Skip Ribbon Commands
Skip to main content

Skip Navigation LinksAN GIANG PHÁT TRIỂN

Chào mừng quý vị đến với Cổng thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh An Giang!
 
AN GIANG PHÁT TRIỂN
Giồng Trà Dên hôm nay (19/03/2022 16:00:00)
 
 
 
 
 
  
Phân loại
  
  
  
  
  
Tóm tắt
  
  
  
  
Nội dung
Sáp nhập An Giang, Kiên Giang - phát huy tiềm năng, lợi thế, mở rộng không gian phát triểnAn Giang 190 nămBài viếtHải LamSáp nhập An Giang, Kiên Giang - phát huy tiềm năng, lợi thế, mở rộng không gian phát triển/SiteAssets/1-tay-nam-bo-gom-nhung-tinh-nao.jpg
23/04/2025 2:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Ngày 22/4 vừa qua, Ban Thường vụ Tỉnh ủy An Giang tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang trực tuyến với Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Kiên Giang để trao đổi thống nhất đề án hợp nhất đơn vị hành chính cấp tỉnh.


Tại hội nghị, các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang và Kiên Giang đã phát huy tinh thần trách nhiệm cao, thảo luận, tham gia phát biểu ý kiến dân chủ, bày tỏ sự đồng tình, thống nhất cao đối với những nội dung quan trọng, cốt lõi của đề án do lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang trình tại Hội nghị. Đặc biệt, thống nhất cao với phương án sắp xếp tổ chức bộ máy, bố trí đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và giải quyết chế độ, chính sách khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính, bảo đảm theo nguyên tắc thống nhất, bám sát chỉ đạo, hướng dẫn từ Trung ương…

Dự kiến kết quả sau sáp nhập 02 tỉnh: Tỉnh An Giang mới có 9.888,91 km2 (đạt 197,78% so với tiêu chuẩn), quy mô dân số 4.952.238 người (đạt 353,73% so với tiêu chuẩn) và 102 ĐVHC cấp cơ sở trực thuộc (gồm 85 xã, 14 phường và 03 đặc khu). Các đơn vị hành chính cùng cấp liền kề: Tỉnh An Giang tiếp giáp các tỉnh Cà Mau, Đồng Tháp, thành phố Cần Thơ và Vương quốc Campuchia. Nơi đặt Trung tâm hành chính - chính trị của tỉnh An Giang: Tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang hiện nay.

Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang và Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang Nguyễn Tiến Hải khẳng định, dự thảo Đề án hợp nhất tỉnh An Giang và Kiên Giang cơ bản đáp ứng yêu cầu, tuân thủ theo hướng dẫn Trung ương. Việc xác định tên đơn vị hành chính và trung tâm chính trị - hành chính đã bám sát vào các nguyên tắc, điều kiện theo chỉ đạo của Trung ương tại Đề án của Chính phủ và Nghị quyết 60-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Qua đó đề nghị, các cơ quan chuyên môn tỉnh An Giang và Kiên Giang tiếp thu đầy đủ các ý kiến của đại biểu tại hội nghị, để điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện đề án kịp tiến độ thời gian trình Chính phủ theo quy định… Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang và Kiên Giang cũng đã biểu quyết thông qua Đề án sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính tỉnh An Giang và Kiên Giang.

Theo Đề án, An Giang và Kiên Giang là 02 đơn vị hành chính cấp tỉnh có vị trí liền kề, có nhiều nét tương đồng về điều kiện tự nhiên, truyền thống lịch sử hình thành gắn liền với lịch sử cách mạng miền Tây Nam bộ, giao thoa tương đồng về văn hóa, phong tục, tín ngưỡng và dân tộc; có quy mô nền kinh tế tương đương và tương hỗ lẫn nhau trong định hướng phát triển chung của vùng; hệ thống giao thông kết nối đồng bộ giữa hai tỉnh. Việc sắp xếp, sáp nhập tỉnh An Giang và tỉnh Kiên Giang sẽ hình thành một tỉnh có quy mô kinh tế lớn nhất vùng Tây Nam bộ, với sự kết hợp giữa kinh tế biển, thương mại biên giới, nông nghiệp và du lịch; khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý, quỹ đất gắn với lợi thế về giao thương biên giới, cảng biển và du lịch.

Các bạn trẻ đến chụp ảnh, check-in tại Khu Lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng.


Khu du lịch quốc gia Núi Sam.

kiengiang2-phuquoc.jpg

Một góc phường An Thới, TP Phú Quốc. Ảnh: Báo ND.

Một số tác động tích cực khi sáp nhập 02 tỉnh An Giang và Kiên Giang có thể kể đến như:

Tác động đến hoạt động quản lý nhà nước

Sáp nhập 02 tỉnh sẽ tạo ra thay đổi tích cực, gắn liền với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phát huy tiềm năng, lợi thế, mở rộng không gian phát triển của các đơn vị hành chính nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư kinh tế - xã hội, đảm bảo phát triển hài hòa và bền vững trong giai đoạn mới; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương; cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; bảo đảm chính quyền gần dân, sát dân và phục vụ người dân được tốt nhất.

Tạo điều kiện tối ưu hóa nguồn lực tài chính, phân bổ ngân sách hợp lý hơn cho an sinh xã hội, thực hiện hiệu quả các hoạt động thiết yếu phục vụ Nhân dân, nâng cao chất lượng cuộc sống của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và của Nhân dân địa phương. Đây sẽ là nguồn lực quan trọng giúp thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân…

Tác động đến phát triển kinh tế

Cả An Giang và Kiên Giang đều là những địa phương giàu tiềm năng du lịch, mỗi nơi mang một bản sắc riêng biệt. Việc sáp nhập hứa hẹn tạo ra một khu du lịch sôi động của khu vực Tây Nam Bộ. Khi sáp nhập, tỉnh mới sẽ hội tụ đầy đủ các loại hình du lịch đặc sắc từ núi Cấm - “nóc nhà” miền Tây, đến Phú Quốc - hòn đảo được mệnh danh là đẹp thứ hai thế giới. Sự kết hợp giữa núi và biển, giữa tâm linh và nghỉ dưỡng, giữa văn hóa sông nước và biển đảo sẽ mang đến trải nghiệm phong phú, hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước.

Khu du lịch Núi Cấm.

Việc sáp nhập tỉnh giúp khắc phục tình trạng nền kinh tế bị chia cắt, manh mún, nhỏ lẻ hoặc đầu tư dàn trải, trùng lặp. Sau sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh sẽ hình thành các đơn vị hành chính mới có quy mô lớn, mở rộng không gian phát triển, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế sẵn có của các địa phương, tạo thuận lợi để thu hút các dự án đầu tư hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, hạ tầng thương mại, dịch vụ, tạo kết nối và giao lưu phát triển giữa các địa phương, từ đó nâng cao tính tự chủ, khả năng thích ứng, sức chống chịu của nền kinh tế địa phương, đủ tiềm lực để cạnh tranh với các đơn vị hành chính trong cả nước và với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Đồng thời, việc sắp xếp, sáp nhập tỉnh góp phần giải quyết triệt để các vấn đề về sử dụng tài nguyên, môi trường, khắc phục một phần tình trạng biệt lập trong hoạch định và thực thi chính sách của các địa phương. Tạo điều kiện thuận lợi trong việc phát huy tiềm năng, lợi thế của các địa phương về điều kiện tự nhiên, nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội; sắp xếp hợp lý nguồn lao động, tạo ra động lực mới cho sự phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng cường quản lý nhà nước, đảm bảo quốc phòng, an ninh, phù hợp với nguyện vọng của các cấp ủy đảng, chính quyền và Nhân dân địa phương…

Tác động về xã hội

Việc sáp nhập tỉnh tạo điều kiện quy hoạch tốt hơn về hạ tầng, giao thông, tăng nguồn lực đầu tư, phát triển kinh tế địa phương, thu hút doanh nghiệp và nhà đầu tư, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế của địa phương và nâng cao chất lượng đời sống của Nhân dân; tạo thêm việc làm, thu nhập cho người dân.

Sự tương đồng về các yếu tố dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, phong tục, tập quán và các mối quan hệ kinh tế, chính trị truyền thống giữa các đơn vị hành chính thực hiện sắp xếp trong địa phương An Giang sẽ tạo điều kiện cho việc mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, thúc đẩy các hoạt động giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng dân cư trong khu vực…

1-tay-nam-bo-gom-nhung-tinh-nao.jpg

Miền Tây Nam bộ hiện nay có 12 tỉnh và 1 thành phố trực thuộc Trung ương

Như vậy, việc sáp nhập tỉnh An Giang và Kiên Giang nhằm thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước; là thực sự cần thiết, đảm bảo phù hợp với các tiêu chí về tiêu chuẩn, lịch sử, truyền thống, văn hóa, dân tộc, địa kinh tế, địa chính trị và quốc phòng, an ninh; đảm bảo tuân thủ Hiến pháp, chủ trương, định hướng của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và thẩm quyền, trình tự, thủ tục đúng theo quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương, các Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Kế hoạch của Chính phủ. Việc sáp nhập tỉnh An Giang và tỉnh Kiên Giang gắn liền với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phát huy tiềm năng, lợi thế, mở rộng không gian phát triển nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư kinh tế - xã hội, đảm bảo phát triển hài hòa và bền vững trong giai đoạn mới; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương; cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; bảo đảm chính quyền cấp cơ sở gần dân, sát dân và phục vụ người dân được tốt nhất; tạo lập cơ sở pháp lý cho công tác quy hoạch xây dựng và phát triển của toàn vùng, gắn kết chặt chẽ với đảm bảo chủ quyền, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và khu vực biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc nói riêng.

bentau-2902-1721031888.jpg

Một góc Vườn Quốc gia U Minh Thượng. Ảnh: TTXVN.

Việc sáp nhập tỉnh An Giang và Kiên Giang tuy bước đầu không tránh khỏi ảnh hướng đến cuộc sống của người dân nhưng với truyền thống đoàn kết dân tộc, lịch sử, văn hóa của địa phương nên đời sống của người dân sẽ sớm ổn định và tiếp tục phát triển bền vững trong thời kỳ mới. Trong quá trình sắp xếp, sáp nhập 02 tỉnh sẽ đồng thời tổ chức quán triệt sâu rộng trong Đảng bộ và chính quyền; tổ chức tuyên truyền sâu rộng đến toàn thể đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và toàn thể nhân dân trên địa bàn về chủ trương, sự cần thiết thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh để tạo đột phá, động lực cho việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia nói chung và các địa phương nói riêng trong thời đại mới, qua đó tạo sự đồng thuận cao trong Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân trên địa bàn khi thực hiện sáp nhập./.

HẢI LAM

Châu Phú: Viếng Nghĩa trang liệt sĩ và Họp mặt kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4)An Giang 190 nămTinChâu Phú: Viếng Nghĩa trang liệt sĩ và Họp mặt kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4)/SiteAssets/CP-vieng-nt-hopmat-3.jpg
22/04/2025 4:00 CHNoĐã ban hành

​(TUAG)- Sáng ngày 22/4, Huyện ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện Châu Phú tổ chức Lễ viếng Nghĩa trang liệt sĩ và tổ chức họp mặt nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2025) – một dấu mốc hào hùng, thiêng liêng trong lịch sử dân tộc. Đây là dịp để toàn thể cán bộ và nhân dân huyện Châu Phú tưởng nhớ, tri ân sâu sắc những đóng góp, hy sinh to lớn của các thế hệ đi trước vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

CP-vieng-nt-hopmat-1.jpg 

CP-vieng-nt-hopmat-2.jpg

Tham dự có đồng chí Võ Minh Hoàng - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy; đồng chí Võ Nguyên Nam – Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Bí Thư Huyện uỷ Châu Phú; đồng chí Thi Hồng Thuý – Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ; đồng chí Nguyễn Phước Nên – Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện; các đồng chí lão thành cách mạng, Mẹ Việt Nam anh hùng; các đồng chí nguyên lãnh đạo huyện Châu Phú qua các thời kỳ…

Tại buổi lễ viếng Nghĩa trang liệt sĩ huyện, trong không khí trang nghiêm, các đại biểu thành kính dâng tràng hoa, thắp hương trước tượng đài Tổ quốc ghi công và mặc niệm tưởng nhớ công lao to lớn của các vị anh hùng liệt sĩ đã anh dũng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, tạo nên mốc son chói lọi trong trang sử cách mạng hào hùng của dân tộc ta. Tiếp sau đó, các đại biểu đến thắp hương tại từng phần mộ liệt sĩ để bày tỏ lòng tôn kính, biết ơn sâu sắc đến các anh hùng liệt sĩ. Tiếp nối truyền thống của các thế hệ đi trước, Đảng bộ, chính quyền, quân và Nhân dân huyện Châu Phú nguyện đoàn kết một lòng, ra sức giữ gìn, xây dựng, phát triển quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.

 CP-vieng-nt-hopmat-3.jpg

 CP-vieng-nt-hopmat-4.jpg

Sau lễ viếng, Ủy ban nhân dân huyện tổ chức buổi họp mặt thân mật với hơn 100 đại biểu là người có công với cách mạng, thương binh, thân nhân liệt sĩ, Mẹ Việt Nam anh hùng, cùng các đồng chí nguyên là lãnh đạo huyện Châu Phú qua các thời kỳ.

CP-vieng-nt-hopmat-5.jpg

Phát biểu tại buổi họp mặt, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Nguyễn Phước Nên khẳng định: Đây là dịp để chúng ta cùng nhau ôn lại trang sử vàng chói lọi của dân tộc trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do; là cơ hội để khơi dậy và phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, trách nhiệm của thế hệ hôm nay đối với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Đồng thời, chúng ta thành kính tưởng nhớ và tri ân sâu sắc đến các anh hùng liệt sĩ, các Mẹ Việt Nam anh hùng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân – những người đã cống hiến, hy sinh vì nền độc lập, thống nhất và tương lai tươi sáng của đất nước. Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là dấu mốc quan trọng để chúng ta tri ân, khắc ghi công lao to lớn của các thế hệ cha anh đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc, đồng thời gửi lời tri ân chân thành, sâu sắc đến các thế hệ đi trước đã hy sinh, cống hiến cho độc lập và hòa bình hôm nay.

Trân trọng, biết ơn công lao của những thế hệ đi trước, với sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự đồng lòng của toàn hệ thống chính trị và Nhân dân, huyện Châu Phú đã vượt qua muôn vàn thử thách, vững vàng trên con đường xây dựng và phát triển. Đến nay, huyện đã đạt nhiều thành tựu quan trọng: sản lượng lương thực đạt 542.000 tấn, giá trị sản xuất đất nông nghiệp đạt 217 triệu đồng/ha, thu nhập bình quân đầu người đạt 74 triệu đồng. Đặc biệt, trong Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, huyện đã có 8/11 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 3 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Diện mạo nông thôn ngày càng đổi mới, hiện đại; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được cải thiện rõ rệt.

Đặc biệt, trong bối cảnh cả nước đang tích cực triển khai thực hiện việc sắp xếp, tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết Trung ương và chỉ đạo của Tỉnh ủy, huyện Châu Phú đang khẩn trương thực hiện việc sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn theo hướng “tinh gọn, hoạt động hiệu lục, hiệu năng, hiệu quả”, phù hợp với thực tiễn phát triển và yêu cầu quản lý nhà nước hiện đại. Được sự thống nhất của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, huyện Châu Phú sau khi sáp nhập xã sẽ giảm từ 13 xã, thị trấn còn lại 05 xã. Bước vào giai đoạn hội nhập sâu rộng, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân huyện Châu Phú tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang, đoàn kết – sáng tạo – đổi mới, triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh, xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh.

 CP-vieng-nt-hopmat-6.jpg

Tại buổi họp mặt, Huyện ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện tiến hành trao bảng tượng trưng bàn giao 49 căn nhà cho các gia đình chính sách, người có công với cách mạng trên địa bàn huyện.

Mỹ Ngân, Quang Huy

50 năm thống nhất đất nước: Huyện cù lao Chợ Mới vươn mình cùng dân tộcBài viếtCông Mạo50 năm thống nhất đất nước: Huyện cù lao Chợ Mới vươn mình cùng dân tộc/SiteAssets/CM-sau-5-nam-6.jpg
16/04/2025 5:25 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Lịch sử Đảng bộ An Giang ghi nhận trong những ngày tháng 4 lịch sử năm 1975, cùng với cả nước, quân và dân trong tỉnh đã đứng lên đập tan Ngụy quân, Ngụy quyền, đánh đuổi quân xâm lược đế quốc Mỹ, giải phóng quê hương, giành lại độc lập cho Tổ quốc.

