờ trình, Đề án
sắp xếp tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ
chức chính quyền địa phương 2 cấp báo cáo Bộ Chính trị trước ngày
25/3/2025; tiếp thu ý kiến Bộ Chính trị, hoàn thiện Tờ trình, Đề án và
gửi tài liệu báo cáo Ban Chấp hành Trung ương (qua Văn phòng Trung ương
Đảng) trước ngày 1/4/2025. 3. Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương và
các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến các địa phương, cơ quan, đơn vị,
hoàn thiện Tờ trình, Đề án sắp xếp, tinh gọn cơ cơ quan Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng do Đảng,
Nhà nước giao nhiệm vụ (cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp xã) báo cáo Bộ
Chính trị trước ngày 25/3/2025; tiếp thu ý kiến Bộ Chính trị, hoàn thiện
Tờ trình, Đề án và gửi tài liệu báo cáo Ban Chấp hành Trung ương (qua
Văn phòng Trung ương Đảng) trước ngày 1/4/2025. 4. Đảng ủy Tòa án nhân dân Tối cao, Đảng ủy Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao
tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị và các cơ quan liên quan (tại
phiên họp ngày 14/3/2025); gửi xin ý kiến các cơ quan, đơn vị, địa
phương Đề án về hệ thống toà án, viện kiểm sát ở địa phương theo định
hướng không tổ chức cấp huyện; tiếp thu ý kiến các cơ quan, đơn vị, địa
phương, hoàn thiện Tờ trình, Đề án, báo cáo Bộ Chính trước ngày
25/3/2025; tiếp thu ý kiến Bộ Chính trị, hoàn thiện Tờ trình, Đề án và
gửi tài liệu báo cáo Ban Chấp hành Trung ương (qua Văn phòng Trung ương
Đảng) trước ngày 1/4/2025. Đảng ủy Chính phủ, Đảng ủy Quốc hội, Đảng
ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương, Đảng ủy Tòa án nhân dân
Tối cao, Đảng ủy Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao khi gửi Tờ trình, Đề án
(sau khi tiếp thu ý kiến của các địa phương, cơ quan, đơn vị) báo cáo Bộ
Chính trị (qua Văn phòng Trung ương Đảng) thì đồng thời gửi Ban Tổ chức
Trung ương để tổng hợp, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chấp
hành Trung ương. 5. Ban Tổ chức Trung ương
chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan: Hoàn thiện Đề án về hệ
thống tổ chức đảng ở địa phương (cấp tỉnh và cấp cơ sở). Hoàn thiện dự
thảo Quy định của Ban Chấp hành Trung ương về thi hành Điều lệ Đảng
(thay thế Quy định số 232-QĐ/TW, ngày 20/01/2025). Hoàn thiện dự thảo sửa đổi, bổ sung Chỉ
thị số 35-CT/TW ngày 14/6/2024 và Kết luận số 118-KL/TW ngày 18/01/2025
của Bộ Chính trị khóa XIII về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Tổng hợp các đề án của Đảng ủy Chính phủ,
Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương,
Đảng ủy Tòa án nhân dân tối cao, Đảng ủy Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
để xây dựng Báo cáo, Tờ trình về kết quả thực hiện Nghị quyết số
18-NQ/TW và Kết luận số 127-KL/TW của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, báo cáo
Bộ Chính trị để trình Ban Chấp hành Trung ương (tại Hội nghị Trung ương
11). Tiếp thu ý kiến các địa phương, cơ quan,
đơn vị, hoàn thiện Đề án, dự thảo Chỉ thị mới thay thế Chỉ thị số
35-CT/TW, Kết luận số 118-KL/TW ngày 18/01/2025 của Bộ Chính trị khóa
XIII về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIV của Đảng và dự thảo Quy định mới thay thế Quy định số 232-QĐ/TW,
ngày 20/01/2025 của Ban Chấp hành Trung ương về thi hành Điều lệ Đảng;
đồng thời, hoàn thiện Báo cáo về kết quả thực hiện Nghị quyết số
18-NQ/TW và Kết luận số 127-KL/TW, định hướng triển khai sắp xếp tổ chức
bộ máy thời gian tới, báo cáo Bộ Chính trị (ngày 27/3/2025); tiếp thu ý
kiến Bộ Chính trị, hoàn thiện Đề án, các dự thảo, Tờ trình và gửi tài
liệu báo cáo Ban Chấp hành Trung ương (qua Văn phòng Trung ương Đảng)
trước ngày 3/4/2025. Cùng với các nội dung trên, Ban Tổ chức
Trung ương chủ trì tham mưu xây dựng: Phương hướng công tác nhân sự Đại
hội XIV của Đảng. Rà soát bổ sung quy hoạch Ban Chấp hành
Trung ương khóa XIV, báo cáo Bộ Chính trị để trình Ban Chấp hành Trung
ương (tại Hội nghị lần thứ 11). Thẩm định các đề án của Đảng ủy Chính phủ,
Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương,
Đảng ủy Tòa án nhân dân tối cao, Đảng ủy Viện kiểm sát nhân dân tối cao
để báo cáo Bộ Chính trị. 6. Các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương, các ban đảng, cơ quan, đơn vị của Đảng ở Trung ương
nghiên cứu kỹ lưỡng, khẩn trương có ý kiến đúng thời hạn đối với các Đề
án của Đảng ủy Chính phủ, Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương, Đảng ủy Tòa án nhân dân
Tối cao, Đảng ủy Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao. II. Những nội dung, nhiệm vụ triển
khai thực hiện sau khi có nghị quyết, kết luận của Hội nghị lần thứ 11
Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII 1. Đối với các cơ quan, đơn vị của Đảng ở Trung ương, cấp ủy trực thuộc Trung ương: - Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương chủ
trì, tham mưu Bộ Chính trị tổ chức Hội nghị toàn quốc và các hoạt động
cần thiết để quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết, Kết luận của
Ban Chấp hành Trung ương, các văn bản liên quan về tiếp tục sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị. Chủ trì và phối hợp với các cơ quan
liên quan xây dựng đề án tổng thể, chủ động, kịp thời tuyên truyền, tạo
sự đồng thuận, thống nhất vì sự phát triển của đất nước. - Đảng ủy Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo:
Hướng dẫn việc xây dựng, hoàn thiện Đề án sắp xếp, sáp nhập các đơn vị
hành chính cấp tỉnh, cấp xã (chức năng, nhiệm vụ cụ thể, tổ chức bộ máy,
biên chế; bố trí cán bộ, trụ sở làm việc, nhà ở công vụ; xử lý tài sản,
trụ sở…). Chỉ đạo Đảng ủy các bộ, ngành theo chức
năng, nhiệm vụ tham mưu Chính phủ hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản
hướng dẫn các tỉnh, thành phố triển khai thực hiện các nhiệm vụ liên
quan đến việc sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính các cấp, tổ chức chính
quyền địa phương 2 cấp bảo đảm kịp thời, đồng bộ, cụ thể, thuận lợi cho
việc xây dựng đề án và tổ chức thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính các
cấp và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp (hoàn thành trước ngày
15/4/2025). Triển khai thực hiện Đề án tổ chức lại hệ thống thanh tra
(hoàn thành trước ngày 30/4/2025). Báo cáo thực hiện nhiệm vụ rà soát và
phương án sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật liên quan để thực
hiện chủ trương sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 2013, sắp xếp
các đơn vị hành chính, tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp… Tiếp tục nghiên cứu, có phương án sắp xếp
các cơ quan thuế, kho bạc nhà nước, hải quan, bảo hiểm xã hội, thống kê,
ngân hàng,… phù hợp với việc sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh và