Trong đó, huyện cù lao Chợ Mới, nơi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên ở An Giang vào tháng 4/1930, là nơi cuối cùng của tỉnh nói riêng, miền Nam nói chung, được giải phóng sau ngày 30/4/1975. 

Sau 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Chợ Mới có sự chuyển mình mạnh mẽ, khẳng định vị thế là một trong những địa phương đi đầu trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang và vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

CM-sau-5-nam-2.jpg

Chuyến phà đưa từ thành phố Long Xuyên qua huyện Chợ Mới

Sự trùng hợp tình cờ của lịch sử

Những ngày tháng 4 lịch sử, chúng tôi lên chuyến phà 150 tấn, từ bờ Long Xuyên vượt sông Hậu tìm về huyện Chợ Mới, nơi được xem là cái nôi cách mạng của tỉnh An Giang, được Chủ tịch nước hai lần phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới (năm 2000) và Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước (năm 2014).

Tuyến đường tỉnh 944 nối từ bến phà An Hòa về trung tâm huyện Chợ Mới giờ đã được mở rộng, thảm bê tông nhựa thẳng tắp. Hai bên đường là những cánh đồng xanh mát, đủ loại rau màu và cây ăn quả tươi tốt. Những ngôi nhà cao tầng đua nhau mọc lên san sát; xa xa là những cửa hàng gỗ nội thất, xưởng mộc ngày đêm vang tiếng máy khoan, máy đục.

CM-sau-5-nam-1.jpg

Ông Hồ Minh Quang (sinh năm 1938), nguyên Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy Chợ Mới giai đoạn 1975-1987 trao đổi với phóng viên

Tiếp chúng tôi trong ngôi nhà nhỏ, giản dị, giữa thị trấn Chợ Mới, ông Hồ Minh Quang (sinh năm 1938), nguyên Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy Chợ Mới giai đoạn 1975-1987, một thương binh hạng 1/4 với hai bàn tay gần như không còn nguyên vẹn, vẫn còn nhớ như in khí thế hào hùng, cảm xúc thiêng liêng, niềm vui bất tận của quân và dân ta trong ngày toàn thắng cách đây 50 năm, khi ông được Cách mạng phân công cùng với tổ chức về tiếp quản huyện Chợ Mới. 

Ông Năm Quang (tên thân mật của ông Hồ Minh Quang) kể, sau khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, hòa cùng khí thế chung của cả nước, nhân dân Chợ Mới tiếp tục đấu tranh giành hòa bình, dân chủ và yêu cầu thi hành hiệp định. Tháng 8/1974, để tạo điều kiện chuyển từ yếu sang mạnh, tạo sự gắn bó chiến trường giữa Đông và Tây sông Tiền, theo chỉ đạo của Trung ương Cục miền Nam, tỉnh Kiến Phong được giải thể và thành lập 2 tỉnh mới là tỉnh Sa Đéc và tỉnh Long Châu Tiền (tỉnh An Giang ngày nay).

CM-sau-5-nam-4.jpg

Di tích lịch sử cách mạng cột Dây Thép[1]

Tại huyện Chợ Mới, sau khi Ngụy quyền tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, lực lượng quân sự đủ sắc lính tập trung về Tây An Cổ Tự (thuộc xã Long Giang, huyện Chợ Mới ngày nay) cùng khoảng 5.000 bảo an quân để tử thủ. Lực lượng này lần lượt chiếm các cơ sở của Ngụy quyền trong tỉnh Long Châu Tiền. Vì thế, muốn kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ở An Giang, phải nhanh chóng đánh bại lực lượng “tàn quân” ở huyện Chợ Mới.

Trước tình hình phức tạp đó, bộ đội địa phương chia được làm 2 cánh quân tiến về giải phóng huyện Chợ Mới. Đặc biệt, sau khi Cần Thơ được giải phóng, một đại đội của Trung đoàn 101 từ Cần Thơ tiến lên hỗ trợ Long Xuyên đánh tan các tuyến phòng ngự của quân bảo an, buộc chúng phải rút chạy về huyện Chợ Mới và tử thủ tại Tây An Cổ Tự. Đến chiều 2/5/1975, nhiều địa phương trong tỉnh An Giang đã được giải phóng.

Tại Chợ Mới, quân ta tiếp quản quận lỵ, đồng thời một tiểu đoàn được giao nhiệm vụ bao vây Tây An Cổ Tự. Chiều 3/5, lực lượng Quân khu 8 chi viện lần lượt đánh chiếm tuyến Long Điền - Bà Vệ, kêu gọi “lực lượng bảo an quân” đầu hàng. Sau 4 ngày liên tục bao vây tấn công bằng 3 mũi quân sự, chính trị, binh vận, ngày 5/5 phần đông Ngụy quân và bảo an quân co cụm lại ở các xã Nhơn Mỹ, Mỹ Hội Đông. Để tạo áp lực mạnh hơn, ta cho 2 máy bay L19 lên quần đảo trên trời. Hàng ngũ địch rối loạn, hoang mang, hơn 3.000 bảo an quân còn lại kéo cờ trắng ra hàng. Đúng 8 giờ ngày 6/5/1975, ta chiếm được Tây An Cổ Tự, huyện Chợ Mới hoàn toàn giải phóng.

CM-sau-5-nam-3.jpg

Một góc thị trấn Chợ Mới, huyện Chơ Mới (tỉnh An Giang) hôm nay. 

Theo ông Năm Quang, Chợ Mới được xem là cái nôi cách mạng của tỉnh An Giang. Lịch sử như đã giao cho huyện giữ vai trò quyết định trong tiến trình phát triển của dân tộc, khi đây vừa là nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh An Giang và cũng là nơi được giải phóng cuối cùng của tỉnh An Giang nói riêng, cả nước nói chung. 

“Sự trùng hợp tình cờ của lịch sử, và lòng tin sắt son của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là tiền đề, động lực đưa cách mạng Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác; giúp Chợ Mới trở thành một “địa chỉ đỏ” đặc biệt trong kho tàng lịch sử đấu tranh cách mạng của Việt Nam”- ông Nam Quang nhấn mạnh.

Đi đầu trong phát triển nông nghiệp

Sau khi đất nước thống nhất, kinh tế của huyện chủ yếu dựa vào nông nghiệp, sản xuất lúa 1 vụ, lực lượng lao động dư thừa, nhiều người dân chưa có việc làm ổn định. Hệ thống cầu, đường xuống cấp, kênh rạch bị bồi lắng, việc đi lại và sinh hoạt của nhân dân gặp khó khăn. Cả huyện chỉ có 2 trường trung học phổ thông, một số xã không có trạm y tế. Năm 1978 và nhiều năm tiếp theo, lũ lụt đã tàn phá nặng nề cơ sở hạ tầng, làm tiêu hao sức người, sức của nhân dân. Việc ăn, ở, học hành, đi lại và vui chơi giải trí của nhân dân thiếu thốn, khó khăn.

Trong hoàn cảnh đó, 50 năm qua, Đảng bộ, quân và dân huyện Chợ Mới đã nỗ lực rất lớn để đưa kinh tế - xã hội của huyện phát triển, trở thành địa phương đi đầu của cả tỉnh An Giang và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường tiêu thụ.

Theo ông Năm Quang, từ năm 1980, huyện Chợ Mới đã xác định nông nghiệp là nền tảng, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, từ đó đã có nhiều đột phá về chuyển dịch cơ cấu cây trồng để nâng cao thu nhập và giá trị trên cùng diện tích đất canh tác. Với kinh nghiệm làm bao đê chống lũ năm 1978, Huyện ủy Chợ Mới đã ra nghị quyết xây dựng bờ bao kiểm soát lũ 81 tiểu vùng, gắn với nhựa hóa giao thông nông thôn liên xã 154km, công trình huy động từ xã hội hóa trong nhân dân thực hiện từ năm 1995-2000 hoàn thành trên toàn huyện. Đây là hai công trình mang nhiều ý nghĩa, tạo thuận lợi trong sản xuất nông nghiệp, vận chuyển và giao thương hàng hóa, đưa Chợ Mới trở thành vùng chuyên canh rau màu và cây ăn trái lớn nhất của tỉnh An Giang.

CM-sau-5-nam-5.jpg

Sau 50 năm, cơ sở hạ tầng trên địa bàn huyện Chợ Mới được đầu tư khang trang, hiện đại. 

Hai công trình “ý Đảng, lòng dân” này được nhân dân đồng tình, ủng hộ, đóng góp trên 140 tỷ đồng. Từ đó, đời sống của nhân dân Chợ Mới từng bước “thay da, đổi thịt”, bà con chuyển từ sản xuất lúa 2 vụ, chạy lũ hằng năm lên sản xuất lúa 3 vụ, đảm bảo ăn chắc, rau màu sản xuất quanh năm với hơn 26.000 ha, ông Năm Quang chia sẻ. 

Chủ tịch UBND huyện Chợ Mới Cù Minh Trọng cho biết, hiện, thu nhập bình quân đầu người theo tiêu chí nông thôn mới trên toàn huyện đạt 77,63 triệu đồng/năm. Sản xuất lúa đạt 6,43 tấn/ha. Giá trị sản xuất bình quân cây lúa đạt 123,49 triệu đồng/ha; cây rau màu đạt 464,21 triệu đồng/ha; cây ăn trái đạt 193,44 triệu đồng/ha. 

Chợ Mới là điển hình đi đầu của tỉnh An Giang trong vùng chuyên canh màu, cây ăn trái, xuất khẩu xoài vào các thị trường Australia, Hàn Quốc và Hoa Kỳ... với tổng diện tích gần 7.000ha, trong đó có 704ha đạt tiêu chuẩn VietGAP. Toàn huyện có 13 làng nghề truyền thống, 5 cụm công nghiệp được quy hoạch và đang mời gọi đầu tư. Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố, phát triển. 15/15 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 5 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 3 đô thị đạt loại IV và V). Huyện nông thôn mới đạt 8/9 tiêu chí, 33/36 chỉ tiêu…

Tự hào là địa phương hai lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng, Bí thư Huyện ủy Chợ Mới Nguyễn Thị Minh Kiều tin tưởng, tập thể cán bộ, đảng viên, nhân dân và lực lượng vũ trang huyện sẽ phát huy truyền thống quý báu, vẻ vang của Đảng, địa phương sẽ luôn nêu cao tinh thần đoàn kết thống nhất, vượt qua mọi khó khăn thách thức, kế thừa và phát huy giá trị to lớn của quê hương, không ngừng đổi mới sáng tạo, hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội lần thứ XII Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2020 - 2025, xây dựng Chợ Mới ngày càng giàu đẹp, văn minh, tạo tiền đề cùng với cả nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Công Mạo

____________

[1] Đầu tháng 4/1930, Chi bộ Đảng đầu tiên của Long Xuyên, Châu Đốc được thành lập ở Long Điền (Chợ Mới). Chi bộ cử Lê Văn Đỏ, một quần chúng trung kiên đã treo lá cờ của Đảng Cộng sản trên Cột Dây Thép.


An Giang: Họp Ban Chỉ đạo tỉnh về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TWAn Giang 190 nămTinNgọc HânAn Giang: Họp Ban Chỉ đạo tỉnh về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW/SiteAssets/Hop-BCD-dean-18-4.jpg
15/04/2025 2:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Sáng ngày 15/4, Ban Chỉ đạo tỉnh về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả (Ban Chỉ đạo), tổ chức họp Ban Chỉ đạo cho ý kiến một số nội dung theo thẩm quyền.

Hop-BCD-dean-18-1.jpg

Quang cảnh cuộc họp

Đồng chí Lê Hồng Quang, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Ban Chỉ đạo tỉnh An Giang chủ trì cuộc họp. Đồng chí Hồ Văn Mừng, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo tỉnh An Giang; thành viên Ban Chỉ đạo và lãnh đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương liên quan cùng tham dự.

Hop-BCD-dean-18-2.jpg
Đồng chí Lê Văn Phước Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Bí thư Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh thông qua dự thảo Đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh An Giang

Hop-BCD-dean-18-3.jpg
Đồng chí Lê Hữu Nghị, Phó Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy An Giang thông qua Đề án lập tổ chức đảng ở đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh An Giang

Hop-BCD-dean-18-4.jpg
Đồng chí Lê Hồng Quang, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Ban Chỉ đạo tỉnh An Giang quán triệt mục đích, yêu cầu cuộc họp, gợi ý thảo luận

Tại cuộc họp, Ban Chỉ đạo đã thảo luận, cho ý kiến đối với dự thảo Đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh; dự thảo Đề án lập tổ chức đảng ở đơn vị hành chính cấp xã, Đề án lập tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các Hội do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ ở đơn vị hành chính cấp cơ sở (mới); dự thảo Kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiếp tục sắp xếp đơn vị hành chính, tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tỉnh An Giang tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Hop-BCD-dean-18-5.jpg
Đồng chí Hồ Văn Mừng, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo tỉnh An Giang phát biểu

Hop-BCD-dean-18-6.jpg

Đồng chí Lê Hồng Quang, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Ban Chỉ đạo tỉnh An Giang phát biểu kết luận cuộc họp

Phát biểu kết luận cuộc họp, đồng chí Lê Hồng Quang, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Ban Chỉ đạo tỉnh An Giang về tổng kết thực hiện Nghị quyết 18-NQ/TW nhấn mạnh việc sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, là cuộc cách mạng để góp phần hiện thực hóa tầm nhìn phát triển lâu dài của đất nước, mở rộng không gian phát triển; xây dựng đơn vị hành chính cấp cơ sở, tổ chức bộ máy hệ thống chính trị gần dân, sát dân và phục vụ Nhân dân tốt hơn.

Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang yêu cầu các cấp, các ngành, các địa phương phải xác định đây là nhiệm vụ hết sức hệ trọng và triển khai thực nghiêm các chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh về sắp xếp đơn vị hành chính, tổ chức bộ máy hệ thống chính trị. Quá trình thực hiện phải đảm bảo chặt chẽ, dân chủ, khách quan, minh bạch, công bằng, công tâm, đúng nguyên tắc, quy định của Đảng, Nhà nước.

Đồng thời tăng cường nắm tình hình dư luận xã hội, qua đó định hướng tư tưởng, thông tin, tuyên truyền nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức, hành động, quyết tâm chính trị trong cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị và sự đồng thuận trong xã hội để thực hiện thắng lợi chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới…/.

NGỌC HÂN

Thư của Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng QuangAn Giang 190 nămTinAdminThư của Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quanghttps://www.angiang.dcs.vn/SiteAssets/TU-traoquyetdinh-sxbm-8.jpg
11/03/2025 1:55 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang có thư gửi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động và toàn thể Nhân dân tỉnh An Giang nhân Cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn bộ máy.

Với trách nhiệm, tình cảm cá nhân, Bí thư Tỉnh ủy An Giang mong muốn cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động bị ảnh hưởng do quá trình sắp xếp, tinh gọn bộ máy nêu cao ý thức trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu; nghiêm túc chấp hành chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước; đoàn kết, thống nhất, chấp hành nghiêm sự phân công của tổ chức và sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì sự phát triển chung của quê hương, đất nước. 

Cổng TTĐT Đảng bộ tỉnh An Giang trân trọng giới thiệu toàn văn bức thư:

THUBTTU-BỘ-MÁY-11-3.jpg
An Giang: Sắp xếp tổ chức bộ máy ở tỉnh cơ bản hoàn thành theo đúng lộ trìnhAn Giang 190 nămTinNgọc HânAn Giang: Sắp xếp tổ chức bộ máy ở tỉnh cơ bản hoàn thành theo đúng lộ trình/SiteAssets/TU-traoquyetdinh-sxbm-2.jpg
20/02/2025 3:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Sáng ngày 20/02, Ban Thường vụ Tỉnh ủy An Giang tổ chức Lễ công bố và trao quyết định của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác tổ chức và công tác cán bộ. Đồng chí Lê Hồng Quang, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy chủ trì buổi lễ. Đồng chí Lê Văn Nưng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh; đồng chí Hồ Văn Mừng, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh; các đồng chí Ban Thường vụ Tỉnh ủy; lãnh đạo các đơn vị, địa phương có liên quan và cán bộ được trao quyết định cùng tham dự.

 TU-traoquyetdinh-sxbm-1.jpg

Quang cảnh buổi lễ

Tại buổi lễ, đồng chí Ngô Hồng Yến, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy đã công bố các quyết định:

Công bố: Quyết định kết thúc Ban bảo vệ chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh; Kết thúc hoạt động Đảng bộ Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh; Kết thúc hoạt động các đảng đoàn, ban cán sự đảng. Thành lập Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy; thành lập Đảng bộ cơ quan Đảng tỉnh; thành lập Đảng bộ Ủy ban nhân dân tỉnh, kể từ ngày 01/3/2025.

 TU-traoquyetdinh-sxbm-2.jpg

Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang trao Quyết định 11 đồng chí thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý

Quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về điều động 11 đồng chí thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý, cụ thể:

Điều động, chỉ định đồng chí Võ Nguyên Nam, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy, tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy, giữ chức Bí thư Huyện ủy Châu Phú, nhiệm kỳ 2020-2025.

Điều động đồng chí Nguyễn Như Anh, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Thoại Sơn, đến Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh để bổ nhiệm giữ chức vụ Giám đốc Sở Nội vụ. 

Điều động đồng chí Nguyễn Phú Tân, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Châu Phú, đến Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh để được bổ nhiệm chức vụ Giám đốc Sở Xây dựng.

Điều động, chỉ định đồng chí Thái Minh Hiển, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy, giữ chức Bí thư Huyện ủy Thoại Sơn, nhiệm kỳ 2020-2025. 

Điều động, chỉ định đồng chí Lê Nguyên Châu, Giám đốc Sở Nội vụ, tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Bí thư Huyện ủy Phú Tân, nhiệm kỳ 2020-2025.

Điều động đồng chí Đinh Văn Bảo, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Long Xuyên, đến Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh để được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó Giám đốc Sở Tài chính.

Điều động, chỉ định đồng chí Trần Minh Đức, Giám đốc Ban Quản lý Dự án đầu tư xây dựng và Khu vực phát triển đô thị tỉnh, tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, giữ chức Phó Bí thư Thành ủy Long Xuyên, nhiệm kỳ 2020-2025 và giới thiệu bầu giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Long Xuyên, nhiệm kỳ 2021-2026.

Điều động đồng chí Nguyễn Thị Phương Linh, Phó Bí thư Đảng ủy Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh, đến Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh để được bổ nhiệm chức vụ Phó Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo.

Điều động đồng chí Lê Kỳ Quang, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành, đến Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh để được bổ nhiệm chức vụ Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh.

Điều động, chỉ định đồng chí Nguyễn Thị Phương Lan, Phó Giám đốc Sở Tài chính, tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy, giữ chức Phó Bí thư Huyện ủy Châu Thành, nhiệm kỳ 2020-2025 và giới thiệu bầu giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành, nhiệm kỳ 2021-2026.

Điều động, chỉ định đồng chí Võ Thị Thủy Tiên, Phó Bí thư Đảng ủy Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh, tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Thị ủy, giữ chức Phó Bí thư Thị ủy Tịnh Biên, nhiệm kỳ 2020-2025.

TU-traoquyetdinh-sxbm-9.jpg

TU-traoquyetdinh-sxbm-3.jpg

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Lê Văn Nưng trao Quyết định bổ nhiệm 7 đồng chí lãnh đạo Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy

Quyết định bổ nhiệm 7 đồng chí lãnh đạo Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy, cụ thể: Phân công đồng chí Trần Thị Thanh Hương, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, khóa XI, nhiệm kỳ 2020-2025, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, giữ chức vụ Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy, kể từ ngày 01/3/2025; Bổ nhiệm các đồng chí Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy: Nguyễn Hữu Thịnh, Nguyễn Thị Hồng Loan, Nguyễn Mạnh Hà giữ chức vụ Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy; Bổ nhiệm các đồng chí Phó Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy: Võ Thành Lợi, Nguyễn Văn Lên, Nguyễn Hữu Ngọc giữ chức vụ Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy.

Quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ định Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ, Bí thư, Phó Bí thư, Ủy ban Kiểm tra, Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy cơ quan Đảng tỉnh và Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh, theo đó:

 TU-traoquyetdinh-sxbm-4.jpg

Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang trao Quyết định Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy cơ quan Đảng tỉnh

 TU-traoquyetdinh-sxbm-5.jpg

Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang trao Quyết định cho các đồng chí trong Ban Chấp hành Đảng ủy cơ quan Đảng tỉnh

Đối với Đảng ủy cơ quan Đảng tỉnh, chỉ định đồng chí Lê Văn Nưng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, giữ chức Bí thư Đảng ủy các cơ quan Đảng tỉnh, nhiệm kỳ 2020-2025. Chỉ định 02 đồng chí Phó Bí thư Đảng ủy các cơ quan Đảng tỉnh, nhiệm kỳ 2020-2025, gồm: Đồng chí Đỗ Tấn Kiết, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy (kiêm nhiệm); đồng chí Trần Thanh Nhã, Tỉnh ủy viên, Phó Bí thư Đảng ủy (chuyên trách).

 TU-traoquyetdinh-sxbm-6.jpg

Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang trao Quyết định Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh

 TU-traoquyetdinh-sxbm-7.jpg

 Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang trao Quyết định cho các đồng chí trong Ban Chấp hành Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh

Đối với Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh, chỉ định đồng chí Hồ Văn Mừng, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, giữ chức Bí thư Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh, nhiệm kỳ 2020-2025. Chỉ định 03 đồng chí giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh, nhiệm kỳ 2020-2025, gồm: Đồng chí Lê Văn Phước, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh; đồng chí Nguyễn Thị Liêm, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy (chuyên trách); đồng chí Nguyễn Thanh Tân, Phó Bí thư Đảng ủy (chuyên trách).

 TU-traoquyetdinh-sxbm-8.jpg

Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang phát biểu chỉ đạo tại buổi Lễ

Phát biểu tại Lễ trao Quyết định, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang thông tin: Đến nay, việc sắp xếp tổ chức bộ máy ở tỉnh đã cơ bản hoàn thành theo đúng lộ trình, tạo tiền đề quan trọng để tổ chức thành công đại hội đảng các cấp, thực hiện thắng lợi các mục tiêu chính trị của tỉnh đề ra; trên hết là chuẩn bị tốt mọi điều kiện để An Giang cùng với cả nước bước vào Kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Thay mặt Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang trân trọng cảm ơn tinh thần đoàn kết, trách nhiệm của các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, cùng sự nỗ lực cố gắng không ngừng của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh trong suốt quá trình triển khai thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy.

Bí thư Tỉnh uỷ Lê Hồng Quang cũng ghi nhận, biểu dương những đóng góp to lớn của các ban cán sự đảng, đảng đoàn và Đảng uỷ khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử, góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của tỉnh trong suốt những năm qua, Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang cho biết đây là nền tảng quan trọng để các tổ chức đảng mới thành lập kế thừa, phát huy trong thời gian tới.

Đồng thời, chúc mừng các đồng chí được nhận quyết định; Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang nhấn mạnh: Các đồng chí được Ban Thường vụ Tỉnh ủy ghi nhận, đánh giá cao năng lực, trình độ, bản lĩnh, đạo đức trong suốt quá trình công tác; đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn chức danh ở vị trí mới được giao.

Để bộ máy mới vận hành thông suốt, hiệu lực, hiệu quả; Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang đề nghị các cá nhân, cơ quan, đơn vị liên quan tập trung thực hiện ngay một số nhiệm vụ trọng tâm:

Đối với các đơn vị thành lập mới: Khẩn trương hoàn thiện ngay các điều kiện để tổ chức hoạt động; không để gián đoạn, ngừng trệ, bỏ sót công việc; xây dựng quy chế làm việc gắn với phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên; thực hiện công tác bàn giao, tiếp nhận hồ sơ, tổ chức đảng, đảng viên, biên chế, tài liệu, con dấu, tài chính, tài sản theo đúng quy định.

Sớm thành lập các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc, các phòng ban; thực hiện việc củng cố tổ chức và kiện toàn cấp ủy các tổ chức đảng trực thuộc ngay sau khi tiếp nhận để đảm bảo bộ máy vận hành hiệu quả, thông suốt; bố trí cán bộ hợp lý, phát huy tối đa hiệu quả hoạt động.

Chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo mọi mặt để tổ chức thành công đại hội các tổ chức cơ sở đảng trực thuộc và Đại hội Đảng bộ các cơ quan Đảng tỉnh, Đại hội Đảng bộ Ủy ban nhân dân tỉnh.

Khẩn trương phối hợp với chính quyền, đoàn thể cùng cấp xây dựng và triển khai thực hiện sắp xếp các tổ chức đoàn thể đúng theo Điều lệ của mỗi tổ chức và các nguyên tắc, lộ trình thực hiện; đảm bảo mô hình tổ chức các đoàn thể thống nhất với mô hình tổ chức đảng, đặt dưới sự lãnh đạo của tổ chức đảng cùng cấp.

Tiếp tục tổ chức tốt công tác chính trị tư tưởng trong tiếp nhận, sắp xếp, phân công cán bộ, công chức; trong sắp xếp trụ sở, chỗ làm việc, bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Quan tâm thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động bị tác động từ quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy.

Trong quá trình tổ chức thực hiện, khi có phát sinh những vấn đề mới cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị liên quan (trực tiếp là Ban Tổ chức Tỉnh ủy), để kịp thời tham mưu Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy xử lý các vấn đề phát sinh.

Đối với các đồng chí được chỉ định, phân công, điều động, bổ nhiệm vào vị trí mới, Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang đề nghị các đồng chí khẩn trương bắt tay ngay vào công việc, không để có khoảng trống trong hoạt động của đơn vị, địa phương, sự đình trệ trong công việc, không để ảnh hưởng đến các hoạt động bình thường của xã hội, của người dân. Sớm ổn định nội bộ cơ quan, địa phương, tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, dân chủ, phân công nhiệm vụ cho các đồng chí cấp dưới, thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ; kịp thời phản ánh những vấn đề còn bất cập để tổng hợp báo cáo cấp có thẩm quyền; tạo không khí mới thật sự sôi nổi, quyết tâm cao để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị năm 2025.

Bí thư Tỉnh uỷ Lê Hồng Quang cũng đề nghị cán bộ, đảng viên, công chức, người lao động tại các cơ quan, đơn vị phát huy tinh thần cách mạng, vượt khó, vì lợi ích chung; đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi để các đồng chí được chỉ định, phân công, điều động, bổ nhiệm tại buổi lễ hôm nay hoàn thành tốt nhiệm vụ mà tổ chức giao./.

NGỌC HÂN

 

An Giang quyết tâm chính trị cao nhất  tổ chức thành công đại hội đảng các cấpAn Giang 190 nămBài viếtTTCTTTAn Giang quyết tâm chính trị cao nhất  tổ chức thành công đại hội đảng các cấp/SiteAssets/Chaomung-DHD-2025.jpg
18/02/2025 5:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030 là sự kiện chính trị có ý nghĩa quan trọng của Đảng, là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng. Cùng với các địa phương trong nước, Đảng bộ tỉnh An Giang đang tích cực, khẩn trương triển khai kế hoạch tổ chức đại hội đảng các cấp trên địa bàn tỉnh theo đúng tinh thần Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 14/6/2024 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng (Chỉ thị số 35-CT/TW), đảm bảo thống nhất, đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở với quyết tâm chính trị cao nhất.


Trên cơ sở quán triệt thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 190-KH/TU, ngày 27/8/2024 thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW và các hướng dẫn có liên quan đến tổ chức đại hội, triển khai đến các cấp ủy, tổ chức đảng. Theo đó, thời gian đại hội bắt đầu từ tháng 9/2024 đến tháng 12/2024 đối với cấp dưới cơ sở, từ tháng 4/2025 đến tháng 6/2025 đối với cấp cơ sở, từ tháng 6/2025 đến tháng 8/2025 đối với cấp huyện và từ tháng 8/2025 đến tháng 10/2025 đối với tỉnh.

Trong quá trình chuẩn bị và tiến hành đại hội, Tỉnh ủy yêu cầu phải thường xuyên làm tốt công tác chính trị, tư tưởng, nhất là công tác thông tin, tuyên truyền, bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất cao; lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực, lấy “cái đẹp” dẹp “cái xấu”; coi trọng, tập trung công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh… của địa phương, cơ quan, đơn vị, gắn với đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước. Tỉnh ủy cũng yêu cầu cấp ủy, tổ chức đảng tập trung giải quyết, xử lý kịp thời, có hiệu quả những hạn chế, bất cập, yếu kém, những vấn đề tồn đọng kéo dài, gây bức xúc mà dư luận, cán bộ, đảng viên và Nhân dân quan tâm; chủ động, tích cực, có biện pháp đấu tranh hiệu quả đối với những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, bất mãn để bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng, bảo vệ chế độ.

Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị quán triệt, triển khai thực hiện các văn bản của Trung ương và của tỉnh về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng vào sáng ngày 25/10, Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang nhấn mạnh một số nhiệm vụ trọng tâm để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức tốt đại hội đảng bộ các cấp trên địa bàn tỉnh, cụ thể:

Thứ nhất, các cấp ủy, tổ chức đảng, trực tiếp là người đứng đầu, căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị khẩn trương lãnh đạo, chỉ đạo việc chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng ở cấp mình bảo đảm đúng thời gian, yêu cầu đã đặt ra, phải nghiêm túc, bài bản, theo đúng quy định, nguyên tắc của Đảng; bảo đảm an toàn, thiết thực, hiệu quả, không phô trương hình thức, kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và lợi ích nhóm (trong tất cả các quyết sách liên quan đại hội).

Tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và niềm tin của cán bộ, đảng viên, Nhân dân đối với Đảng. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chọn Đảng bộ thị xã Tân Châu tổ chức Đại hội điểm vào đầu Quý II/2025 để rút kinh nghiệm; chọn Đảng bộ huyện Thoại Sơn thí điểm bầu trực tiếp bí thư cấp ủy cấp huyện tại Đại hội.

Thứ hai, công tác chuẩn bị nhân sự đại hội phải chặt chẽ, dân chủ, khoa học, khách quan, công tâm, minh bạch, có sự đoàn kết, thống nhất cao; gắn với công tác chuẩn bị nhân sự lãnh đạo các cơ quan, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội nhiệm kỳ tới. Chú trọng phát hiện, lựa chọn, giới thiệu cán bộ tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, phẩm chất, đạo đức, kinh qua thực tiễn, có thành tích, kết quả, sản phẩm hiệu quả trong công tác; quan tâm cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số… Sàng lọc, kiên quyết không để “lọt” vào cấp ủy khóa mới những người: Bản lĩnh chính trị không vững vàng; phẩm chất, đạo đức, năng lực, uy tín giảm sút, ý thức tổ chức kỷ luật kém, mất đoàn kết; né tránh, đùn đẩy, sợ trách nhiệm, không dám làm; có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực và không bỏ “sót” những người thật sự có đức, có tài, có nguyện vọng phục vụ, cống hiến vì lợi ích của Đảng, của Nhân dân.

Đảm bảo cấp ủy khóa mới phải tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, trí tuệ, phẩm chất, đạo đức, lối sống, năng lực, uy tín; thật sự là trung tâm đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, thống nhất ý chí, hành động; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tầm nhìn, tư duy đổi mới, gắn bó mật thiết với Nhân dân; có năng lực lãnh đạo, có sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giai đoạn phát triển mới để thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng các cấp.

Thứ ba, văn kiện đại hội phải bài bản, công phu, đánh giá trung thực, khách quan, toàn diện tình hình và kết quả đạt được trong nhiệm kỳ 2020 - 2025, nhất là các nhiệm vụ trọng tâm, đột phá; chỉ rõ ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan; rút ra bài học kinh nghiệm sâu sắc trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện - tuyệt đối không được “tô hồng” thành tích. Qua đó, xác định rõ phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, các khâu đột phá của nhiệm kỳ 2025 - 2030 sát với tình hình thực tế, có tính khoa học, khả thi cao - tránh tư duy nhiệm kỳ.

Thứ tư, lãnh đạo, chỉ đạo tốt công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo đảm an toàn, an ninh trật tự phục vụ đại hội đảng các cấp - theo chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư tại Công văn số 53-CV/TW, ngày 17/9/2024.

Theo đó, cấp ủy các cấp phải xem xét xử lý kịp thời, đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với đơn, thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị liên quan đến tổ chức đảng, nhân sự đại hội đảng các cấp gắn với nhân sự đại biểu Quốc hội khoá 16, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031. Những nơi mất đoàn kết nội bộ, phát sinh tố cáo, khiếu nại phức tạp thì cấp ủy cấp trên phải tập trung giải quyết, chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức, kịp thời thay thế những cán bộ không còn đủ tín nhiệm.

Thứ năm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát động các phong trào thi đua yêu nước, lập thành tích chào mừng đại hội đảng các cấp theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 39/CT-TTg, ngày 15/10/2024. Đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị; phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, giữ vững trật tự an toàn xã hội, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà nghị quyết đại hội đảng các cấp, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã đề ra.

Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang nhấn mạnh, đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030 tiến tới Đại hội XIV của Đảng là sự kiện chính trị quan trọng của Đảng, là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng. Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị đặt yêu cầu rất cao trong công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội, phải đảm bảo tính kế thừa, ổn định, đổi mới, sáng tạo, phát triển, phải phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng.

Tin tưởng rằng, với sự chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng về mọi mặt, đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030 trên địa bàn tỉnh An Giang sẽ thành công tốt đẹp, tạo tiền đề vững chắc để Đảng bộ An Giang bước vào nhiệm kỳ mới với khí thế mới, thắng lợi mới, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, góp phần xây dựng quê hương An Giang ngày càng giàu đẹp, văn minh.

BBT

An Giang vững vàng thế và lực, quyết tâm tăng tốc, về đích trong năm 2025An Giang 190 nămBài viếtHoàng KỳAn Giang vững vàng thế và lực, quyết tâm tăng tốc, về đích trong năm 2025/SiteAssets/Chaomung-DHD-2025.jpg
06/02/2025 9:00 SANoĐã ban hành

​(TUAG)- Chia tay năm Giáp Thìn 2024, đất trời vào Xuân, đón chào Ất Tỵ 2025. Trong lắng đọng phút giao mùa, nhìn lại Giáp Thìn 2024, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang đã khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, ý chí tự lực tự cường, đoàn kết một lòng vững bước vươn lên vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đạt được những thành tựu đáng tự hào.

Mung-dang-mung-xuan-2025.jpg

Bức tranh An Giang năm 2024 với những gam màu sáng đầy sức thuyết phục

Nhìn lại năm 2024, kinh tế - xã hội của tỉnh diễn ra trước bối cảnh tình hình trong nước, thế giới phải đối mặt với những thách thức lớn, biến động nhanh, khó lường và tính bất ổn cao. Vượt qua những khó khăn đó, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh An Giang tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, tích cực đổi mới sáng tạo; bám sát các chỉ đạo, định hướng của Trung ương để triển khai nhiều giải pháp quyết liệt, đồng bộ, đảm bảo sự phát triển toàn diện của tỉnh, “tạo đà” thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI.

Kết quả bức tranh kinh tế - xã hội của tỉnh với nhiều gam màu sáng đầy sức thuyết phục khi tỉnh đã thực hiện đạt và vượt 13/15 chỉ tiêu mà Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh đã đề ra, trong đó có 5 chỉ tiêu vượt, 8 chỉ tiêu đạt và 2 chỉ tiêu chưa đạt (tốc độ tăng trưởng GRDP và GRDP bình quân đầu người). Có thể thấy rằng trong điều kiện vô cùng khó khăn, tốc độ tăng trưởng GRDP của tỉnh đạt 7,16%, cao hơn mức bình quân chung cả nước (ước tăng 7%), đây chính là sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và Nhân dân toàn tỉnh.

Hệ thống giao thông trên địa bàn tỉnh ngày càng hoàn thiện, từng bước phá vỡ “điểm nghẽn” về giao thông, tỉnh đã tổ chức lễ thông xe cầu Châu Đốc và phối hợp tổ chức Lễ khánh thành Dự án Tuyến nối Quốc lộ 91 và Tuyến tránh thành phố Long Xuyên. Đây là những công trình giao thông có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần thông tuyến quốc lộ N1, kết nối theo trục ngang của các tỉnh Tây Nam bộ nằm trên trục hành lang biên giới các tỉnh: Long An - Đồng Tháp - An Giang - Kiên Giang và trục dọc Cần Thơ - An Giang. Song song đó, các dự án hạ tầng giao thông mang tính liên kết vùng và liên kết các địa phương trong tỉnh tiếp tục được triển khai thực hiện, như: Tuyến cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, Đường tỉnh 941, 945, 958…

Lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, các chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo được triển khai đồng bộ, hiệu quả. Chất lượng giáo dục và đào tạo tiếp tục được nâng lên, kết quả tốt nghiệp trung học phổ thông đạt 99,61%, điểm trung bình tiếp tục nằm trong tốp 10 của cả nước và đứng đầu Đồng bằng sông Cửu Long. Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được thực hiện tốt. Các giá trị về lịch sử, văn hóa, con người An Giang tiếp tục được phát huy, ngày càng được lan tỏa trong nước và hướng ra quốc tế. Đáng tự hào, Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, từ đó, góp phần quảng bá hình ảnh tốt đẹp về vùng đất, con người, quê hương An Giang - quê hương của Chủ tịch Tôn Đức Thắng đến bạn bè trong nước và quốc tế.

Quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; an ninh biên giới được tăng cường; công tác dân tộc, tôn giáo tiếp tục được chú trọng; mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; đẩy mạnh ngoại giao kinh tế, ngoại giao quốc phòng; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển. Đặc biệt, tỉnh đã tổ chức thành công Diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh An Giang, diễn tập khu vực phòng thủ các huyện, thị xã, thành phố; đây là hình thức huấn luyện cao nhất nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ huy điều hành, khả năng tham mưu, hiệp đồng tác chiến của các cấp, các lực lượng và trình độ, sức mạnh, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang; trên cơ sở đó, tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, điều chỉnh quyết tâm, kế hoạch tác chiến sát với thực tiễn địa phương; tạo thế chủ động trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.

Bên cạnh đó, tỉnh tổ chức thành công nhiều sự kiện chính trị, kinh tế - xã hội như: Lễ Công bố Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Hội nghị giới thiệu tiềm năng đầu tư và quảng bá sản phẩm đặc trưng tỉnh An Giang tại Thành phố Hồ Chí Minh; Diễn đàn Mekong Connect 2024 do An Giang đăng cai tổ chức; kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh đào Vĩnh Tế (1824 - 2024), tưởng niệm 198 năm Ngày mất bà Châu Thị Tế (1826 - 2024); Đại hội dân tộc thiểu số tỉnh An Giang năm 2024; Lễ Công bố quyết định của Thủ tướng Chính phủ công nhận huyện Thoại Sơn đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao năm 2023 và kỷ niệm 45 năm ngày tái lập huyện Thoại Sơn (23/8/1979 - 23/8/2024)… Từ đó, góp phần nâng cao vị thế, hình ảnh của tỉnh.

Công tác xây dựng Đảng và công tác dân vận đạt nhiều kết quả tích cực, chất lượng hoạt động của cấp ủy cơ sở đảng ngày càng nâng cao; các cấp ủy chủ động nắm việc, sát việc trong lãnh đạo nhiệm vụ của địa phương, đơn vị. Chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân được nâng lên. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền tiến bộ. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có nhiều đổi mới; khối đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được củng cố, tăng cường.

Những thành quả nổi bật trên, trước hết là do chúng ta đã khơi dậy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo sát sao, kịp thời, đúng đắn của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy; tư duy, nhận thức, cách tiếp cận và tinh thần, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của các cấp ủy đảng, chính quyền được nâng lên rõ nét; những dư địa, định hướng lớn về phát triển kinh tế - xã hội được thực hiện quyết liệt thông qua các chương trình, dự án trọng điểm, mang lại những kết quả tích cực. Đây là kết quả đáng trân trọng, là động lực để toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân An Giang vững tin bước vào năm mới 2025 với quyết tâm chính trị cao nhất, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI.

Chaomung-DHD-2025.jpg

Quyết tâm tăng tốc, về đích trong năm 2025

Năm 2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm diễn ra đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, là năm tăng tốc, bứt phá, về đích, là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 và chuẩn bị, củng cố các yếu tố nền tảng, làm tiền đề để cùng cả nước vững tin bước vào Kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc, trong đó thực hiện sắp xếp, tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là yêu cầu cấp thiết.

Đảng bộ tỉnh An Giang nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về tình hình, bối cảnh chung; những thuận lợi và khó khăn riêng của tỉnh, từ đó nỗ lực tăng tốc, triển khai đồng bộ, toàn diện các nhiệm vụ, giải pháp để về đích trong năm 2025, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI.

Tập trung rà soát kết quả, đề ra giải pháp và huy động nguồn lực để hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu, các khâu đột phá, chương trình trọng điểm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI. Làm tốt công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV gắn với kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm 2025; phát động các phong trào thi đua yêu nước sôi nổi trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, đơn vị.

Đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hướng đến chuyển biến về chất, tạo ra nhiều giá trị gia tăng. Tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông. Hoàn thiện các quy hoạch đồng bộ, tập trung cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tăng cường liên kết, hợp tác. Ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu, chủ động phòng, chống thiên tai, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Phát triển văn hóa - xã hội gắn kết chặt chẽ, hài hòa với phát triển kinh tế; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Thực hiện tốt các chính sách về giảm nghèo, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, bảo vệ, chăm sóc trẻ em và bình đẳng giới; nâng cao sức khỏe, phát triển tốt về thể chất, tinh thần cho Nhân dân. Chú trọng xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao; thúc đẩy mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Chuẩn bị hồ sơ để công nhận kênh Vĩnh Tế là Di tích lịch sử cấp tỉnh, Di tích lịch sử cấp quốc gia. Củng cố, tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Trước yêu cầu cấp bách của nhiệm vụ cách mạng, cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước; khẩn trương triển khai sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh đảm bảo tinh gọn, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tấm gương đạo đức của Chủ tịch Tôn Đức Thắng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa và chủ động phát hiện, xử lý kịp thời, đồng bộ, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, tiêu cực; trong đó, phòng ngừa là chính, cơ bản, lâu dài; phát hiện, xử lý là đột phá quan trọng. Tập trung công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp; kịp thời giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Đẩy mạnh công tác dân vận khéo trong hệ thống chính trị các cấp, nhất là đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các tổ chức chính trị - xã hội, hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư nhằm phát huy truyền thống yêu nước, khát vọng phát triển, năng lực, trí tuệ, ý thức trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Thành công của năm 2024 là tiền đề quan trọng, tiếp thêm khát vọng, củng cố niềm tin, tạo động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng bộ, toàn quân và dân An Giang vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tận dụng thời cơ, thuận lợi, bước vào năm 2025 với tinh thần “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”.

Xuân Ất Tỵ đang đến với mọi người, mọi miền của đất nước; thôi thúc chúng ta tự tin, vững bước tới những thành công mới!

Trong không khí phấn khởi chào mừng Xuân mới Ất Tỵ 2025, kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh (3/2/1930 - 3/2/2025). Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2025, thay mặt Tỉnh ủy, HĐND, UBND, UBMTTQVN tỉnh, tôi kêu gọi các cấp ủy đảng, chính quyền, MTTQ, các ngành cùng toàn thể Nhân dân trong tỉnh tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực tự cường, khát vọng phát triển, kỷ cương, bản lĩnh, đổi mới, sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả; chung sức, đồng lòng vượt qua khó khăn, thử thách, đóng góp tài năng, công sức, trí tuệ, phấn đấu hoàn thành vượt mức các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ năm 2025, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI. Qua đó, tạo động lực xây dựng An Giang - quê hương Chủ tịch Tôn Đức Thắng ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại!


TS. LÊ HỒNG QUANG

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang.


Họp mặt kỷ niệm 95 năm thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh  An Giang (1930 - 2025)An Giang 190 nămTinNgọc HânHọp mặt kỷ niệm 95 năm thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh  An Giang (1930 - 2025)/SiteAssets/Hopmat-chibo-dautienag-2.jpg
03/02/2025 5:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Sáng 03/02, tại quê hương Chợ Mới giàu truyền thống cách mạng, trong không khí cả nước hân hoan, phấn khởi chào mừng kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930-03/02/2025), Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh An Giang long trọng tổ chức Họp mặt kỷ niệm 95 năm thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh An Giang (1930 - 2025).

Hopmat-chibo-dautienag-1.jpg

Văn nghệ chào mừng

Hopmat-chibo-dautienag-2.jpg

Hopmat-chibo-dautienag-3.jpg

Hopmat-chibo-dautienag-4.jpg

Đại biểu dự Họp mặt

Đến dự Họp mặt có đồng chí Lê Hồng Quang, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Lê Văn Nưng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh; đồng chí Hồ Văn Mừng, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh; các đồng chí nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên lãnh đạo các cơ quan Trung ương, nguyên lãnh đạo tỉnh qua các thời kỳ; các bậc lão thành cách mạng, các Mẹ Việt Nam anh hùng; các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, lãnh đạo các sở, ban, ngành, cơ quan, đơn vị, địa phương của tỉnh.

Hopmat-chibo-dautienag-5.jpg
Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Lê Văn Nưng phát biểu

Tại buổi họp mặt, thay mặt lãnh đạo tỉnh, đồng chí Lê Văn Nưng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh đã ôn lại truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng ta và của Đảng bộ tỉnh.

Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trong bối cảnh lịch sử đặc biệt và với sứ mệnh đặc biệt, là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Suốt chặng đường lịch sử 95 năm qua, Đảng ta – đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam – đã lãnh đạo đất nước vượt qua muôn vàn gian nan, thử thách, làm nên những thắng lợi, thành tựu vĩ đại, ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử vẻ vang của dân tộc.

Tại An Giang, đầu tháng 4/1930, Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc được thành lập ở Long Điền (Chợ Mới). Sự kiện thành lập Ban Chấp ủy lâm thời và Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở An Giang là bước ngoặt đặc biệt quan trọng đối với Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh An Giang. Đây cũng chính là thành quả của quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức của những đảng viên thuộc thế hệ đầu tiên của tỉnh và cũng chính là kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào yêu nước ở địa phương. Cuối tháng 4/1930, hạt giống cách mạng được nhân ra khắp nơi, các chi bộ đã lần lượt ra đời và lãnh đạo các phong trào đấu tranh cách mạng. Từ đó, Đảng bộ và Nhân dân An Giang tập hợp dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng, thống nhất cả tư tưởng và hành động để lãnh đạo các phong trào cách mạng, giành những thắng lợi vẻ vang, góp phần xứng đáng vào phong trào cách mạng cả nước.

Hopmat-chibo-dautienag-6.jpg
Đồng chí Hồ Minh Quang, nguyên Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy Chợ Mới đại diện cán bộ hưu trí phát biểu

Hopmat-chibo-dautienag-7.jpg
Đồng chí Nguyễn Văn Vuông, Bí thư xã đoàn, Xã Bình Phước Xuân đại diện thế hệ trẻ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang phát biểu

Hopmat-chibo-dautienag-8.jpg
Đồng chí Nguyễn Thị Minh Kiều, Bí thư Huyện ủy Chợ Mới phát biểu đáp từ

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Lê Văn Nưng khẳng định: Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang mãi mãi ghi nhớ, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với công ơn to lớn của các vị lãnh đạo tiền bối, các anh hùng, liệt sĩ, những người con ưu tú của quê hương, các gia đình liệt sĩ, các Mẹ Việt Nam anh hùng, các đồng chí thương binh, bệnh binh, các gia đình có công với cách mạng đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do và sự phát triển của quê hương An Giang.

Trước yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ bước vào Kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Đảng bộ tỉnh An Giang sẽ tiếp tục tăng cường hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, vững mạnh toàn diện; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng; củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng ở cơ sở và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp thật sự tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, phẩm chất, năng lực và uy tín; nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, tăng cường củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng; coi trọng và tăng cường đoàn kết trong Đảng, lấy đoàn kết của Đảng làm cơ sở, nền tảng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thắt chặt mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân; quyết tâm xây dựng quê hương An Giang phát triển toàn diện, cùng cả nước bước vào Kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và thành lập Chi bộ đảng đầu tiên của tỉnh An Giang, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Lê Văn Nưng kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và Nhân dân tỉnh nhà tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, tăng cường đoàn kết, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc; nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hoàn thành thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020 - 2025; tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; quyết tâm xây dựng quê hương An Giang phát triển toàn diện, góp phần cùng cả nước vững bước tiến vào Kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

NGỌC HÂN

Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên ở An GiangAn Giang 190 nămBài viếtTTCTTTKỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên ở An Giang/SiteAssets/Chibo-dautiebn-ag-3.jpg
03/02/2025 5:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Trong suốt chiều dài lịch sử từ khi có Đảng, Nhân dân An Giang luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin theo con đường cách mạng. An Giang tự hào là một trong số tỉnh ở Nam Bộ sớm có các tổ chức tiền thân của Đảng và các cơ sở đảng. Cuối năm 1927, Chi bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu tiên của tỉnh Long Xuyên ra đời tại huyện Chợ Mới. Tháng 2/1928, Tỉnh bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh Long Xuyên được thành lập. Tháng 4/1930, Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở An Giang được thành lập tại xã Long Điền, huyện Chợ Mới đã tổ chức treo lá cờ Đảng Cộng sản đầu tiên trên Cột dây thép ở ấp Long Thuận, xã Long Điền. Kể từ đó, nhiều cơ sở đảng trong tỉnh ra đời và ngày càng lớn mạnh, đã lãnh đạo Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang viết nên những trang sử hào hùng, vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cứu nước, bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam của Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế giúp nước bạn Campuchia và đạt những thành tựu to lớn, đáng tự hào trong gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.