thực hiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp. Sắp xếp tổ chức đảng trong các tập đoàn,
tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước; tổ chức đảng của các đơn vị
trực thuộc Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và một số bộ, ngành liên
quan. Tham mưu Ban Bí thư ban hành quy định về
cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy bộ, cơ quan ngang bộ đại diện chủ
sở hữu vốn với cấp ủy, tổ chức đảng của các tập đoàn, tổng công ty, ngân
hàng thương mại nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của doanh
nghiệp (hoàn thành trong tháng 8/2025). - Đảng ủy Quốc hội lãnh đạo, chỉ đạo: Việc
thực hiện các quy trình và sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp
năm 2013 (hoàn thành trước ngày 30/6/2025). Ủy ban Thường vụ Quốc hội
thông qua nghị quyết sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính cấp xã (hoàn
thành trước ngày 30/6/2025); Quốc hội thông qua nghị quyết sáp nhập các
đơn vị hành chính cấp tỉnh (tổ chức của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân
dân cấp tỉnh) (hoàn thành trước ngày 30/6/2025). Thông qua các luật,
nghị quyết có liên quan để triển khai chủ trương sửa đổi, bổ sung một số
điều của Hiến pháp 2013, tiếp tục sắp xếp các đơn vị hành chính, xây
dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp… - Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương và các cơ quan
liên quan: Tham mưu Bộ Chính trị ban hành quyết định chức năng, nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy của cơ quan Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở cấp Trung
ương (hoàn thành trước ngày 25/4/2025). Sắp xếp các tổ chức chính trị -
xã hội, các hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ trực thuộc
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (hoàn thành trước ngày 15/7/2025). Quyết định
tổ chức lại các tổ chức đảng trực thuộc (tại các tổ chức chính trị - xã
hội, hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ) phù hợp với mô hình
tổ chức sau khi sắp xếp lại (hoàn thành trước 30/6/2025). Đề xuất sửa
đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên quan để thực hiện chủ trương
sắp xếp các đơn vị hành chính, tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp. - Đảng ủy Tòa án nhân dân Tối cao, Đảng ủy
Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao chủ trì, phối hợp với các cấp ủy, tổ
chức đảng liên quan triển khai sắp xếp hệ thống toà án, viện kiểm sát ở
địa phương (hoàn thành trước ngày 30/6/2025); đề xuất sửa đổi, bổ sung
các quy định pháp luật có liên quan để thực hiện chủ trương sắp xếp các
đơn vị hành chính, tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp. - Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp
với các cơ quan liên quan: Tham mưu ban hành Nghị quyết, Kết luận của
Hội nghị Trung ương 11 về tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị. Tham mưu ban hành Quy định của Ban Chấp
hành Trung ương về thi hành Điều lệ Đảng (hoàn thành trước ngày
25/4/2025). Dự thảo Chỉ thị mới thay thế Chỉ thị số 35-CT/TW ngày
14/6/2024 và Kết luận số 118-KL/TW (hoàn thành trước ngày 20/4/2025). Tham mưu Ban Bí thư ban hành Hướng dẫn một số vấn đề cụ thể thi hành Điều lệ Đảng (hoàn thành trước ngày 15/5/2025). Tham mưu Ban Bí thư ban hành quy định chức
năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh,
cấp xã, phường, đặc khu (hoàn thành trước ngày 15/6/2025). Tham mưu Bộ Chính trị ban hành các quyết
định thành lập đảng bộ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau
khi sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh). Tham mưu Bộ Chính trị chỉ định ban chấp
hành, ban thường vụ, bí thư, phó bí thư, ủy viên ủy ban kiểm tra, chủ
nhiệm, phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cấp ủy cấp tỉnh nhiệm kỳ 2020 -
2025; chỉ định đại biểu của đảng bộ cấp tỉnh mới thành lập đi dự Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Tham mưu Bộ Chính trị, Ban Bí thư phân
công, điều động cán bộ diện Trung ương quản lý trước khi sáp nhập các
đơn vị hành chính cấp tỉnh. Tham mưu Ban Bí thư đồng ý chủ trương để
cấp ủy cấp tỉnh giới thiệu nhân sự với hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố
nhiệm kỳ 2021 - 2026 bầu các chức danh chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ
tịch ủy ban nhân dân theo quy định (sau khi sáp nhập các đơn vị hành
chính cấp tỉnh) (hoàn thành trước ngày 30/8/2025). - Đảng ủy Công an Trung ương: Lãnh đạo,
chỉ đạo việc sắp xếp công an xã, phường, đặc khu phù hợp với việc sáp
nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh và thực hiện mô hình tổ chức chính
quyền địa phương 2 cấp và tổ chức thực hiện. Tham mưu Chính phủ bổ sung, sửa đổi, ban
hành hoặc Bộ Công an ban hành theo thẩm quyền các quy định, hướng dẫn
thực hiện các dịch vụ công, quản lý xã hội… theo chức năng, nhiệm vụ của
Bộ Công an theo hướng cung cấp dịch vụ công trực tuyến, dịch vụ số cho
người dân và doanh nghiệp không phụ thuộc địa giới hành chính, không thu
phí, lệ phí (đối với tổ chức, cá nhân phải thay đổi giấy tờ, thủ tục do
sắp xếp đơn vị hành chính) (hoàn thành trước ngày 30/6/2025). Tham mưu cấp có thẩm quyền lãnh đạo, chỉ
đạo lực lượng công an; đồng thời, thực hiện lãnh đạo, chỉ đạo công an
các cấp tăng cường công tác, phối hợp với các cấp, các ngành kịp thời
nắm bắt dư luận xã hội, vận động quần chúng nhân dân, bảo đảm giữ vững,
ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trước, trong và sau
khi thực hiện sắp xếp các các vị hành chính, sắp xếp tổ chức bộ máy, đại
hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIV của Đảng. 2. Đối với các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương: Các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung
ương lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đề án chi tiết không tổ chức cấp huyện,
sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính cấp xã (lưu ý quan tâm bố trí cán
bộ, trụ sở, phương tiện, trang thiết bị) theo chỉ đạo của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, hướng dẫn của Đảng ủy Chính phủ (hoàn thành trước ngày
30/6/2025); đồng thời, phối hợp với các ban Đảng ở Trung ương, Đảng ủy
Chính phủ, Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
Trung ương triển khai phương án sáp nhập tỉnh. Cụ thể: - Các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương (trước khi sắp xếp): Phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương trong
việc tham mưu Bộ Chính trị chỉ định ban chấp hành, ban thường vụ, bí
thư, phó bí thư, ủy viên ủy ban kiểm tra, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm ủy