Các hoạt động yêu nước trên địa bàn tỉnh trước khi Chi bộ Đảng đầu tiên ở An Giang ra đời

Sau Chiến tranh thế giới thứ Nhất, thực dân Pháp xác định Long Xuyên, Châu Đốc là hai tỉnh trọng điểm vơ vét lúa gạo, bóc lột, chúng thúc đẩy việc tập trung hóa ruộng đất, tăng cường vơ vét sưu, thuế và độc quyền muối, rượu, xuất nhập khẩu… đa số Nhân dân trên địa bàn tỉnh phải sống trong cảnh đói nghèo, mù chữ, dịch bệnh, nỗi khổ nhục của người dân bị mất nước. Đời sống văn hóa - xã hội thấp kém, dịch vụ y tế thiếu thốn và chỉ có ở tỉnh lỵ, quận lỵ mà đa số là trạm xá - hộ sinh.

Trong những năm 1924 - 1926, từ phong trào yêu nước, nhiều cá nhân tiến bộ xuất hiện, trong đó nổi bật lên vai trò thầy giáo Châu Văn Liêm. Xuất thân từ một gia đình nho giáo ở Ô Môn (Cần Thơ), Châu Văn Liêm sớm tiếp thu truyền thống yêu nước của cha, anh. Cuối năm 1924 ông ra trường về dạy trường Nữ Long Xuyên. Ở đây ông đã đấu tranh với Đốc học về lối giảng dạy, thi cử... đồng thời tuyên truyền cho giáo chức và giảng dạy cho học sinh tư tưởng tự do, dân chủ, tinh thần dân tộc. Hoạt động của Châu Văn Liêm làm cho bọn cầm quyền lo sợ. Năm 1926 chúng đổi ông về dạy trường sơ học Chợ Thủ (Chợ Mới), một hình thức kỷ luật đối với giáo viên mà chúng cho là có “đầu óc chống Pháp”.

Giữa năm 1927 Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Nam kỳ được thành lập, cử Nguyễn Ngọc Ba về Long Xuyên hoạt động với bí danh là Giáo Sinh, tìm đến những thanh niên tích cực trong phong trào yêu nước như: Châu Văn Liêm, Ung Văn Khiêm... tuyên truyền đường lối cách mạng. Cuối năm 1927, Chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu tiên của Long Xuyên ra đời tại Long Điền (Chợ Mới) gồm có: Châu Văn Liêm, Bùi Trung Phẩm và Lâm Văn Cẩn, do Châu Văn Liêm phụ trách. Tháng 2/1928 Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh Long Xuyên được thành lập, Châu Văn Liêm được chỉ định làm Bí thư, lấy tiệm may Mỹ Quang làm nơi liên lạc(1).

Sau khi thành lập, Tỉnh bộ mở các lớp huấn luyện ở Long Xuyên, Chợ Mới, chủ yếu lấy nội dung  cuốn “Đường  cách mệnh”  và Điều lệ Hội làm tài liệu giảng dạy đồng thời tích cực hưởng ứng chủ trương “Vô sản hóa” của Hội Thanh niên. Cuối năm 1929 các chi bộ và tiểu tổ Thanh niên phát triển nhanh chóng tại các địa phương trong tỉnh. Ngoài xây dựng tổ chức, các Hội Thanh niên còn lãnh đạo một số cuộc đấu tranh công khai, hợp pháp. Đến cuối năm 1929, tuy tổ chức chưa đều khắp, phong trào đấu tranh chưa sôi nổi, nhưng qua quá trình vận động cách mạng, ảnh hưởng của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã lan rộng và chiếm ưu thế trong phong trào yêu nước ở địa phương.


Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của An Giang được thành lập ở Long Điền, Chợ Mới

Trước phong trào cách mạng ngày càng phát triển, yêu cầu thành lập Đảng Cộng sản ngày càng trở nên bức thiết. Sau hội nghị hợp nhất ngày 03/02/1930 thành lập Đảng cộng sản Việt Nam tại Hương Cảng, tháng 3/1930 Đặc ủy An Nam cộng sản Đảng vùng Hậu Giang chuyển thành Đặc ủy Đảng cộng sản Việt Nam, cử cán bộ về các tỉnh xây dựng tổ chức đảng. Cuối tháng 3/1930, các đồng chí Nguyễn Văn Cưng, Bảy Xuyến… được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng đồng chí Lưu Kim Phong (cán bộ Đặc ủy) hình thành “Ban Chấp ủy lâm thời” tỉnh Long Xuyên. Đồng chí Nguyễn Văn Cưng trở thành Bí thư Tỉnh ủy Long Xuyên lúc 21 tuổi. Sau đó, Tỉnh ủy chủ trương xây dựng các chi bộ đảng, lấy Chợ Mới làm trung tâm phát triển tổ chức.

Đầu tháng 4/1930 Chi bộ Đảng đầu tiên của Long Xuyên, Châu Đốc được thành lập ở Long Điền (Chợ Mới) gồm 3 đồng chí: Lưu Kim Phong, Bùi Trung Phẩm và Đoàn Thanh Thủy. Để chào mừng sự kiện lịch sử đó, chi bộ cử Lê Văn Đỏ, một quần chúng trung kiên, treo lá cờ Đảng trên cột dây thép ở ấp Long Thuận (Long Điền). Lá cờ đỏ búa liềm tung bay trên Cột Dây Thép báo hiệu cho sự bắt đầu một giai đoạn cách mạng mới. Chợ Mới trở thành “cái nôi cách mạng” của cả vùng Long Xuyên, Châu Đốc. Sự kiện thành lập Ban Chấp ủy lâm thời và Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở An Giang là bước ngoặt đặc biệt quan trọng đối với Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh An Giang. Đây cũng chính là thành quả của quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức của những đảng viên thuộc thế hệ đầu tiên của tỉnh và cũng chính là kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với với phong trào yêu nước trên địa bàn tỉnh.

Nhìn lại chặng đường lịch sử vẻ vang 95 năm kể từ khi Ban Chấp ủy lâm thời tỉnh Long Xuyên ra đời và chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh được thành lập tại Long Điền (Chợ Mới), Đảng bộ tỉnh An Giang đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành về mọi mặt, trực tiếp lãnh đạo, phát động Nhân dân tỉnh nhà tiến hành các phong trào cách mạng với khí thế mạnh mẽ, cao điểm là các giai đoạn 1930-1931, 1936-1939, cao trào kháng Nhật, cứu nước, góp phần cùng cả nước đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 mang tầm vóc thời đại. Lãnh đạo quân và dân tỉnh nhà tham gia kháng chiến chống cuộc xâm lược lần hai của thực dân Pháp (1946 - 1954) và cuộc xâm lược của đế quốc Mỹ (1954 - 1975), chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và thực hiện công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, đưa kinh tế địa phương ngày càng phát triển, đời sống người dân được nâng cao… Những thành tựu mang ý nghĩa lịch sử trên càng khẳng định chân lý: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

L.H.P

Ý nghĩa sự ra đời Chi bộ Đảng đầu tiên ở An GiangAn Giang 190 nămBài viếtHạnh ChâuÝ nghĩa sự ra đời Chi bộ Đảng đầu tiên ở An Giang/SiteAssets/Chibo-dautiebn-ag-2.jpg
26/01/2025 7:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Năm 2025, Tỉnh ủy, HĐND, UBND, UBMTTQVN tỉnh sẽ long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 95 năm thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở tỉnh An Giang (1930 - 2025) vào ngày 3/2/2025, tại Khu di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia Cột Dây Thép (xã Long Điền A, huyện Chợ Mới).

 Chibo-dautiebn-ag-1.jpg

Cột Dây Thép

Chi bộ Đảng đầu tiên ở An Giang

Theo Lịch sử Đảng bộ tỉnh và huyện Chợ Mới, nửa sau thập niên 20 của thế kỷ XX, với sự hoạt động sôi nổi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội (tổ chức có tính chất quá độ cho sự ra đời các tổ chức cộng sản ở trong nước của Việt Nam) trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào phong trào yêu nước Việt Nam, đã làm thay đổi căn bản tính chất cuộc đấu tranh của Nhân dân Việt Nam chống lại thực dân, phong kiến. Khuynh hướng cách mạng vô sản phát triển mạnh, giữ vai trò nòng cốt, trở thành dòng chủ lưu trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Cuối năm 1927, Chi bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội đầu tiên ở Long Xuyên, Châu Đốc ra đời tại Long Điền, nay là xã Long Điền A (huyện Chợ Mới). Đây là một bước ngoặt quan trọng, đánh dấu quá trình Nhân dân huyện Chợ Mới và cả vùng Long Xuyên - Châu Đốc có một tổ chức cách mạng có đường lối cứu nước và phương pháp đấu tranh phù hợp với yêu cầu lịch sử lúc bấy giờ.

 Chibo-dautiebn-ag-2.jpg

Lãnh đạo tỉnh và huyện Chợ Mới dâng hoa tại Cột Dây Thép

Sau hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 3/1930, Đặc ủy An Nam Cộng sản Đảng vùng Hậu Giang chuyển thành Đặc ủy Đảng Cộng sản Việt Nam, cử cán bộ về các tỉnh xây dựng tổ chức Đảng. Cuối tháng 3/1930, Ban Chấp ủy lâm thời tỉnh Long Xuyên được thành lập, chủ trương chọn Chợ Mới làm trung tâm phát triển tổ chức Đảng.

Đầu tháng 4/1930, Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Long Xuyên, Châu Đốc ra đời tại Long Điền (huyện Chợ Mới) với 3 đảng viên: Lưu Kim Phong, Bùi Trung Phẩm, Đoàn Thanh Thủy. Chào mừng sự kiện trọng đại này, chi bộ cử Lê Văn Đỏ, một quần chúng kiên trung treo lá cờ Đảng trên Cột Dây Thép Long Điền, nay thuộc ấp Long Thuận 1 (xã Long Điền A, huyện Chợ Mới); Chợ Mới trở thành “cái nôi cách mạng” của vùng Long Xuyên - Châu Đốc. Từ Chi bộ Long Điền, hạt giống cách mạng được nhân ra khắp nơi, đến cuối tháng 4/1930, nhiều chi bộ Đảng ở Long Xuyên, Châu Đốc lần lượt ra đời.

Ý nghĩa to lớn

Chi bộ Long Điền (huyện Chợ Mới), Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Long Xuyên, Châu Đốc ra đời là bước ngoặt có ý nghĩa to lớn đối với phong trào cách mạng vùng Long Xuyên - Châu Đốc, góp phần quan trọng vào sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam.

Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Long Xuyên, Châu Đốc ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp, là bước ngoặt đánh dấu sự phát triển vượt bậc của phong trào cách mạng vùng Long Xuyên - Châu Đốc. Đồng thời, đây còn là thắng lợi rất quan trọng của tư tưởng vô sản cách mạng trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù thực dân, phong kiến; khẳng định vai trò của những người cộng sản và Chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào cách mạng ở Long Xuyên, Châu Đốc; góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn đối với quy luật thành lập Đảng ở Việt Nam.

 Chibo-dautiebn-ag-3.jpg

Đoàn viên, thanh niên tham quan Nhà trưng bày tại Cột Dây Thép (xã Long Điền A, huyện Chợ Mới)

Hướng đến ngày kỷ niệm trọng đại này và lập thành tích chào mừng kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở An Giang, khắp nơi trong tỉnh và huyện Chợ Mới đã tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa. Triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XI của Đảng bộ tỉnh và Nghị quyết XII Đảng bộ huyện Chợ Mới. Các phong trào thi đua yêu nước, phát huy nội lực, khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh; tích cực tháo gỡ khó khăn, ổn định và phát triển sản xuất - kinh doanh, xây dựng, chỉnh trang đô thị; đảm bảo an sinh xã hội, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tiếp tục tạo thế và lực mới thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.

Bí thư Huyện ủy Chợ Mới Nguyễn Thị Minh Kiều cho biết, lịch sử đã trao cho quê hương Chợ Mới vai trò “cái nôi cách mạng” của vùng Long Xuyên - Châu Đốc. Từ ngày có Đảng, những người con ưu tú của vùng đất cù lao Ông Chưởng - Chợ Mới đứng vào hàng ngũ của Đảng đã đem ánh sáng cách mạng của Đảng cảm hóa, giác ngộ, lãnh đạo Nhân dân đấu tranh lật đổ ách thống trị thực dân, phong kiến, vươn lên địa vị người chủ quê hương, tự quyết định vận mệnh của chính mình. Lãnh đạo Nhân dân giành lấy thắng lợi vẻ vang trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, giải phóng quê hương, góp phần xứng đáng cùng toàn tỉnh và cả nước thực hiện trọn vẹn cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân huyện Chợ Mới tiếp tục lập nên nhiều thành tích mới, vươn lên bằng nội lực, khẳng định vị thế của một đơn vị giàu truyền thống trong tỉnh, anh dũng trong đấu tranh, anh hùng trong lao động, được phong tặng 2 danh hiệu Anh hùng.

Dưới sự lãnh đạo điều hành của Đảng bộ tỉnh, toàn Đảng, toàn dân, đoàn kết nhất trí, chung sức, đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa tỉnh và huyện Chợ Mới phát triển toàn diện, mạnh mẽ.

Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân An Giang càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện tiến bước theo Đảng, xây dựng Đảng bộ An Giang ngày càng trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân An Giang quyết tâm xây dựng An Giang phát triển khá ở đồng bằng sông Cửu Long vào năm 2030, đến năm 2050 là tỉnh phát triển toàn diện, hiện đại, văn minh, sinh thái, bền vững

 HẠNH CHÂU

Thoại Sơn tiến bước trên con đường đổi mới và phát triểnAn Giang 190 nămBài viếtKim CươngThoại Sơn tiến bước trên con đường đổi mới và phát triển/SiteAssets/TS-muaxuan25-3.jpg
20/01/2025 4:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Xuân Ất Tỵ lại về mang theo bao niềm tin và ước vọng mới. Niềm tin ấy càng được củng cố, ước vọng ấy càng được nhân lên khi nhìn lại những chuyển biến sâu sắc trong công tác xây dựng Đảng của huyện trong thời gian qua, là chìa khóa để Thoại Sơn tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới và phát triển, góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.

 TS-muaxuan25-1.jpg

TS-muaxuan25-2.jpg

 Một số quang cảnh huyện Thoại Sơn

Thời gian qua, với quyết tâm chính trị cao, sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy, sự giám sát của HĐND huyện, sự điều hành linh hoạt, chủ động của Ủy ban nhân dân huyện, sự phối hợp chặt chẽ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, cùng với sự nỗ lực, cố gắng của các cấp, các ngành, sự ủng hộ tích cực của người dân, huyện Thoại Sơn đã phát huy tiềm năng, lợi thế, vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được những kết quả tích cực, toàn diện trên các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, công tác xây dựng Đảng và vận động quần chúng. Trong 24 nhóm chỉ tiêu Nghị quyết Đảng bộ huyện năm 2024, có 13 chỉ tiêu vượt, 11 chỉ tiêu đạt. Các chỉ tiêu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng đều vượt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra.

Nổi bật nhất là huyện được công nhận Huyện nông thôn mới nâng cao, sớm hơn 02 năm so với nghị quyết của tỉnh giao đã thể hiện tinh thần quyết tâm, đồng lòng của cả hệ thống chính trị trong toàn Đảng bộ huyện, đồng thời huyện đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ diễn tập khu vực phòng thủ huyện, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc.

 TS-muaxuan25-3.jpg

Thoại Sơn được Thủ tướng Chính phủ công nhận là huyện đạt chuẩn Nông thôn mới nâng cao

Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng tiếp tục được coi trọng, đã góp phần nâng cao nhận thức, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng bộ huyện và sự đồng thuận trong xã hội. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục chính trị, tư tưởng tiếp tục được đẩy mạnh với nội dung, hình thức đa dạng, chất lượng học tập, quán triệt ngày càng nâng lên. Cụ thể, tổ chức 160 hội nghị nghiên cứu, học tập, quán triệt các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII), hội nghị báo cáo viên, tuyên truyền viên cho 12.362 lượt đảng viên tham dự. Công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng được chú trọng, đổi mới công tác lãnh đạo, nâng cao chất lượng. Việc triển khai chương trình công tác kiểm tra, giám sát, phòng chống tham nhũng được quan tâm chỉ đạo, nhất là nội dung, đối tượng kiểm tra, giám sát đảm bảo trọng tâm và trọng điểm, đơn thư khiếu nại, tố cáo đối được xem xét giải quyết kịp thời, đúng quy định; đã ban hành quy chế làm việc mẫu để đảng ủy các xã, thị trấn rà soát, bổ sung, sửa đổi quy chế làm việc và tổ chức triển khai thực hiện và ban hành Quy chế làm việc Huyện ủy đúng theo quy trình, quy định của Ban Tổ chức Trung ương và của Tỉnh ủy.