ban kiểm tra cấp ủy cấp tỉnh (sau khi sắp xếp) nhiệm kỳ 2020 - 2025. Phối hợp với các tỉnh ủy, thành ủy (đã
được Ban Chấp hành Trung ương đồng ý chủ trương sáp nhập) chuẩn bị dự
thảo các văn kiện của cấp ủy tỉnh, thành phố (sau khi sáp nhập) và các
công việc chuẩn bị tổ chức đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh, thành phố (sau
khi sáp nhập) nhiệm kỳ 2025 - 2030. Thực hiện các nội dung bảo đảm hoạt động
của các cơ quan, đơn vị của các cơ quan đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc cấp xã (bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức, viên chức, người lao
động; cơ sở vật chất, trang thiết bị; chuẩn bị nhân sự cấp ủy, ban
thường vụ, bí thư, phó bí thư, ủy ban kiểm tra, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm
ủy ban kiểm tra, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc;
thành lập, quyết định chức năng, nhiệm vụ, quy chế làm việc của cơ quan
chuyên trách tham mưu, giúp việc) (hoàn thành trước ngày 30/6/2025). Chỉ đạo tổ chức đại hội đại biểu đảng bộ xã, phường, đặc khu nhiệm kỳ 2025 - 2030 (hoàn thành trước ngày 31/8/2025). - Các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương (sau khi sắp xếp): Thành lập, quyết định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc cấp ủy tỉnh, thành phố. Lãnh đạo, chỉ đạo việc thành lập, quyết
định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố. Lãnh đạo, chỉ đạo việc thành lập, quyết định chức năng, nhiệm vụ cơ quan Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, thành phố. Lãnh đạo, chỉ đạo việc bố trí, sắp xếp cán
bộ, công chức, viên chức, người lao động; bố trí trụ sở, trang thiết
bị, các điều kiện bảo đảm phục vụ công tác của cấp ủy, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các cơ quan chức năng của tỉnh, thành phố (hoàn thành
trước ngày 15/7/2025). Lãnh đạo, chỉ đạo việc kiện toàn tổ chức,
cán bộ đảng ủy các cơ quan đảng, đảng ủy ủy ban nhân dân, đảng uỷ quân
sự, đảng ủy công an, các đảng ủy ở nơi có đặc điểm riêng trực thuộc tỉnh
ủy, thành ủy (hoàn thành trước ngày 15/7/2025). Chỉ định đại biểu dự đại hội đảng bộ tỉnh, thành phố nhiệm kỳ 2025 - 2030. Hoàn thiện các văn kiện, công tác chuẩn bị
và tổ chức đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh, thành phố nhiệm kỳ 2025 -
2030 (hoàn thành trước 31/10/2025). Phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương trong
việc tham mưu Bộ Chính trị chỉ định đại biểu của đảng bộ (sau khi hợp
nhất) đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. (ix) Chỉ
định ban chấp hành, ban thường vụ, bí thư, phó bí thư, ủy viên ủy ban
kiểm tra, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra đảng ủy xã, phường,
đặc khu nhiệm kỳ 2025 - 2030 đồng bộ với chuẩn bị nhân sự hội đồng nhân
dân xã, phường, đặc khu nhiệm kỳ 2026 - 2031. III. Tổ chức thực hiện 1. Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị và người đứng đầu: - Chủ động, tích cực làm tốt công tác
tuyên truyền, vận động, định hướng tư tưởng và dư luận xã hội, bảo đảm
sự đoàn kết toàn dân, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân. - Các cơ quan, đơn vị của Đảng ở Trung
ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan rà soát, tham mưu Bộ
Chính trị, Ban Bí thư bổ sung, sửa đổi, ban hành (hoặc ban hành theo
thẩm quyền) các văn bản, quy định, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ,
quy trình công tác, quy trình quản lý… theo hướng xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp ủy (cấp Trung ương, cấp
tỉnh, cấp cơ sở), từng cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc, đơn vị
sự nghiệp của cấp ủy thực hiện (hoàn thành trước ngày 30/4/2025). - Rà soát, tham mưu báo cáo cấp có thẩm
quyền trước khi trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ bổ
sung, sửa đổi, ban hành (hoặc ban hành theo thẩm quyền) các văn bản quy
phạm pháp luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm
của từng cấp, từng ngành, cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân. - Tập trung chỉ đạo, khẩn trương triển
khai quyết liệt các nhiệm vụ, bảo đảm các cơ quan, đơn vị, tổ chức sau
sắp xếp hoạt động thông suốt, hiệu lực, hiệu quả ngay, không để gián
đoạn công việc, không để bỏ trống địa bàn, lĩnh vực, không để ảnh hưởng
đến các hoạt động bình thường của cơ quan, đơn vị, tổ chức và xã hội;
không thu các loại phí, lệ phí của cá nhân, tổ chức phải thay đổi giấy
tờ, thủ tục do sắp xếp đơn vị hành chính. Ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy trực
thuộc Trung ương: Chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư về
việc chỉ đạo phương án sắp xếp các xã, phường, đặc khu; chỉ định nhân sự
ban chấp hành, ban thường vụ, bí thư, phó bí thư, ủy ban kiểm tra, chủ
nhiệm, phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra đảng ủy cấp xã bảo đảm đúng quy
định, đúng tiến độ, yêu cầu đề ra. Chịu trách nhiệm kiểm soát chặt chẽ
tình hình ở các địa bàn bảo đảm giữ vững ổn định tình hình an ninh trật
tự, tuyệt đối không để xảy ra tình trạng khiếu kiện đông người, không
phát sinh điểm nóng, phức tạp. - Phân công cụ thể trách nhiệm triển khai
xây dựng các đề án, nhiệm vụ theo đúng kế hoạch, tiến độ; định kỳ báo
cáo tiến độ thực hiện nhiệm vụ, đề án về Ban Chỉ đạo (qua Ban Tổ chức
Trung ương) trước 15 giờ ngày thứ 4 hàng tuần (từ 16/4/2025 -
31/10/2025). 2. Ban Tổ chức Trung ương giúp
Ban Chỉ đạo thường xuyên theo dõi, nắm chắc tình hình, tham gia ý kiến
(khi cần thiết) trong quá trình triển khai các bước xây dựng, thực hiện
đề án, nhiệm vụ của các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị bảo đảm
đúng tiến độ, nội dung định hướng, gợi ý và chỉ đạo của Bộ Chính trị,
Ban Chỉ đạo. Nguồn: BCĐTW
| False | | Chính trị | | Những con số đáng chú ý khi sáp nhập tỉnh, bỏ cấp huyện, tinh gọn xã | Bài viết | H.T | Những con số đáng chú ý khi sáp nhập tỉnh, bỏ cấp huyện, tinh gọn xã | /SiteAssets/Tinh-gon-bo-may-11.jpg | | 22/03/2025 4:00 CH | No | Đã ban hành | | Theo định hướng của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tới đây đơn vị hành chính
các cấp sẽ được sắp xếp, tổ chức lại và xây dựng mô hình chính quyền địa
phương 2 cấp với nhiều con số đáng chú ý. 
H.T (theo Vietnamnet)
| False | | Đưa Nghị quyết vào cuộc sống | | Phát huy vai trò của thanh niên bước vào kỷ nguyên mới | Bài viết | | Phát huy vai trò của thanh niên bước vào kỷ nguyên mới | /SiteAssets/Tuoitre-vn-a.jpg | | 12/03/2025 5:00 CH | No | Đã ban hành | | (TUAG)- Trải qua lịch sử dân tộc, nhất là trong hai cuộc kháng chiến đấu tranh giành lấy độc lập và trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, vai trò của lực lượng thanh niên đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của dân tộc.