Công tác dân vận của Đảng bộ có nhiều đổi mới, nhiều hoạt động của đoàn viên, hội viên diễn ra sôi nổi, các phong trào vận động xã hội hóa đảm bảo an sinh xã hội, phúc lợi xã hội rộng khắp trên địa bàn huyện (vận động hơn 30 tỷ quà và hiện vật), đặc biệt được tổ chức Kỷ lục Việt Nam đã trao bằng xác nhận kỷ lục "Huyện vận động xã hội hóa được nhiều nguồn quỹ nhất để phục vụ công tác an sinh xã hội".

 TS-muaxuan25-4.jpg

Trao nhà tại thị trấn Núi Sập

Những kết quả trong xây dựng Đảng đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Thoại Sơn. Các mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, đã được triển khai rộng rãi, mang lại nguồn thu ổn định cho người dân. Minh chứng là tất cả các chỉ tiêu về kinh tế xã hội đều đạt và vượt (vượt 11/18 chỉ tiêu kinh tế - xã hội). Trong đó các chỉ tiêu quan trọng về thu nhập bình quân, thu ngân sách, phát triển doanh nghiệp, giảm tỷ lệ hộ nghèo, hỗ trợ nhà ở, công tác dạy nghề, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động đều vượt cao so chỉ tiêu nghị quyết.

Bên cạnh đó, Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy đã định hướng, lãnh đạo kịp thời, xuyên suốt, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của UBND huyện, phối hợp chặt chẽ các sở, ngành tỉnh triển khai thực hiện tốt công tác bồi thường kịp thời đúng quy định, thuận lợi cho giải phóng mặt bằng Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng giai đoạn 1 đi qua địa phận huyện Thoại Sơn đảm bảo tiến độ đề ra.

TS-muaxuan25-5.jpg
Khởi công xây dựng nhà tình nghĩa tại xã Vĩnh Khánh

Năm 2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tập trung cao độ, tăng tốc, huy động tối đa các nguồn lực để hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII. Để đạt mục tiêu nghị quyết đề ra, đồng chí Nguyễn Như Anh – Bí thư Huyện ủy đề nghị các cấp ủy đảng, chính quyền, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội huyện tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm “Các cấp ủy đảng, chính quyền, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội huyện chú trọng làm tốt công tác nhân sự phục vụ cho đại hội đảng bộ cơ sở và Đại hội Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2025-2030; thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát; giải quyết nhanh và xử lý kịp thời những đơn thư khiếu nại, tố cáo. Cùng với đó, các ngành, các cấp tập trung rà soát việc thực hiện các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2025-2030 và của cấp ủy cấp mình để tập trung chỉ đạo hoàn thành theo nghị quyết đề ra…”.

Đồng chí Trần Thị Thanh Hương - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy nhấn mạnh: “Tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, quyết liệt trong công tác chỉ đạo điều hành, tập trung công tác, lãnh đạo, chỉ đạo Đại hội, tập trung thức hiện xóa nhà tạm bợ, đẩy mạnh sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, khẩn trương triển khai cụ thể hóa, đề ra chỉ tiêu, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp mạnh mẽ, thực hiện với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt hơn, phân công rõ người, rõ việc, rõ tiến độ, rõ trách nhiệm, rõ kết quả. Trong đó, tập trung tạo bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội trong năm 2025 và cả nhiệm kỳ”.

Mừng Đảng ta 95 mùa Xuân vinh quang, Đảng bộ và Nhân dân Thoại Sơn tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết một lòng, chung sức xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, tiến bước trên con đường đổi mới và phát triển, vững vàng tiến bước cùng mùa Xuân.

Kim Cương

An Giang quyết tâm thực hiện sắp xếp bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì dân phục vụBài viếtHoàng KỳAn Giang quyết tâm thực hiện sắp xếp bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì dân phục vụ/SiteAssets/Lists/thoisu01/EditForm/AG-tingonbomay-1b.jpg
31/12/2024 10:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)-  Cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, đang được triển khai quyết liệt để nâng cao năng lực quản lý và điều hành quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Cụm từ "cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị" được sử dụng lần đầu tiên trong bài viết "Tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả" của Tổng Bí thư Tô Lâm ngày 5/11/2024. Tiếp sau đó, hàng loạt văn bản chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, cũng như các phát biểu quan trọng của cán bộ lãnh đạo cấp cao đã được chuyển hóa thành những kế hoạch hành động khẩn trương, nhất quán trong cả nước, trong đó có An Giang.

AG-tingonbomay-3.jpg

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang phát biểu

Quyết sách chiến lược

Thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, kế thừa, phát huy những thành quả đạt được qua thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả", Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư Tô Lâm và nhiều đồng chí cán bộ cao cấp đã chỉ đạo thực hiện cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị. Đây là một quyết sách chiến lược, thể hiện tầm nhìn sâu rộng và quyết tâm chính trị rất cao của Đảng ta, nhằm xây dựng một bộ máy thực sự "tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả", đủ năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước trong giai đoạn mới.

Điểm đột phá chiến lược của việc tinh gọn bộ máy lần này là Trung ương quyết định bắt đầu thực hiện từ trên xuống, không tiến hành thí điểm, cũng không hội thảo, bàn bạc quá nhiều nhằm tiết kiệm thời gian, công sức, tiền của. Trung ương yêu cầu toàn bộ hệ thống chính trị bắt tay vào thực hiện ngay, định mốc thời gian hoàn thành những nội dung công việc rất rõ ràng theo phương châm "vừa chạy vừa xếp hàng", "Trung ương không chờ cấp tỉnh, cấp tỉnh không chờ cấp huyện, cấp huyện không chờ cơ sở" để nhanh chóng đưa chủ trương của Đảng đi vào thực tiễn cuộc sống. Đây không chỉ đơn thuần là cắt giảm về số lượng, "thay cũ đổi mới" hay "loại bỏ cái cũ để xây dựng cái mới" một cách cứng nhắc; thay vào đó, cuộc cách mạng này cần được hiểu như một quá trình tái cấu trúc và tối ưu hóa nguồn lực, kiên quyết tinh gọn chức năng chồng chéo, tạo ra một bộ máy vận hành hiệu quả, minh bạch và đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. Do đó, cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy lần này thực sự là bước đi lịch sử, tạo nền tảng cho một bộ máy Nhà nước "Tinh gọn, thông minh, hiệu quả", tạo ra một hệ sinh thái quản trị hiện đại, minh bạch và hướng tới người dân, trong đó mọi cơ chế vận hành đều phải đặt trọng tâm vào phục vụ lợi ích công. Đây là sự thay đổi không chỉ ở cấu trúc tổ chức mà còn ở cách chúng ta tiếp cận và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước, đáp ứng kỳ vọng của Nhân dân trong bối cảnh mới. Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh đây không chỉ là "cải cách", mà là một cuộc "cách mạng". Điều này thể hiện tầm nhìn chiến lược và quyết tâm chính trị mạnh mẽ của người đứng đầu Đảng ta trong việc vượt qua những rào cản cũ, tư duy cũ để tạo động lực đưa đất nước tăng tốc tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.  

AG-tingonbomay-1.jpg

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang phát biểu tại buổi gặp mặt cán bộ được điều động

An Giang quyết tâm tinh gọn tổ chức bộ máy

Với tinh thần "Trung ương làm gương, địa phương hưởng ứng, vừa chạy vừa xếp hàng", An Giang quyết tâm triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt các chỉ đạo của Trung ương, đồng thời chủ động, sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh. Cụ thể, ngay trong tháng 12 năm 2024, An Giang tập trung thực hiện hai nhiệm vụ trọng tâm sau:

Tổng kết 7 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW

Tập trung tổng kết 7 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá XII "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả" đúng tiến độ và thật sự chất lượng. Quá trình tổng kết phải đánh giá nghiêm túc, toàn diện về tình hình và kết quả đạt được, những ưu điểm, khuyết điểm, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện Nghị quyết; đề xuất, kiến nghị với Trung ương và Tỉnh về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị trên địa bàn. Bên cạnh đó, tổng kết phải tiến hành khách quan, dân chủ, khoa học, cụ thể, sâu sắc, cầu thị, sát đúng với tình hình thực tiễn từ đó đề xuất mô hình tổ chức mới, đánh giá ưu điểm và tác động khi thực hiện mô hình mới, bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, liên thông, một cơ quan thực hiện nhiều việc, một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì và chịu trách nhiệm chính; khắc phục triệt để chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, chia cắt về địa bàn, lĩnh vực; hạn chế tổ chức trung gian,v.v..

Xây dựng đề án sắp xếp, tinh gọn bộ máy của tỉnh

Căn cứ kết quả tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW và quán triệt tinh thần chỉ đạo của Trung ương, An Giang sẽ tập trung xây dựng các đề án sắp xếp, tinh gọn bộ máy từ Tỉnh đến cơ sở, bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp chức năng, nhiệm vụ và bảo đảm tính khoa học, hợp lý, khả thi và hiệu quả, gồm những nội dung chủ yếu sau:

- Kết thúc hoạt động của 08 đảng đoàn, 03 ban cán sự đảng trực thuộc Tỉnh ủy và Đảng ủy Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh.

- Thành lập Đảng bộ Cơ quan Đảng, đoàn thể, Hội đồng nhân dân và Tư pháp tỉnh; Đảng bộ chính quyền tỉnh trực thuộc Tỉnh ủy nhằm khắc phục những hạn chế, khó khăn trong tổ chức, hoạt động của ban cán sự đảng, đảng đoàn và đảng ủy khối trực thuộc Tỉnh ủy hiện nay.

- Kết thúc hoạt động của Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh; chuyển giao chức năng, nhiệm vụ cho Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Y tế và Bệnh viện Đa khoa Trung tâm.

- Sáp nhập Ban Dân vận và Ban Tuyên giáo cấp uỷ tỉnh, cấp uỷ cấp huyện nhằm tăng cường sự phối hợp, thống nhất trong công tác dân vận, tuyên truyền của Đảng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, vận động quần chúng, tạo sự đồng thuận xã hội.

- Sáp nhập các cơ quan thuộc HĐND tỉnh, đầu mối bên trong Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh, cụ thể: Hợp nhất Ban Dân tộc và Ban Văn hóa - Xã hội, hợp nhất Phòng Công tác Quốc hội và Phòng Công tác Hội đồng nhân dân. Việc sáp nhập giúp thống nhất đầu mối, nâng cao hiệu quả công tác tham mưu, giúp việc của cơ quan dân cử.

- Sáp nhập, giảm 06 Sở thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh nhằm tinh gọn bộ máy hành chính, giảm bớt đầu mối, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong giao dịch hành chính. Cụ thể:

+ Sáp nhập Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính thành Sở Kinh tế - Tài chính nhằm quản lý thống nhất về tài chính và đầu tư, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về tài chính công, điều hành kinh tế, thu hút đầu tư, phân bổ nguồn lực hiệu quả.

+ Sáp nhập Sở Xây dựng và Sở Giao thông Vận tải thành Sở Xây dựng và Giao thông nhằm tăng cường sự phối hợp trong quản lý, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông và hạ tầng kỹ thuật đô thị, góp phần phát triển hạ tầng đồng bộ, hiện đại, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

+ Sáp nhập Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Tài nguyên và Môi trường thành Sở Nông nghiệp và Môi trường nhằm quản lý thống nhất về nông nghiệp, tài nguyên, môi trường, giúp giải quyết các vấn đề liên quan mang tính tổng thể, bền vững.

+ Sáp nhập Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Thông tin và Truyền thông thành Sở Khoa học, Công nghệ và Truyền thông nhằm thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là trong lĩnh vực thông tin truyền thông, kinh tế số, xã hội số, nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh.

+ Sáp nhập Sở Nội vụ và Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành Sở Nội vụ và Lao động nhằm tinh gọn bộ máy; đồng thời, điều chỉnh một số chức năng quản lý Nhà nước đảm bảo phù hợp, cụ thể: Chuyển chức năng quản lý Nhà nước về giáo dục nghề nghiệp sang Sở Giáo dục và Đào tạo; chuyển chức năng quản lý Nhà nước về bảo trợ xã hội, trẻ em, phòng, chống tệ nạn xã hội sang Sở Y tế; chuyển Ban Tôn giáo (thuộc Sở Nội vụ) về Ban Dân tộc và thành lập Ban Dân tộc - Tôn giáo thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh.

+ Sáp nhập nguyên trạng Sở Ngoại vụ vào Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh.

- Sắp xếp lại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện theo hướng tinh gọn, hiệu quả, giảm đầu mối, tránh chồng chéo chức năng, nhiệm vụ tương tự như cấp tỉnh.

- Rà soát, kết thúc hoạt động, sáp nhập một số đơn vị sự nghiệp có chức năng, nhiệm vụ tương đồng:

+ Giải thể Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư tỉnh, cụ thể: Chuyển chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy thuộc lĩnh vực xúc tiến thương mại về Sở Công Thương; chuyển chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy thuộc lĩnh vực xúc tiến du lịch về Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; chuyển chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy thuộc lĩnh vực xúc tiến đầu tư về Sở Kinh tế - Tài chính.

+ Sáp nhập nguyên trạng Ban Quản lý du lịch Núi Cấm (thuộc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư tỉnh) vào Ban Quản lý Khu du lịch quốc gia Núi Sam.

+ Sáp nhập Báo An Giang (đơn vị sự nghiệp của Tỉnh ủy do ngân sách đảm bảo phần lớn chi thường xuyên), Đài Phát thanh - Truyền hình An Giang (đơn vị sự nghiệp thuộc UBND tỉnh tự chủ 100% chi thường xuyên), các cổng thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh và cổng thông tin điện tử của tỉnh từ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở Thông tin và Truyền thông.

+ Các đơn vị sự nghiệp công lập còn lại sẽ nghiên cứu xây dựng đề án sắp xếp, tinh gọn bộ máy từng đơn vị, đảm bảo tiêu chí thành đơn vị sự nghiệp công lập và tiêu chí lập phòng, khoa, bộ phận tương đương, số lượng cấp phó của mỗi đơn vị phòng, khoa và tương đương theo quy định.

+ Sáp nhập Ban Quản lý Dự án đầu tư xây dựng công trình Giao thông, Nông nghiệp và Ban Quản lý Dự án đầu tư và Khu vực phát triển đô thị thành Ban Quản lý Dự án tỉnh.

+ Sắp xếp lại các quỹ tài chính nhà nước ở địa phương theo hướng tinh gọn, hiệu quả, tránh chồng chéo, trùng lắp, bảo đảm hoạt động thiết thực, hiệu quả trong quản lý tài chính công.

- Rà soát, tinh gọn đầu mối bên trong các cơ quan, đơn vị, cơ bản không duy trì các chi cục (trừ trường hợp thật sự cần thiết), tinh gọn phòng ban trực thuộc sở, ban, ngành; bố trí cấp phó theo đúng quy định; tinh gọn đầu mối các đơn vị sự nghiệp trực thuộc...

Với quyết tâm chính trị cao và tinh thần chủ động, quyết liệt, thần tốc, Tỉnh ủy An Giang nghiêm túc chấp hành những chủ trương, quyết sách, chỉ đạo của Trung ương, nhất là tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm để khẩn trương xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện các kế hoạch, đề án sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy trên phạm vi toàn tỉnh. Thời gian tới, trên cơ sở chỉ đạo, định hướng của Trung ương, Tỉnh ủy sẽ tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện sáp nhập, giải thể một số ban, cơ quan của cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện; rà soát bổ sung, sửa đổi các quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy; sắp xếp, bố trí, điều chuyển nhân sự… bảo đảm các điều kiện tiến hành đại hội đảng bộ các cấp; ban hành quyết định kết thúc hoạt động của các đảng đoàn, ban cán sự đảng cấp tỉnh, các đảng bộ khối cấp tỉnh; thành lập các đảng bộ sau khi có chủ trương của Trung ương; chỉ định Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Bí thư, Phó Bí thư các đảng ủy; ban hành các quyết định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, mối quan hệ công tác và quy chế làm việc của đảng ủy cơ quan Đảng, đoàn thể, hội đồng nhân dân, tư pháp cấp tỉnh và đảng uỷ chính quyền cấp tỉnh sau khi Ban Bí thư ban hành Quy định,v.v...

Giải pháp thực hiện

Để tạo sự thống nhất, thông suốt, đồng thuận của hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân đối với cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy trên địa bàn tỉnh, các cấp ủy cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện một số giải pháp trọng tâm như sau:

1. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác chính trị tư tưởng; công tác tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội, tạo sự thống nhất cao trong Đảng bộ và toàn hệ thống chính trị, sự đồng thuận trong Nhân dân về chủ trương, mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị trong tình hình mới. Chỉ đạo, định hướng thông tin, tuyên truyền thường xuyên, liên tục, hiệu quả, tạo nên đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng để tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

2. Thống nhất nhận thức và hành động trong toàn Đảng bộ và cả hệ thống chính trị, kiên định, quyết tâm, theo đúng đường lối của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và kế hoạch Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Ban Chỉ đạo tổng kết thực hiện Nghị  quyết số 18-NQ/TW tỉnh. Làm tốt công tác tư tưởng trong nội bộ, kịp thời dự báo những vấn đề tư tưởng, dư luận xã hội có thể nảy sinh để chủ động làm công tác tư tưởng, định hướng dư luận xã hội. Tích cực, khẩn trương, quyết liệt thực hiện sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức từ tỉnh đến cơ sở gắn với tinh giảm biên chế, loại bỏ những vị trí không cần thiết, những công việc không hiệu quả, cắt bỏ những khâu trung gian, tập trung nguồn lực cho các lĩnh vực then chốt, những người thật sự xứng đáng và phù hợp. Quá trình triển khai thực hiện phải quán triệt quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm "Bộ máy mới phải tốt hơn bộ máy cũ và đi vào hoạt động được ngay, không để ngắt quảng công việc, không để khoảng trống về thời gian, khoảng trống về địa bàn, lĩnh vực; không để ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, của người dân".

3. Công khai, minh bạch trong quá trình sắp xếp, quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, công chức

Kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy luôn là bài toán khó, bởi nó không chỉ liên quan đến vị trí, chức vụ mà còn ảnh hưởng đến tâm lý và động lực làm việc của đội ngũ cán bộ. Do đó, quá trình thực hiện phải thật sự công tâm, khách quan, công khai, minh bạch, không thiên vị, giữ chân được cán bộ có năng lực.

Cần tiêu chí công bằng và minh bạch trong sắp xếp cán bộ, khi sắp xếp cần xét đến phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm, kết quả công tác và sự phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong bộ máy mới. Quy trình này phải đảm bảo tính khách quan, tránh sự thiên vị và tuyệt đối không lợi dụng để cài cắm lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân trong sắp xếp tổ chức bộ máy, biên chế.

 Những cán bộ thực sự có năng lực, phẩm chất, tâm huyết cần được trọng dụng, dù vị trí công việc có thay đổi. Đối với những cán bộ phải "giảm chức vụ" hoặc chuyển đến các vị trí công tác mới, cần có chế độ đãi ngộ vượt trội, tạo cơ hội thăng tiến và tái sắp xếp trong tương lai.

Ngoài ra, cần lắng nghe và giải quyết thấu đáo các ý kiến, tâm tư của cán bộ bị ảnh hưởng bởi quá trình sắp xếp. Một sự động viên kịp thời, một lời giải thích hợp lý sẽ giúp cán bộ cảm thấy được tôn trọng và thấu hiểu.

4. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện

Ban Thường vụ Tỉnh ủy tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, phân công rõ trách nhiệm cho các ban, ngành, đoàn thể trong triển khai thực hiện. Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, giám sát việc thực hiện các đề án; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những sai sót, khuyết điểm. Xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm, tiêu cực trong quá trình sắp xếp, tinh gọn bộ máy.

Có thể nói, nhiệm vụ sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy là công việc rất khó khăn, nhạy cảm, phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi con người trong từng tổ chức. Do đó, đòi hỏi sự đoàn kết, quyết tâm cao, dũng cảm và cả sự hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung. Tin tưởng rằng, với sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, mà trực tiếp thường xuyên là Ban Thường vụ và Thường trực Tỉnh ủy, sự vào cuộc khẩn trương, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, tỉnh An Giang sẽ thực hiện thành công cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy, nhằm phục vụ Nhân dân một cách tốt nhất, hiệu quả nhất, tạo động lực mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng An Giang ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại, xứng đáng là tỉnh trọng điểm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

_________

(*) TS Lê Hồng Quang

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang

Lực lượng vũ trang An Giang: “Tự hào truyền thống - viết tiếp chiến công - xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”An Giang 190 nămBài viếtTTCTTTLực lượng vũ trang An Giang: “Tự hào truyền thống - viết tiếp chiến công - xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”https://www.angiang.dcs.vn/SiteAssets/22-12-Quan-doi-VN-1.jpg
22/12/2024 5:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, Quân đội nhân dân(QĐND)Việt Nam đã xây đắp nên truyền thống rất vẻ vang, được khái quát cô đọng trong lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh:“Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Là một bộ phận của QĐND Việt Nam, Lực lượng vũ trang (LLVT) tỉnh An Giang luôn tự hào truyền thống, viết tiếp chiến công, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ, ra sức phấn đấu, rèn luyện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

 

Ngày 22/12/1944, tại khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng (nay là xóm Nà Sang, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Trung ương Đảng và Lãnh tụ Hồ Chí Minh ủy nhiệm tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy, tuyên bố thành lập Đội. Ban đầu, Đội có 34 chiến sĩ, biên chế thành 3 tiểu đội do đồng chí Hoàng Sâm làm Đội trưởng, đồng chí Xích Thắng làm Chính trị viên, có chi bộ Đảng lãnh đạo. Ngày 22/12/1944 được lấy làm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.

Từ một đội quân “đầu trần chân đất”, QĐND Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, vừa đánh vừa bổ sung, phát triển nghệ thuật quân sự, từ đánh nhỏ lên đánh lớn, từ đánh du kích lên đánh chính quy. Ngay sau khi thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã ra quân đánh thắng trận đầu Phai Khắt, Nà Ngần (25, 26/12/1944) - mở đầu cho truyền thống quyết chiến, quyết thắng của QĐND Việt Nam. Chiến công, tiếp bước chiến công, QĐND Việt Nam đã cùng quân dân cả nước đánh bại hai thế lực thực dân, đế quốc hung hãng nhất của thế kỷ XX để giành lại nền độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà. Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954) là một điển hình xuất sắc, là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, đồng thời cũng là một minh chứng cho sự phát triển vượt bậc của quân đội ta sau 10 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành. Đại thắng mùa xuân 1975 với Chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại là một dấu mốc trưởng thành vượt bậc của quân đội ta, là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, QĐND Việt Nam lại bước vào cuộc trường chinh mới, chiến đấu giành thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc và làm nghĩa vụ quốc tế, giúp nhân dân Lào bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, thực hiện công cuộc hồi sinh dân tộc. Bước vào thời kỳ đổi mới, trước những thay đổi phức tạp của tình hình trong nước, quốc tế, phát huy truyền thống trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, Quân đội nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, luôn kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân Việt Nam đã lựa chọn. Bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” được tôi luyện qua hai cuộc kháng chiến và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, mãi mãi tỏa sáng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quân đội nhân dân tích cực tham gia xây dựng kinh tế, củng cố, tăng cường quốc phòng, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu, góp phần cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Các doanh nghiệp quốc phòng vừa bảo đảm nhiệm vụ quốc phòng, vừa tham gia phát triển kinh tế - xã hội. Quân đội nhân dân tích cực, chủ động thực hiện các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, khắc phục hậu quả chiến tranh, phòng, chống bão lụt, thiên tai, cứu hộ, cứu nạn,... bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhân dân. Hình ảnh cán bộ, chiến sĩ quân đội luôn có mặt ở những nơi xung yếu, nguy hiểm để giúp đỡ Nhân dân đã làm ngời sáng thêm bản chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” được Đảng, Nhà nước và Nhân dân tin yêu.

Cùng với quân - dân cả nước, hòa trong khí thế của cao trào Cách mạng Tháng Tám năm 1945, quân - dân An Giang nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Chiều 26/8/1945, tất cả “Thanh niên tiền phong” tham gia khởi nghĩa đã tập hợp tại Thành PC (tỉnh Châu Đốc), thành lập một đại đội, gồm 5 trung đội với tên gọi “Cộng hoà vệ binh” do đồng chí Hùng Cẩm Hòa làm Tổng Chỉ huy. Đây là đơn vị LLVT đầu tiên của tỉnh An Giang và ngày 26/8 trở thành Ngày truyền thống LLVT tỉnh. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc, chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, thực hiện công cuộc hồi sinh dân tộc. LLVT An Giang đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, kiên cường, bám trụ, vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng, với nhiều chiến thắng có ý nghĩa lịch sử, góp phần vào thắng lợi trong công cuộc kháng chiến giải phóng và bảo vệ thành quả đất nước, xây đắp nên truyền thống vẻ vang, được Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 9 khen tặng 8 chữ vàng “Chiến đấu anh hùng, xây dựng sáng tạo”.


Phát huy những thành quả đạt được, LLVT tỉnh An Giang đã và đang tiếp tục phát huy truyền thống, ra sức phấn đấu, rèn luyện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, viết tiếp chiến công, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Điểm nổi bật là LLVT tỉnh luôn làm tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị, góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương; xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh Nhân dân, khu vực phòng thủ vững chắc.

Hưởng ứng đợt thi đua cao điểm “Tự hào truyền thống - Viết tiếp chiến công - Xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” chào mừng kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam, 35 năm Ngày Hội quốc phòng toàn dân, LLVT tỉnh tập trung đẩy mạnh thi đua hoàn thành xuất sắc, toàn diện, vượt mức, về đích sớm nhiệm vụ quân sự quốc phòng, xây dựng đảng bộ các cấp trong LLVT tỉnh trong năm 2024 và cả nhiệm kỳ 2020-2025. Đã có nhiều công trình, phần việc, các mục tiêu thi đua được đánh giá đạt và vượt chỉ tiêu nghị quyết đề ra. Tổng kết phong trào thi đua Quyết thắng và thi đua xây dựng nền quốc phòng toàn dân năm 2024, LLVT tỉnh đã được Bộ Tư lệnh Quân khu đề nghị tặng danh hiệu Cờ thi đua Bộ Quốc phòng cho 01 tập thể, Cờ thi đua Quân khu cho 03 tập thể, danh hiệu Đơn vị quyết thắng cho 26 tập thể, Bằng khen của UBND tỉnh cho 04 tập thể có thành tích xuất sắc trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và hằng trăm tập thể, cá nhân được tặng thưởng danh hiệu danh hiệu tập thể Đơn vị tiên tiến, danh hiệu Chiến sĩ thi đua, Chiến sĩ tiên tiến.

Hướng đến kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2024), 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2024), LLVT tỉnh An Giang đã và đang phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường, năng động sáng tạo, “Tự hào truyền thống - viết tiếp chiến công - xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, ra sức thi đua hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ quân sự quốc phòng, xây dựng LLVT tỉnh vững mạnh toàn diện “Mẫu mực tiêu biểu”, luôn xứng đáng với niềm tin yêu của cấp ủy, chính quyền và Nhân dân trên địa bàn đóng quân.

Đại tá NGUYỄN THÚC LINH

Tỉnh ủy viên, Chính ủy Bộ CHQS tỉnh

An Giang không gian mới, giá trị mớiAn Giang 190 nămBài viếtHạnh ChâuAn Giang không gian mới, giá trị mới/SiteAssets/AG-kgm=gtm-4.jpg
11/12/2024 2:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- An Giang là 1 trong 4 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm của vùng ĐBSCL (TP Cần Thơ, tỉnh An Giang, Kiên Giang và Cà Mau), có vị trí địa kinh tế quan trọng, nằm ở cực Nam của Tổ quốc, tiếp giáp với Campuchia, có vị trí chiến lược về quốc phòng và an ninh. Tỉnh có tiềm năng lớn về du lịch, thương mại và nông nghiệp. Mục tiêu đến năm 2030, tỉnh xác định 3 lĩnh vực trọng tâm: Kinh tế nông nghiệp, phát triển du lịch và kinh tế biên mậu và sẽ quyết tâm biến các tiềm năng, thế mạnh này thành động lực tăng trưởng mới”- Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Ngô Công Thức chia sẻ.

AG-kgm=gtm-1.jpg

Không gian mới

An Giang là tỉnh biên giới có vị trí địa lý nằm khu vực đầu nguồn của dòng sông Cửu Long, có gần 100 km đường biên giới giáp 2 tỉnh Kandal và Takeo (Vương quốc Campuchia), với 2 cửa khẩu quốc tế (Cửa khẩu Tịnh Biên và cửa khẩu Vĩnh Xương), 2 cửa khẩu quốc gia (Khánh Bình, Vĩnh Hội Đông) và nhiều cửa khẩu phụ dọc biên giới hai nước. Địa hình tự nhiên của tỉnh bị chia cắt bởi các nhánh sông con sông Cửu Long (sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Nao) và nhiều kênh rạch chằng chịt.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Ngô Công Thức cho biết: Hệ thống giao thông đường bộ của tỉnh có tổng chiều dài 5.637km. Trong đó, Quốc lộ (QL) dài 244 km; Đường tỉnh (ĐT) dài 439km; đường đô thị hơn 702km; hệ thống đường huyện, giao thông nông thôn 4.244km và đường chuyên dùng 8km.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Ngô Công Thức chia sẻ: “Nhìn lại chặng đường đã qua, An Giang đã đạt nhiều những thành tựu đáng kể. Đặc biệt trong thực hiện Nghị quyết của Đại hội đảng bộ tỉnh, về khâu đột phá, đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông phục vụ phát triển thương mại, du lịch và công nghiệp. Đã có nhiều dự án giao thông trọng điểm đã được đầu tư và khởi công. Trong giai đoạn mới, khi đất nước ta đang hội nhập sâu rộng với quốc tế, An Giang đang đứng trước nhiều cơ hội phát triển mới”.

“Được sự quan tâm Tỉnh ủy, UBND tỉnh, các Bộ ngành Trung ương, hệ thống giao thông QL và ĐT đã được đầu tư đảm bảo kết nối cơ bản với hệ thống giao thông khu vực, khắc phục tình trạng chia cắt về địa hình, kết nối các khu du lịch, các trung tâm kinh tế của vùng và khu vực. Hiện, Ngành Giao thông đang được tiếp tục đầu tư và định hướng đầu tư với mục tiêu tăng cường liên kết vùng và liên vùng, phát triển “đột phá kết cấu hạ tầng giao thông”, từng bước tháo gỡ điểm nghẽn về hạ tầng giao thông, kết nối hệ thống giao thông của tỉnh đến các tuyến vận tải quốc tế và cửa khẩu quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, gắn mục tiêu đảm bảo quốc phòng - an ninh khu vực biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc”- Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Ngô Công Thức chia sẻ.

AG-kgm=gtm-4.jpg
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang kiểm tra tiến độ cao tốc Châu Đốc-Cần Thơ-Sóc Trăng

Thực hiện chủ trương phát triển đột phá kết cấu hạ tầng giao thông, tuyến cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng đã được Bộ Giao thông vận tải và UBND tỉnh khởi công năm 2023. Quy mô toàn tuyến của Dự án giai đoạn 1 dài 188,2km; trong đó, Dự án thành phần 1 qua địa bàn An Giang dài 57km, quy mô đầu tư phân kỳ 4 làn xe. Dự án đang được thực hiện các thủ tục, để đầu tư tuyến kết nối cao tốc đến Cửa khẩu Quốc tế Tịnh Biên và Cửa khẩu quốc gia Khánh Bình, kết nối khu vực biên giới tỉnh An Giang với TP. Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang và tỉnh Sóc Trăng đến Cảng Trần Đề. “Dự án sau khi hoàn thành sẽ khơi thông tuyến hành lang hướng về biên giới Tây Nam (Campuchia, Lào), kết nối vùng kinh tế trọng điểm, kết nối hệ thống giao thông tỉnh An Giang đến tuyến vận tải quốc tế. Qua đó, tạo cơ hội cho hàng hóa của tỉnh và tiếp cận thị trường rộng lớn các nước trong cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và xuất khẩu sang các nước Việt Nam đã ký kết Hiệp định thương mại tự do qua cảng nước sâu Trần Đề. Hiện, các Dự án thành phần đã được khởi công, dự kiến hoàn thành đưa vào sử dụng năm 2027”- Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Ngô Công Thức cho biết.