Ảnh minh họa
Trong bối cảnh xã hội tư bản chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ sau cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, C.Mác - Ph.Ăngghen cho rằng, cần phải giải thoát cho thanh thiếu niên khỏi sự tác động có tính chất phá hoại của hệ thống hiện đại đương thời. Bởi thanh niên là cội nguồn sự sống của mỗi quốc gia, dân tộc và giai cấp công nhân. Vì vậy cần phải chú trọng tới giáo dục thanh niên. Hai ông còn cho rằng, tương lai của giai cấp công nhân, tương lai của nhân loại hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên – tức là lực lượng thanh niên. Còn theo V.I.Lênin: "…Chúng ta là Đảng của tương lai, mà tương lai lại thuộc về thanh niên. Chúng ta là Đảng của những người cách tân, mà thanh niên lại hào hứng đi theo những người cách tân. Chúng ta là Đảng của sự chiến đấu quên mình với những gì đã mục nát, cũ kỹ, mà thanh niên bao giờ cũng tiên phong trong cuộc đấu tranh quên mình ấy". Trong toàn bộ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người luôn đặc biệt quan tâm đến thanh niên và công tác vận động thanh niên đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Người đánh giá rất cao vai trò của thanh niên là sức mạnh, là động lực của cách mạng. Thanh niên chính là đội dự bị của Đảng, của cách mạng. Vì vậy, sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc là sự nghiệp các thế hệ thanh, thiếu niên. Người chỉ rõ: "Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách, dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai - tức là các cháu thiếu niên nhi đồng". Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Nói chung thanh niên phải chuẩn bị làm người chủ nước nhà. Muốn thế phải ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hoá, trước hết phải rèn luyện và thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa, gột rửa cá nhân chủ nghĩa". Vì vậy, trong Di chúc, Người đã căn dặn: "Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa "hồng" vừa "chuyên"; "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết". Tại Đại hội Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh toàn quốc lần thứ XII nhiệm kỳ 2022 - 2027, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến dự và có bài phát biểu quan trọng chỉ đạo Đại hội, khẳng định: "Đội ngũ cán bộ Đoàn đông đảo, trẻ trung, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đã và đang trở thành nguồn cán bộ kế cận tin cậy của Đảng, chính quyền và đoàn thể ở các cấp"; "Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã có nhiều cố gắng để đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đặc biệt là trong việc giáo dục lý tưởng cách mạng, bồi dưỡng đạo đức, lối sống lành mạnh cho thế hệ trẻ, qua đó, tính tích cực chính trị, niềm tin của thanh niên đối với Đảng, với tổ chức Đoàn, với công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đang được củng cố. Thanh niên thực sự đã và đang phát huy được thế mạnh của sức trẻ, tinh thần xung kích, sáng tạo, tình nguyện của mình ở những nơi khó khăn, gian khổ, những việc mới, việc khó, góp sức vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Từ truyền thuyết với câu chuyện Thánh Gióng đánh đuổi giặc Ân, cho đến lịch sử với các anh hùng Trần Quốc Toản, Lê Văn Tám, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong..., và nhất là trong thời điểm cả nước phòng, chống đại dịch COVID-19 với biết bao thanh niên đã lao mình vào những nơi nguy hiểm nhất để phân phát lương thực, thực phẩm, cứu chữa người bệnh..., đã nói lên trong bất cứ thời đại nào thì thanh niên luôn là lực lượng hết sức quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Tổng Bí thư Tô Lâm trò chuyện với đại biểu Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam lần thứ IX
Vì vậy, để bước vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, việc phát huy vai trò của thanh niên là một trong những vấn đề cần phải được chú trọng, trước mắt là cần thực hiện tốt công tác thanh niên trong tình hình mới. Trong đó cần chú trọng thực hiện các giải pháp như sau: Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị về vai trò của công tác thanh niên. Tiếp tục quán triệt trong toàn hệ thống chính trị về vai trò, vị trí quan trọng của thanh niên và công tác thanh niên nhằm tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động, tích cực chăm lo cho sự phát triển của thanh niên, công tác thanh niên và xây dựng Đoàn, Hội vững mạnh về mọi mặt. Các cấp uỷ, tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu phải nắm chắc thực trạng công tác thanh niên để định hướng lãnh đạo, kiểm tra, đôn đốc công tác thanh niên; cải tiến và nâng cao chất lượng hoạt động, định kỳ cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy lắng nghe tổ chức Đoàn cùng cấp báo cáo tình hình thanh niên và hoạt động của Đoàn; chọn lựa, phân công cấp uỷ viên phụ trách và trực tiếp làm công tác Đoàn, Hội; tổ chức tiếp xúc, đối thoại giữa lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền với thanh niên; đưa tiêu chí kết quả lãnh đạo tổ chức Đoàn và công tác thanh niên vào việc đánh giá, xếp loại tổ chức cơ sở đảng hàng năm. Thứ hai, xây dựng cơ chế, tạo lập môi trường xã hội lành mạnh cho thanh niên lập nghiệp, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Xây dựng cơ chế đối thoại giữa thanh niên, thiếu niên, thiếu nhi, học sinh, sinh viên và chính quyền các cấp liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ để có thể giải đáp những tâm tư, nhu cầu, nguyện vọng của thế hệ trẻ. Qua đó cũng nắm bắt được suy nghĩ của thế hệ trẻ để hoạch định chính sách cho đúng đắn, phù hợp. Trước hết là phải huy động được các nguồn lực để tuyên truyền, giáo dục đối với thế hệ trẻ nhằm định hướng nghề nghiệp, định hướng chính trị, định hướng tương lai cho họ. Tập trung đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp, kỹ năng lao động, việc làm và thu nhập của thanh niên…, từng bước hướng tới chính sách đào tạo nguồn nhân lực trẻ để có thể sử dụng trong hệ thống chính trị. Xây dựng các thiết chế văn hoá, các điểm vui chơi, giải trí lành mạnh cho thanh thiếu nhi. Thứ ba, thực hiện tốt công tác cán bộ, có chính sách trọng dụng người tài trong thanh niên. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Từng cấp ủy đảng xây dựng đề án quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ làm công tác thanh niên, vừa bảo đảm ổn định trước mắt, vừa phục vụ yêu cầu phát triển lâu dài. Cần lãnh đạo các cấp ủy, các tổ chức trong hệ thống chính trị sử dụng cán bộ trẻ theo tỷ lệ, có sự liên thông; chú trọng cán bộ trẻ trưởng thành từ công tác thanh niên. Đối với cán bộ trẻ có năng lực, đảm bảo phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cần thí điểm bố trí trở thành lãnh đạo chủ chốt của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Như vậy mới có thể khuyến khích, động viên thanh niên phấn đấu, phát huy vai trò của thanh niên và thay đổi tư duy mới trong toàn bộ hệ thống chính trị. Thứ tư, đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo đối với công tác thanh niên. Để đổi mới phương thức lãnh đạo đối với công tác thanh niên trong thời gian tới được tốt hơn nữa, trước mắt cần đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo công tác thanh niên theo hướng chuyên nghiệp hoá hơn. Cụ thể, cần tiếp tục có những chủ trương, nghị quyết chuyên đề về lãnh đạo đối với công tác thanh niên, trong đó cần cụ thể hoá các mục tiêu, nhiệm vụ mà công tác thanh niên phải đạt được trong từng giai đoạn cụ thể gắn với điều kiện thực tế của địa phương cũng như của từng cơ quan, đơn vị. Trong các chủ trương, chính sách trên các lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực liên quan đến thanh niên thì phải cần xác định thanh niên là lực lượng chính, trọng tâm tham gia vào các lĩnh vực này. Có như thế mới có thể nâng cao hơn nữa nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền, các ngành đối với công tác thanh niên. Cũng cần đẩy mạnh công tác sơ, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm đối với công tác thanh niên. Có như vậy mới kịp thời đánh giá, nhận định, khắc phục những vấn đề còn hạn chế, cũng như phát huy những kết quả đã đạt được trong việc lãnh đạo đối với công tác thanh niên. Thứ năm, tập hợp thanh niên, tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Thông qua việc thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị "Ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội" và Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị "Ban hành Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền", phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị - xã hội, trong đó có tổ chức đoàn thanh niên và thanh niên trong công tác tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Bằng các hoạt động thiết thực của thanh niên thông qua các phong trào hoạt động như đối thoại của lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền với thanh niên, thanh niên xung kích tham gia xây dựng nông thôn mới – đô thị văn minh…, tập hợp và phát huy vai trò của thanh niên trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Phát động mạnh mẽ phong trào thi đua yêu nước, lập thành tích chào mừng các ngày lễ lớn của dân tộc trong thanh niên để tập hợp và phát huy tính xung kích, lòng nhiệt huyết, sự sáng tạo của tuổi trẻ trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Thông qua hoạt động của tổ chức đoàn thanh niên tập hợp thanh niên vào tổ chức và thực hiện tốt công tác phát triển, kết nạp đảng viên trong thanh niên. Thông qua các phong trào hoạt động của tổ chức đoàn, hội, kịp thời phát hiện và bồi dưỡng, giới thiệu cho cấp uỷ chi bộ trực thuộc những thanh niên có hoài bão, lý tưởng, đạo đức, tác phong đủ điều kiện kết nạp vào đảng để chi bộ xem xét, giáo dục, giúp thanh niên phấn đấu đứng vào hàng ngũ của Đảng. Cùng với đó là làm tốt công tác tạo nguồn cán bộ kế thừa trong lực lượng thanh niên và đội ngũ cán bộ trẻ. Thứ sáu, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với công tác thanh niên. Trong chương trình công tác kiểm tra, giám sát toàn khoá và hàng năm của cấp uỷ cần đưa vào nội dung về kiểm tra, giám sát đối với công tác thanh niên. Trên cơ sở đó, các ngành sẽ tiến hành kiểm tra, giám sát về công tác thanh niên để kịp thời phát huy các kết quả đạt được cũng như khắc phục các hạn chế trong việc lãnh đạo đối với công tác thanh niên. Bên cạnh đó, thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các tổ chức đoàn thực hiện công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên đối với công tác thanh niên. Võ Thanh Phượng | False | | Đưa Nghị quyết vào cuộc sống | | Thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phối hợp công tác tuyên huấn, tuyên giáo, công tác tổ chức xây dựng Đảng trong lực lượng vũ trang tỉnh | Tin | Ngọc Hân | Thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phối hợp công tác tuyên huấn, tuyên giáo, công tác tổ chức xây dựng Đảng trong lực lượng vũ trang tỉnh | /SiteAssets/LLVT-phoihop-tgtc-1.jpg | | 25/02/2025 9:00 SA | No | Đã ban hành | | (TUAG)- Chiều 24/02, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh An Giang phối hợp Huyện ủy Châu Phú tổ chức Hội nghị sơ kết phối hợp công tác tuyên huấn, tuyên giáo, công tác tổ chức xây dựng Đảng năm 2024; triển khai phương hướng, nội dung phối hợp năm 2025 giữa Phòng Chính trị Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh với ngành tuyên giáo, tổ chức 11 huyện, thị, thành ủy. Đồng chí Nguyễn Thúc Linh, Tỉnh ủy viên, Chính ủy Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh; đồng chí Nguyễn Phú Tân, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Châu Phú; đồng chí Thi Hồng Thúy, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Châu Phú chủ trì Hội nghị.  Quang cảnh Hội nghị
Năm 2024, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh; sự phối hợp giúp đỡ của cấp uỷ, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể và Nhân dân trên địa bàn tỉnh, công tác quân sự, quốc phòng của lực lượng vũ trang (LLVT) tỉnh được triển khai thực hiện một cách toàn diện, đạt kết quả tốt. Trong thành tích chung của LLVT tỉnh, việc phối hợp hoạt động công tác tuyên huấn, tuyên giáo, công tác tổ chức xây dựng Đảng, công tác cán bộ và công tác bảo vệ an ninh giữa Phòng Chính trị với Ban Tuyên giáo, Ban Tổ chức 11 huyện, thị, thành ủy đã có nhiều đóng góp tích cực, hiệu quả, nổi bật: Về công tác tuyên giáo đã phối hợp tham mưu Đảng ủy, Bộ Chỉ huy Quân sự (CHQS) tỉnh, Ban Thường vụ các huyện, thị, thành ủy lãnh đạo, chỉ đạo Đảng ủy, Ban CHQS các huyện, thị xã, thành phố quán triệt, triển khai thực hiện tốt các hoạt động công tác tuyên huấn, tuyên giáo năm 2024. Trong đó, nổi bật là công tác phối hợp hướng dẫn, chỉ đạo tổ chức họp mặt kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 35 năm Ngày Hội Quốc phòng toàn dân, 35 năm Ngày truyền thống Hội Cựu chiến binh Việt Nam; phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên giáo Thành ủy Long Xuyên, Thị ủy Tịnh Biên, Huyện ủy Chợ Mới, Thoại Sơn hướng dẫn, chỉ đạo xây dựng văn kiện và tiến hành diễn tập KVPT năm 2024 đạt được mục đích, yêu cầu đề ra và bảo đảm an toàn tuyệt đối. Phối hợp chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho cán bộ, chiến sĩ LLVT và Nhân dân ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; về đường lối, quan điểm quốc phòng - an ninh của Đảng trong giai đoạn mới. Trong năm, đã tham mưu cho cấp ủy địa phương tổ chức tốt các đợt nghiên cứu, quán triệt, học tập, triển khai thực hiện chỉ thị, nghị quyết của hội nghị Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị; Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 09/5/2024 của Bộ Chính trị Quy định chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới; quán triệt; triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết của Tỉnh ủy về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2024; Nghị quyết của Đảng ủy Quân sự tỉnh về lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và Nghị quyết của cấp ủy địa phương năm 2024. Phối hợp tuyên truyền góp phần làm tốt công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ, tuyển sinh quân sự, giáo dục quốc phòng an ninh...các địa phương đều hoàn thành chỉ tiêu, chất lượng tốt. Phối hợp chỉ đạo thực hiện tốt công tác phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa. Công tác phối hợp giữa LL47 của Bộ CHQS tỉnh và Lực lượng của Ban Chỉ đạo 35 địa phương có nhiều chuyển biến tích cực. Về công tác tổ chức, công tác cán bộ và công tác bảo vệ an ninh, phòng Chính trị Bộ CHQS tỉnh và Ban Tổ chức các Huyện, Thị, Thành ủy phối hợp tham mưu đề xuất cho Ban Thường vụ Đảng ủy Quân sự tỉnh và Thường trực Huyện, Thị, Thành ủy lãnh đạo Đảng ủy Quân sự huyện, thị xã, thành phố thực hiện tốt công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, kiện toàn các tổ chức đảng trong LLVT luôn đảm bảo số lượng, chất lượng, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong LLVT tỉnh. Phối hợp triển khai thực hiện Hướng dẫn số 24-HD/TW, ngày 20/9/2023 của Ban Tổ chức Trung ương về tổ chức và hoạt động của chi bộ quân sự xã, phường, thị trấn. Đến nay, 155/155 chi bộ quân sự xã, phường, thị trấn có chi ủy. Phối hợp thực hiện tốt công tác phát triển đảng, tỷ lệ đảng viên trong lực lượng dân quân tự vệ đạt 24,97% (tăng 1,56% so với năm 2023); đảng viên trong lực lượng dự bị động viên đạt 12,67% (tăng 0,83% so với năm 2023). Phối hợp tham mưu thực hiện quy trình nhân sự cấp ủy Đại hội nhiệm 2025-2030; rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ chủ trì Ban CHQS huyện đúng theo hướng dẫn của Tổng Cục Chính trị. Công tác bảo vệ chính trị nội được phối hợp tốt, đúng quy trình gắn kết chặt chẽ với công tác bổ nhiệm, đề bạt, tuyển sinh quân sự, kết nạp đảng viên vào cấp ủy, làm cán bộ chủ chốt; làm việc ở các cơ quan, đơn vị trong yếu, cơ mật của LLVT tỉnh.  Đồng chí Nguyễn Thúc Linh, Tỉnh ủy viên, Chính ủy Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh phát biểu kết luận Hội nghị
Phát biểu kết luận Hội nghị, đồng chí Nguyễn Thúc Linh, Tỉnh ủy viên, Chính ủy Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh ghi nhận và chân thành cám ơn lãnh đạo Ban Tuyên giáo, Ban Tổ chức 11 huyện, thị, thành ủy đã có sự quan tâm, phối hợp và hỗ trợ cho Phòng Chính trị Bộ CHQS tỉnh thực hiện tốt vai trò tham mưu Đảng ủy, Bộ CHQS tỉnh trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện có hiệu quả công tác tuyên huấn, tuyên giáo, công tác tổ chức xây dựng đảng trong LLVT tỉnh trong năm qua, Năm 2025, đồng chí đề nghị công tác phối hợp cần quan tâm một số nhiệm vụ: Phối hợp thống nhất sửa đổi, bổ sung Quy chế cho phù hợp với tình hình thực tế; hướng vào thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của LLVT tỉnh và nhiệm vụ chính trị trọng tâm của địa phương, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh chính trị trên địa bàn. Chủ động trong nắm, phân tích, dự báo và định hướng tư tưởng cán bộ, chiến sĩ LLVT và dư luận Nhân dân trên địa bàn; phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Phòng, chống có hiệu quả âm mưu thủ đoạn “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá của các thế lực thù địch, phản động, ngăn chặn các biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng, củng cố thế trận lòng dân trên địa bàn tỉnh. Phối hợp chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của tổ chức Đảng các cấp; nâng cao chất lượng giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục truyền thống, phổ biến pháp luật, giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Phối hợp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, đấu tranh trên không gian mạng của Lực lượng 47 và Lực lượng 35 của các địa phương. Đẩy mạnh phối hợp tuyên truyền về họat động quân sự quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam; 80 năm Ngày Truyền thống LLVT tỉnh (26/8/1945 - 26/8/2025). Cổ vũ phong trào thi đua quyết thắng của LLVT tỉnh gắn với thi đua yêu nước của địa phương góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh trên địa bàn. Phối hợp, hướng dẫn các tổ chức Đảng trong LLVT huyện tổ chức Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2025-20230 chặt chẽ, đúng nguyên tắc và quy định của Đảng. Có chủ trương, biện pháp phối hợp tạo nguồn phát triển đảng trong lực lượng DQTV đạt được chỉ tiêu Nghị quyết đề ra. Thường xuyên cung cấp tài liệu, trao đổi thông tin giữa Phòng Chính trị và Ban Tuyên giáo, Ban Tổ chức các huyện, thị, thành ủy; phối hợp tổ chức tốt hội nghị sơ kết công tác phối hợp năm 2025 vào tháng 01 - 02/2026 do Ban Tuyên giáo và Dân vận, Ban Tổ chức Huyện ủy Tri Tôn đăng cai./. NGỌC HÂN | False | | Đưa Nghị quyết vào cuộc sống | | An Giang: Sắp xếp tổ chức bộ máy ở tỉnh cơ bản hoàn thành theo đúng lộ trình | Tin | Ngọc Hân | An Giang: Sắp xếp tổ chức bộ máy ở tỉnh cơ bản hoàn thành theo đúng lộ trình | /SiteAssets/Lists/ChinhTri/EditForm/TU-traoquyetdinh-sxbm-2a.jpg | | 20/02/2025 2:30 CH | Yes | Đã ban hành | | (TUAG)-
Sáng ngày 20/02, Ban Thường vụ Tỉnh ủy An Giang tổ chức Lễ công bố và
trao quyết định của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy về
công tác tổ chức và công tác cán bộ. Đồng chí Lê Hồng Quang, Ủy viên
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy chủ trì buổi lễ. Đồng chí
Lê Văn Nưng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân
tỉnh; đồng chí Hồ Văn Mừng, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh; các đồng chí
Ban Thường vụ Tỉnh ủy; lãnh đạo các đơn vị, địa phương có liên quan và
cán bộ được trao quyết định cùng tham dự.  Quang cảnh buổi lễ Tại buổi lễ, đồng chí Ngô Hồng Yến, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy đã công bố các quyết định: Công
bố: Quyết định kết thúc Ban bảo vệ chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh; Kết
thúc hoạt động Đảng bộ Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh; Kết thúc hoạt
động các đảng đoàn, ban cán sự đảng. Thành lập Ban Tuyên giáo và Dân
vận Tỉnh ủy; thành lập Đảng bộ cơ quan Đảng tỉnh; thành lập Đảng bộ Ủy
ban nhân dân tỉnh, kể từ ngày 01/3/2025.  Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang trao Quyết định 11 đồng chí thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý Quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về điều động 11 đồng chí thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý, cụ thể: Điều động, chỉ định đồng chí Võ Nguyên Nam,
Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy, tham gia Ban
Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy, giữ chức Bí thư Huyện ủy Châu Phú,
nhiệm kỳ 2020-2025. Điều động đồng chí Nguyễn Như Anh, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Thoại Sơn, đến Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh để bổ nhiệm giữ chức vụ Giám đốc Sở Nội vụ. Điều động đồng chí Nguyễn Phú Tân, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Châu Phú, đến Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh để được bổ nhiệm chức vụ Giám đốc Sở Xây dựng. Điều động, chỉ định đồng chí Thái Minh Hiển,
Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, tham gia Ban Chấp
hành, Ban Thường vụ Huyện ủy, giữ chức Bí thư Huyện ủy Thoại Sơn, nhiệm
kỳ 2020-2025. Điều động, chỉ định đồng chí Lê Nguyên Châu, Giám đốc Sở Nội vụ, tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Bí thư Huyện ủy Phú Tân, nhiệm kỳ 2020-2025. Điều động đồng chí Đinh Văn Bảo,
Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Long Xuyên, đến
Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh để được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó Giám đốc
Sở Tài chính. Điều động, chỉ định đồng chí Trần Minh Đức,
Giám đốc Ban Quản lý Dự án đầu tư xây dựng và Khu vực phát triển đô thị
tỉnh, tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, giữ chức Phó Bí thư Thành
ủy Long Xuyên, nhiệm kỳ 2020-2025 và giới thiệu bầu giữ chức Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố Long Xuyên, nhiệm kỳ 2021-2026. Điều động đồng chí Nguyễn Thị Phương Linh,
Phó Bí thư Đảng ủy Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh, đến Đảng ủy Ủy
ban nhân dân tỉnh để được bổ nhiệm chức vụ Phó Giám đốc Sở Dân tộc và
Tôn giáo. Điều động đồng chí Lê Kỳ Quang,
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành, đến
Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh để được bổ nhiệm chức vụ Chánh Văn phòng Ủy
ban nhân dân tỉnh. Điều động, chỉ định đồng chí Nguyễn Thị Phương Lan,
Phó Giám đốc Sở Tài chính, tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện
ủy, giữ chức Phó Bí thư Huyện ủy Châu Thành, nhiệm kỳ 2020-2025 và giới
thiệu bầu giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành, nhiệm kỳ
2021-2026. Điều động, chỉ định đồng chí Võ Thị Thủy Tiên,
Phó Bí thư Đảng ủy Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh, tham gia Ban Chấp
hành, Ban Thường vụ Thị ủy, giữ chức Phó Bí thư Thị ủy Tịnh Biên, nhiệm
kỳ 2020-2025. 

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Lê Văn Nưng trao Quyết định bổ nhiệm 7 đồng chí lãnh đạo Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy Quyết định bổ nhiệm 7 đồng chí lãnh đạo Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy, cụ thể: Phân công đồng chí Trần Thị Thanh Hương,
Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, khóa XI, nhiệm kỳ 2020-2025, Trưởng Đoàn
đại biểu Quốc hội tỉnh, giữ chức vụ Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận
Tỉnh ủy, kể từ ngày 01/3/2025; Bổ nhiệm các đồng chí Phó Trưởng Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy: Nguyễn Hữu Thịnh, Nguyễn Thị Hồng Loan, Nguyễn Mạnh Hà giữ chức vụ Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy; Bổ nhiệm các đồng chí Phó Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy: Võ Thành Lợi, Nguyễn Văn Lên, Nguyễn Hữu Ngọc giữ chức vụ Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy. Quyết
định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ định Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban
Thường vụ, Bí thư, Phó Bí thư, Ủy ban Kiểm tra, Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm
Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy cơ quan Đảng tỉnh và Đảng ủy Ủy ban nhân dân
tỉnh, theo đó:  Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang trao Quyết định Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy cơ quan Đảng tỉnh  Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang trao Quyết định cho các đồng chí trong Ban Chấp hành Đảng ủy cơ quan Đảng tỉnh Đối với Đảng ủy cơ quan Đảng tỉnh, chỉ định đồng chí Lê Văn Nưng,
Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, giữ
chức Bí thư Đảng ủy các cơ quan Đảng tỉnh, nhiệm kỳ 2020-2025. Chỉ định
02 đồng chí Phó Bí thư Đảng ủy các cơ quan Đảng tỉnh, nhiệm kỳ
2020-2025, gồm: Đồng chí Đỗ Tấn Kiết, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy (kiêm nhiệm); đồng chí Trần Thanh Nhã, Tỉnh ủy viên, Phó Bí thư Đảng ủy (chuyên trách).  Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang trao Quyết định Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh  Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang trao Quyết định cho các đồng chí trong Ban Chấp hành Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh Đối với Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh, chỉ định đồng chí Hồ Văn Mừng,
Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, giữ chức Bí thư Đảng ủy Ủy ban nhân dân
tỉnh, nhiệm kỳ 2020-2025. Chỉ định 03 đồng chí giữ chức Phó Bí thư Đảng
ủy Ủy ban nhân dân tỉnh, nhiệm kỳ 2020-2025, gồm: Đồng chí Lê Văn Phước, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh; đồng chí Nguyễn Thị Liêm, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy (chuyên trách); đồng chí Nguyễn Thanh Tân, Phó Bí thư Đảng ủy (chuyên trách).  Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang phát biểu chỉ đạo tại buổi Lễ Phát
biểu tại Lễ trao Quyết định, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí
thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang thông tin: Đến nay, việc sắp xếp tổ chức bộ
máy ở tỉnh đã cơ bản hoàn thành theo đúng lộ trình, tạo tiền đề quan
trọng để tổ chức thành công đại hội đảng các cấp, thực hiện thắng lợi
các mục tiêu chính trị của tỉnh đề ra; trên hết là chuẩn bị tốt mọi điều
kiện để An Giang cùng với cả nước bước vào Kỷ nguyên mới - kỷ nguyên
vươn mình của dân tộc. Thay mặt Ban
Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang trân trọng cảm ơn tinh
thần đoàn kết, trách nhiệm của các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh
ủy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, cùng sự nỗ lực cố gắng không
ngừng của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh trong suốt quá trình
triển khai thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy. Bí
thư Tỉnh uỷ Lê Hồng Quang cũng ghi nhận, biểu dương những đóng góp to
lớn của các ban cán sự đảng, đảng đoàn và Đảng uỷ khối Cơ quan và Doanh
nghiệp tỉnh đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử, góp phần quan trọng
vào sự phát triển chung của tỉnh trong suốt những năm qua, Bí thư Tỉnh
ủy An Giang Lê Hồng Quang cho biết đây là nền tảng quan trọng để các tổ
chức đảng mới thành lập kế thừa, phát huy trong thời gian tới. Đồng
thời, chúc mừng các đồng chí được nhận quyết định; Bí thư Tỉnh ủy Lê
Hồng Quang nhấn mạnh: Các đồng chí được Ban Thường vụ Tỉnh ủy ghi nhận,
đánh giá cao năng lực, trình độ, bản lĩnh, đạo đức trong suốt quá trình
công tác; đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn chức danh ở vị trí mới được
giao. Để bộ máy mới vận hành thông
suốt, hiệu lực, hiệu quả; Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang đề nghị các cá
nhân, cơ quan, đơn vị liên quan tập trung thực hiện ngay một số nhiệm vụ
trọng tâm: Đối với các đơn vị thành lập mới: Khẩn
trương hoàn thiện ngay các điều kiện để tổ chức hoạt động; không để
gián đoạn, ngừng trệ, bỏ sót công việc; xây dựng quy chế làm việc gắn
với phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên; thực hiện công tác
bàn giao, tiếp nhận hồ sơ, tổ chức đảng, đảng viên, biên chế, tài liệu,
con dấu, tài chính, tài sản theo đúng quy định. Sớm
thành lập các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc, các phòng ban;
thực hiện việc củng cố tổ chức và kiện toàn cấp ủy các tổ chức đảng trực
thuộc ngay sau khi tiếp nhận để đảm bảo bộ máy vận hành hiệu quả, thông
suốt; bố trí cán bộ hợp lý, phát huy tối đa hiệu quả hoạt động. Chuẩn
bị kỹ lưỡng, chu đáo mọi mặt để tổ chức thành công đại hội các tổ chức
cơ sở đảng trực thuộc và Đại hội Đảng bộ các cơ quan Đảng tỉnh, Đại hội
Đảng bộ Ủy ban nhân dân tỉnh. Khẩn
trương phối hợp với chính quyền, đoàn thể cùng cấp xây dựng và triển
khai thực hiện sắp xếp các tổ chức đoàn thể đúng theo Điều lệ của mỗi tổ
chức và các nguyên tắc, lộ trình thực hiện; đảm bảo mô hình tổ chức các
đoàn thể thống nhất với mô hình tổ chức đảng, đặt dưới sự lãnh đạo của
tổ chức đảng cùng cấp. Tiếp tục tổ
chức tốt công tác chính trị tư tưởng trong tiếp nhận, sắp xếp, phân công
cán bộ, công chức; trong sắp xếp trụ sở, chỗ làm việc, bảo đảm hoạt
động hiệu lực, hiệu quả. Quan tâm thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ,
chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động bị tác
động từ quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy. Trong
quá trình tổ chức thực hiện, khi có phát sinh những vấn đề mới cần phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị liên quan (trực tiếp là Ban Tổ
chức Tỉnh ủy), để kịp thời tham mưu Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ
Tỉnh ủy xử lý các vấn đề phát sinh. Đối với các đồng chí được chỉ định, phân công, điều động, bổ nhiệm vào vị trí mới,
Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang đề nghị các đồng chí khẩn trương bắt tay
ngay vào công việc, không để có khoảng trống trong hoạt động của đơn vị,
địa phương, sự đình trệ trong công việc, không để ảnh hưởng đến các
hoạt động bình thường của xã hội, của người dân. Sớm ổn định nội bộ cơ
quan, địa phương, tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, dân chủ, phân
công nhiệm vụ cho các đồng chí cấp dưới, thực hiện đúng chức năng nhiệm
vụ; kịp thời phản ánh những vấn đề còn bất cập để tổng hợp báo cáo cấp
có thẩm quyền; tạo không khí mới thật sự sôi nổi, quyết tâm cao để thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị năm 2025. Bí
thư Tỉnh uỷ Lê Hồng Quang cũng đề nghị cán bộ, đảng viên, công chức,
người lao động tại các cơ quan, đơn vị phát huy tinh thần cách mạng,
vượt khó, vì lợi ích chung; đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi để các
đồng chí được chỉ định, phân công, điều động, bổ nhiệm tại buổi lễ hôm
nay hoàn thành tốt nhiệm vụ mà tổ chức giao./. NGỌC HÂN | True | | Đưa Nghị quyết vào cuộc sống | | Phát động Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ 5 năm 2025 | Tin | Nguyễn Lam | Phát động Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ 5 năm 2025 | /SiteAssets/Phatdongthi-35-25-1.jpg | | 18/02/2025 3:00 CH | No | Đã ban hành | | (TUAG)- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Tạp chí Cộng sản, Báo Nhân dân, Hội Nhà báo Việt Nam vừa tổ chức Họp báo triển khai “Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ Năm, năm 2025”.
Quang cảnh buổi họp báo Tại buổi họp báo, đồng chí Lê Văn Lợi, Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trưởng Ban Tổ chức cuộc thi đã thông qua kế hoạch và thể lệ cuộc thi. Theo đó, đối tượng dự thi là người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài, người nước ngoài có bài viết chính luận phù hợp với tiêu chí của cuộc thi. Tác phẩm tham gia dự thi là tác phẩm chính luận bằng tiếng Việt (hoặc tiếng dân tộc thiểu số được dịch ra tiếng Việt) hoặc tiếng nước ngoài dịch ra tiếng Việt, thuộc 5 loại hình: tạp chí (in hoặc điện tử), báo (in hoặc điện tử), phát thanh, truyền hình, video clip. Tác phẩm dự thi là tác phẩm sáng tạo lần đầu, chưa được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng và mạng xã hội, không trùng lặp với các tác phẩm đã công bố. Mỗi cá nhân được gửi tối đa 5 tác phẩm dự thi, mỗi thể loại gửi tối đa 1 tác phẩm. Tác phẩm dự thi tập trung vào 3 nhóm chủ đề chính: Bảo vệ, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay; bảo vệ, lan tỏa lý luận về đường lối đổi mới đất nước. Bảo vệ, lan tỏa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thành tựu của Việt Nam qua 40 năm đổi mới; Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; các các quyết sách chiến lược, các chuyển đổi mang tính cách mạng để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới; nhận diện và đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ...  Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương; Trưởng Ban Chỉ đạo cuộc thi kết luận họp báo Phát biểu kết luận họp báo, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng nhấn mạnh: Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ Năm nhằm tiếp tục khẳng định những thành tựu của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; cung cấp những luận chứng, những mô hình, cách làm hay để lan tỏa chủ trương, quyết sách quan trọng của Đảng, góp phần chuẩn bị những điều kiện, nền tảng để đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Cùng với việc tiếp tục phát huy vai trò tích cực, chủ động của các lực lượng nòng cốt, huy động sự tham gia dự thi của đông đảo cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, các tầng lớp nhân dân, cần chú ý quán triệt và tổ chức tốt việc dự thi một cách chủ động, tích cực, có chất lượng của giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục ở các trường phổ thông, đoàn viên, thanh niên, giảng viên, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ. Chú trọng nâng cao chất lượng các sản phẩm dự thi trên nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa “xây” và “chống”. Nội dung tác phẩm cần phản ánh sinh động thực tiễn, có lập luận chặt chẽ, lý lẽ sắc bén, luận điểm, luận cứ rõ ràng, luận chứng xác đáng, thuyết phục. Đồng thời, cần quan tâm thỏa đáng đến hình thức, cách thức trình bày, thể hiện để phát huy cao nhất ưu thế của mỗi loại hình báo chí, truyền thông, bảo đảm tính sinh động, hiện đại, thuyết phục và độ lan tỏa cao. Nguyễn Lam | False | | Chính trị | | “Đảng cho ta trái tim giàu/Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay” | Bài viết | Admin | “Đảng cho ta trái tim giàu/Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay” | /SiteAssets/95-thanhlap-Dang-1.jpg | | 03/02/2025 7:00 SA | Yes | Đã ban hành | | (TUAG)- Khát vọng mùa Xuân của Đảng mang đến cho dân tộc, đất nước niềm tin và hạnh phúc, phồn vinh và cường thịnh, làm cho mỗi chúng ta tràn đầy sinh lực, bản lĩnh, trí tuệ và chắp cánh những ước mơ, đúng như lời hai câu thơ trong bài thơ “Bài ca mùa Xuân 1961” của nhà thơ Tố Hữu: “Đảng cho ta trái tim giàu/ Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay”.

Đảng ta ra đời đúng vào dịp Xuân Canh Ngọ - ngày 03/02/1930, Đảng và mùa Xuân đã trở thành một cặp song hành, là biểu tượng của sức mạnh, trẻ trung của đất Việt. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam đã vô cùng tinh tế, khéo léo chọn ngày thành lập Đảng vào mùa Xuân, với hoài bão, ước vọng Đảng là mùa Xuân của dân tộc, của đất nước. Mùa Xuân năm 1941, sau 30 năm bôn ba nước ngoài tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về nước mang theo khát vọng độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Với lời hiệu triệu của Bác, Đảng quy tụ sức dân quyết tâm, đồng tâm “Dân ta xin nhớ chữ đồng/ Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”, để rồi “dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập”. Đảng lãnh đạo cả dân tộc vùng lên “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Chỉ sau 15 năm thành lập, với 5.000 đảng viên, Đảng ta lớn lên như chàng trai Phù Đổng, lãnh đạo Nhân dân cả nước đứng dậy làm cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một Kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngày 2/9/1945 mãi khắc ghi trong trái tim của hàng chục triệu con dân nước Việt “khi tự do về chói ở trên đầu”, khi “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Tết Bính Tuất năm 1946 là Tết đầu tiên Nhân dân ta được đón Tết trong niềm tự hào của người làm chủ đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mang mùa Xuân đến cho dân tộc, bằng tinh thần “Muôn việc đều tiến tới. Kiến quốc chóng thành công. Kháng chiến mau thắng lợi”. Và mỗi độ Xuân về, Người lại chuyển tải thông điệp, truyền cảm hứng và khát vọng mùa Xuân. Đến mùa Xuân Giáp Ngọ 1954, Bác chúc: “Kháng chiến, kiến quốc nhất định thành công”, với quyết tâm “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta làm nên cơn “địa chấn” giành thắng lợi, đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đặt dấu chấm hết cho ách thống trị của thực dân Pháp tại Việt Nam. Vào giao thừa Mậu Thân chuyển sang Kỷ Dậu (tháng 2/1969), đồng bào và chiến sĩ cả nước quây quần bên nhau chăm chú lắng nghe bài thơ chúc Tết của Bác Hồ truyền qua làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam: “Năm qua, thắng lợi vẻ vang/Năm nay, tiền tuyến chắc càng thắng to!/Vì độc lập, vì tự do/Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào/Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào/Bắc Nam sum họp, Xuân nào vui hơn!”. Lời thơ Xuân của Bác như hịch truyền cổ vũ cuộc đấu tranh cách mạng ngoan cường, một ý chí sắt thép mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngọn cờ, là hồn thiêng sông núi. Mùa Xuân Ất Mão năm 1975, cả dân tộc ta ca khúc khải hoàn, với đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, mở ra ngày hội non sông mừng đất nước thống nhất, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, ghi tiếp một trong những trang đẹp nhất của lịch sử dân tộc và bất hủ trong lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc. Đảng là thế - đã thổi bùng ngọn lửa khát vọng giải phóng của toàn dân tộc, mở ra một trang mới trên đường đánh đuổi thực dân, đế quốc, giành độc lập, tự do và bảo vệ chủ quyền đất nước. Trải qua nhiều thăng trầm, vượt nguy nan, thác ghềnh hiểm trở, Đảng ta với công lao to lớn của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, đảng viên đi trước, đã cùng Nhân dân “xây lầu thắng lợi” cho toàn dân tộc. Đúng như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời mới mọc, xé tan cái màn đen tối, soi đường dẫn lối cho đất nước ta, Nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi. Từ sau năm 1975 đến nay, con đường đi lên của dân tộc đầy những gian nan, đất nước có lúc ở tình thế vô vàn khó khăn, nhưng Đảng ta với bản lĩnh vững vàng, đã khơi dậy và phát huy cao độ tinh thần đại đoàn kết dân tộc; đã lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân làm nên những kỳ tích. Cũng chính vì vậy mà Nhân dân luôn tin yêu, ủng hộ, kiên trì đi theo sự lãnh đạo của Đảng, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, xây dựng đất nước ngày càng giàu, mạnh. Với tất cả sự khiêm tốn của người cộng sản chân chính, chúng ta có quyền tự hào với một niềm tin mãnh liệt: Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới đem lại mùa Xuân cho đất nước, sức Xuân của lòng người. Đó mãi là chân lý trường tồn đối với cách mạng Việt Nam. Cũng vì thế hai chữ “Đảng ta” luôn thiêng liêng, cao quý, luôn khắc sâu trong tâm thức của “con Lạc, cháu Hồng” trong suốt hơn 95 năm qua. Chắc chắn rằng không nơi nào trên thế giới này, có một cụm từ “ĐẢNG TA” được lưu luyến trong cửa miệng của đông đảo Nhân dân dành cho Đảng cầm quyền, hai từ đặc biệt ấy hàm chứa tâm trạng và tình cảm quý mến, biết ơn của Nhân dân đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, đã và đang lãnh đạo đất nước Việt Nam gần một thế kỷ qua. Và cũng vì là “Đảng ta” nên mỗi đảng viên và mỗi người dân Việt Nam đều ra sức bảo vệ Đảng. 
Giờ đây, chúng ta chuẩn bị bước vào Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, khởi đầu bằng sự kiện trọng đại - Đại hội XIV của Đảng. Kỷ nguyên trước tạo tiền đề cho kỷ nguyên sau, kỷ nguyên sau kế thừa, phát triển thành tựu của kỷ nguyên trước, làm cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ngày càng hòa quyện, phát triển không ngừng. Ý Đảng hòa quyện lòng dân, khát vọng đưa đất nước vươn mình tiến vào Kỷ nguyên mới. Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, là dịp để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tự hào, tin tưởng - tăng cường đoàn kết, thống nhất, phát huy tinh thần cách mạng, truyền thống quý báu của Đảng, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội XIII của Đảng, hướng tới Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030 và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, quyết tâm lãnh đạo xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng theo định hướng xã hội chủ nghĩa đúng như di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn. Với bản lĩnh chính trị được rèn luyện 95 năm qua, Nhân dân ta có quyền tự hào với một niềm tin cao quý “Đảng cho ta trái tim giàu”, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới đem lại những mùa Xuân cho đất nước, sức Xuân của lòng người. Khát vọng mùa Xuân chính là khát vọng của dân tộc hướng tới tương lai tươi đẹp bằng niềm tin son sắt với Đảng. BBT
| True | | Chính trị |
|