AG-kgm=gtm-2.png

Giá trị mới

Nói về giá trị mới của các dự án, Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Ngô Công Thức nhận định: Dự án cao tốc sau khi hoàn thành sẽ hình thành tuyến trục dọc sông Hậu, song song và phá thế độc đạo của QL 91. Bên cạnh đầu tư tuyến trục dọc, thời gian qua, các tuyến trục ngang kết nối trục dọc cũng được quan tâm, đã và đang được thực hiện đầu tư 3 tuyến trục ngang.

Tuyến trục ngang thứ nhất-khu vực biên giới của tỉnh: Tuyến N1 kết nối QL 91, kết nối Khu du lịch Núi Sam, Khu du lịch Núi Cấm, Trung tâm thương mại TP. Châu Đốc với các Khu du lịch của TP. Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang), đồng thời kết nối liên vùng đến tỉnh Đồng Tháp. Tuyến này đang được triển khai thi công, dự kiến hoàn thành trong năm 2025. Định hướng trong giai đoạn tiếp theo, sẽ kiến nghị Bộ Giao thông vận tải và phối hợp tỉnh Đồng Tháp, đầu tư cầu Tân Châu - Hồng Ngự vượt sông Tiền và tuyến N1 thuộc tỉnh Đồng Tháp kết nối với cao tốc Hồng Ngự- Trà Vinh.

 AG-kgm=gtm-3.png

Tuyến trục ngang thứ 2 - khu vực huyện Châu Phú và Phú Tân: Tuyến ĐT 945 (quy hoạch là tuyến QL 80C) đã được đầu tư quy mô 2 làn xe kết nối từ QL 91 - huyện Châu Phú đến ranh tỉnh Kiên Giang. Định hướng giai đoạn năm 2026-2030, sẽ đầu tư đoạn còn lại gồm cầu Năng Gù (thay thế bến phà Năng Gù trên sông Hậu) và mở mới đoạn tuyến QL 80C qua địa bàn huyện Phú Tân (tỉnh An Giang), phối hợp UBND tỉnh Đồng Tháp để đầu tư tuyến QL 30C để kết nối tuyến ĐT 945 với cao tốc Hồng Ngự - Trà Vinh đoạn Cao Lãnh đến cửa khẩu Dinh Bà. Để tiếp tục đầu tư ĐT 945 kết nối với tỉnh Kiên Giang, phối hợp tỉnh Kiên Giang đầu tư đoạn tuyến QL 80C đoạn qua huyện Hòn Đất (tỉnh Kiên Giang), kết nối từ điểm cuối của ĐT 945 với QL 80 tỉnh Kiên Giang. Như vậy, trong tương lai sẽ hình thành tuyến trục ngang liên vùng, kết nối với các tuyến trục dọc gồm: Cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, cao Tốc Hồng Ngự - Trà Vinh, tỉnh Đồng Tháp, kết nối QL 80 (tỉnh Kiên Giang).   

AG-kgm=gtm-5.JPG
Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Hồ Văn Mừng khảo sát các cảng, tuyến đường thủy nội địa

Tuyến trục ngang thứ 3 - khu vực TP Long xuyên, huyện Chợ Mới: Định hướng đầu tư đến năm 2030, đầu tư cầu Tôn Đức Thắng vượt sông Hậu và tuyến đường kết nối ĐT 944B. Theo Quyết định 1369/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tỉnh An Giang, sẽ hình thành tuyến trục ngang kết nối QL 91, cao tốc Châu đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng (Nút giao Km38 - ĐT 956), ĐT 944, QL 80B, cầu Cao Lãnh đi TP Hồ Chí Minh. Đặc biệt, tuyến trục ngang này có ý nghĩa quan trọng kết nối hệ thống đường bộ đến quê hương và Khu lưu niệm của Bác Tôn.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Ngô Công Thức đúc kết: "Nếu được sự quan tâm và tiếp tục dành nhiều nguồn lực đầu tư, trong giai đoạn tiếp theo, hệ thống giao thông đường bộ của tỉnh sẽ hình thành 3 tuyến trục ngang (tuyến N1, ĐT 945 (QL 80C), ĐT 944B và cầu Tôn Đức Thắng). Kết nối với 2 tuyến cao tốc trục dọc gồm: Cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng) và cao tốc Hồng Ngự - Trà Vinh (Cao Lãnh- An Hữu đi cửa khẩu Dinh Bà), sẽ hình thành hệ thống giao thông đường bộ đối ngoại của tỉnh, có kết nối “dọc ngang thông suốt”. Yếu tố cốt lõi khắc phục tình trạng chia cắt về địa hình, tháo gỡ điểm nghẽn hạ tầng giao thông, tạo nền tảng cho kinh tế An Giang vươn mình phát triển, cùng với cả nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình”.

HẠNH CHÂU

Lực lượng vũ trang tỉnh An Giang  phát huy vai trò nòng cốt xây dựng,  củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”An Giang 190 nămBài viếtTTCTTTLực lượng vũ trang tỉnh An Giang  phát huy vai trò nòng cốt xây dựng,  củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”/SiteAssets/Noi%20banh%20tet%20QuanDan%20(%20DANG%20HAI%20).jpg
05/12/2024 2:00 CHNoĐã ban hành

​(TUAG)- Quán triệt tư duy mới về quốc phòng an ninh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, lực lượng vũ trang (LLVT) tỉnh An Giang luôn phát huy vai trò nòng cốt xây dựng, củng cố vững chắc "thế trận lòng dân" tạo sự đồng thuận cao của Nhân dân trong tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với quốc phòng - an ninh trên địa bàn.

Trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh; Đảng ủy, Bộ Chỉ huy quân sự (CHQS) tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong LLVT tỉnh triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương; luôn phát huy tốt vai trò nòng cốt trong xây dựng, củng cố vững chắc "thế trận lòng dân", tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân - dân, góp phần xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh.

Noi banh tet QuanDan ( DANG HAI ).jpg

Nồi bánh tét quân dân. Ảnh: Đăng Hải.

Trong những năm qua, Đảng ủy, Bộ CHQS tỉnh đã tham mưu thực hiện tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức quốc phòng, an ninh nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm, năng lực hành động cho cả hệ thống chính trị và toàn dân đối với nhiệm vụ quốc phòng an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ, bảo vệ Tổ quốc. Với đặc thù là tỉnh đa dân tộc, đa tôn giáo, Bộ CHQS tỉnh đã tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo các địa phương chủ động phối hợp với các tổ chức tôn giáo, mở rộng đối tượng bồi dưỡng là các chức sắc, chức việc, người có uy tín trong tín đồ tôn giáo… Từ năm 2019 đến nay, tỉnh đã cử đi bồi dưỡng và tổ chức bồi dưỡng, cập nhật kiến thức quốc phòng - an ninh được 25.015 lượt người (trong đó có 1.382 chức sắc, chức việc các tôn giáo). Qua đó, giúp họ nhận thức rõ hơn kiến thức cơ bản về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước; hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, để lồng ghép vào quá trình hành đạo, tuyên truyền, giáo dục cho tín đồ không bị các phần tử xấu kích động, lôi kéo, xúi giục chống phá Đảng và Nhà nước. Đồng thời, phối hợp, lồng ghép tuyên truyền về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, hoạt động quân sự, quốc phòng trong các đợt sinh hoạt chính trị, các chương trình, cuộc vận động của địa phương được hơn 4.500 cuộc với gần 245.000 lượt người dự nghe. Phát sóng 120 kỳ chuyên mục quốc phòng toàn dân trên sóng ATV (Đài Phát thanh-Truyền hình An Giang) và có trên 6.500 lượt tin, bài, phóng sự, hình ảnh về hoạt động quân sự, quốc phòng được đăng tải trên các kênh thông tin đại chúng. Qua đó, đã góp phần nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của mọi công dân trong việc xây dựng thế trận quốc phòng và an ninh vững mạnh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc.

Cùng với công tác tuyên truyền, Đảng ủy, Bộ CHQS tỉnh đã tích cực tham mưu và tham gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đội ngũ cán bộ Ban CHQS cấp xã có trên 80% đã qua đào tạo cao đẳng, đại học ngành quân sự cơ sở. Công tác lựa chọn, bồi dưỡng kết nạp Đảng trong lực lượng dân quân tự vệ được quan tâm thực hiện chặt chẽ, tỷ lệ đảng viên trong lực lượng DQTV ngày càng được nâng cao, có 156/156 chi bộ quân sự xã, phường, thị trấn có chi ủy…từ đó đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng với công tác quốc phòng, quân sự địa phương. Cán bộ thuộc LLVT tỉnh tham gia Hội đồng nhân dân các cấp đều phát huy tốt vai trò tham mưu cấp ủy, chính quyền địa phương về phát triển kinh tế, xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng an ninh ngay từ cơ sở.

Bên cạnh đó, Đảng ủy, Bộ CHQS tỉnh đã phối hợp tham mưu Tỉnh ủy, UBND thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, các chương trình, cuộc vận động lớn của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, nhất là vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo và khu vực biên giới. Công tác chính sách hậu phương quân đội, hoạt động đền ơn đáp nghĩa được thực hiện với nhiều hoạt động phong phú, thiết thực, mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Các cơ quan, đơn vị trong LLVT tỉnh đã triển khai thực hiện có hiệu quả phong trào “LLVT tỉnh chung sức xây dựng nông thôn mới”, “LLVT tỉnh chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau”. Nổi bật các mô hình như: “Tết quân - dân”, “Nghĩa tình đồng đội”, “Ấm tình hậu phương”, “Mẹ đỡ đầu” cho trẻ mồ côi do dịch bệnh Covid-19… Kết quả từ năm 2020 đến nay, Bộ CHQS tỉnh đã hỗ trợ cất mới trên 100 căn nhà “Đồng đội”, “Tình đồng đội”, nhà “Tình nghĩa”, nhà “Đại đoàn kết” với số tiền hơn 6 tỷ đồng. Cán bộ, chiến sĩ LLVT tỉnh đã đóng góp hàng nghìn ngày công lao động giúp dân khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn… Các hoạt động trên đã góp phần giúp các gia đình chính sách, gia đình quân nhân và Nhân dân có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn yên tâm phát triển kinh tế, đồng thời, góp phần lan tỏa hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng Nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc.

Trong những năm tới, hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn. Tuy nhiên, tình hình thế giới, khu vực dự báo tiếp tục có những diễn biến nhanh, khó đoán định; xung đột vũ trang, khủng bố, tranh chấp chủ quyền, tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn theo chiều hướng gia tăng. Tình hình biển Đông, vùng biển Tây Nam luôn tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể gây mất ổn định. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chống phá Đảng, Nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

TINH QUAN DAN - KIM LUAN.jpg

Thắm tình quân dân. Ảnh Kim Luận.

Để tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng “thế trận lòng dân” đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, LLVT tỉnh tập trung thực hiện một số giải pháp như sau:

Một là, tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp trong quán triệt, triển khai các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nghị quyết đại hội đảng các cấp, nhất là quan điểm “xây dựng và phát huy mạnh mẽ thế trận lòng dân” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân trên địa bàn đóng quân nắm chắc các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, “Thế trận lòng dân” trong tình hình hình mới.

Hai là, chăm lo xây dựng tổ chức đảng các cấp trong LLVT tỉnh trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”; gắn giáo dục chính trị, tư tưởng với công tác quản lý chấp hành pháp luật, kỷ luật. Đẩy mạnh phong trào thi đua Quyết thắng của đơn vị gắn với phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động của địa phương, phát huy hình ảnh và phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong giai đoạn mới.

Ba là, làm tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo, huy động các nguồn lực tại chỗ để củng cố, xây dựng tiềm lực kinh tế, quân sự, chính trị - tinh thần, xây dựng thế trận QPTD gắn với thế trận ANND ngày càng vững chắc.

Bốn là, chủ động tham mưu đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh. Nâng cao đời sống vật chất - tinh thần của Nhân dân. Thực hiện hiệu quả chương trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội trong từng bước phát triển của địa phương.

Năm là, tích cực tham gia giúp dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phát triển văn hóa - xã hội; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ, dịch bệnh, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn. Phối hợp với lực lượng công an, bộ đội biên phòng, chính quyền địa phương, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tội phạm, xây dựng địa bàn an toàn gắn với đơn vị an toàn. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ mối đoàn kết quân dân.

Đại tá THẠCH THANH TÚ

UVBTVTU, Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh

Tự hào truyền thống lịch sử, văn hóa, cách mạng của quê hương An GiangAn Giang 190 nămBài viếtTTCTTTTự hào truyền thống lịch sử, văn hóa, cách mạng của quê hương An Giang/SiteAssets/22-11-ag.jpg
22/11/2024 8:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- An Giang - vùng đất mới và còn rất trẻ so với các vùng khác của đất nước. Nếu tính từ khi vùng đất này thuộc quyền cai quản của nhà Nguyễn thì đến nay chưa đầy ba thế kỷ. Tỉnh An Giang chính thức được ghi vào hệ thống hành chính năm 1832 nằm trong lục tỉnh: Gia Định - Biên Hòa - Định Tường - Vĩnh Long - Hà Tiên và An Giang. Trải qua chặng đường lịch sử 192 năm hình thành và phát triển, An Giang không ngừng phát triển về mọi mặt, đóng góp xứng đáng vào trang sử hào hùng của dân tộc và những thành tựu phát triển chung của đất nước.

22-11-ag.jpg

Là nơi địa đầu biên giới Tây Nam, đón nhận dòng Mê Kông hùng vĩ chảy vào Việt Nam, An Giang đã chứng kiến nhiều biến động lịch sử quan trọng. Từng là trung tâm của nền văn hóa Óc Eo xưa, An Giang hiện nay là một trong bốn tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Trải qua lịch sử 192 năm hình thành và phát triển, vùng đất và con người An Giang đã không ngừng bồi đắp và làm phong phú thêm những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, miệt mài sáng tạo những thành quả mới để khẳng định vị thế trên bản đồ đất nước. Đó là một hành trình xây đắp và kiến tạo để từng bước hiện thực hóa mục tiêu trở thành tỉnh có quy mô nền kinh tế thuộc nhóm đầu của khu vực ĐBSCL và cao hơn mức trung bình của cả nước.

Lịch sử hình thành vùng đất An Giang ghi nhận một sự kiện quan trọng là năm Đinh Sửu (1757), quốc vương Chân Lạp là Nặc Tôn đã dâng đất Tầm Phong Long (vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, ngày nay có một phần thuộc An Giang) cho chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát để đền ơn cứu giúp trong lúc hoạn nạn và giúp giành lại vương triều. Chúa Nguyễn cử Nguyễn Cư Trinh tiếp nhận đất Tầm Phong Long, cho lệ vào dinh Long Hồ và đặt thành 3 đạo gồm: Xứ Sa Đéc đặt thành đạo Đông Khẩu, xứ Cù Lao Giêng đặt làm đạo Tân Châu, xứ Châu Đốc làm đạo Châu Đốc, rồi lấy binh dinh Long Hồ đến gìn giữ nơi địa đầu trọng yếu ấy. Từ thời điểm năm 1757, vùng đất sau cùng của Nam Bộ (một phần là An Giang ngày nay) đã trở thành một bộ phận không thể chia cắt được của nước Việt Nam về mặt pháp lý.


Với ý nghĩa là vùng đất có những dòng sông hiền hòa và an bình, tên gọi An Giang ra đời vào năm 1832, khi vua Minh Mệnh (1791 - 1841) quyết định đổi Ngũ trấn thành Lục tỉnh ở Nam Kỳ. Sách “Đại Nam thực lục chính biên” ghi nhận 192 năm trước, vào ngày mùng 01 tháng 10 năm Nhâm Thìn (1832), năm Minh Mệnh thứ 13, trong buổi thiết triều, sau khi nghe Bộ Lại trình tấu, vua Minh Mệnh đã chỉ dụ bãi bỏ Gia Định Thành, đổi “ngũ trấn” thành “lục tỉnh”, quyết định thành lập 12 tỉnh từ Quảng Nam đến Hà Tiên cùng thời điểm, trong đó có tỉnh An Giang. Đối chiếu với lịch vạn niên, ngày mùng 01/10/1832 nhằm ngày 22/11/1832 (dương lịch).

Suốt chiều dài lịch sử khai phá vùng đất An Giang đến nay là vùng đất biên thùy trọng yếu ở phía Tây Nam của Tổ quốc. Quá trình khẩn hoang, khai phá vùng đất An Giang luôn gắn liền các cuộc chiến tranh chống các kẻ thù xâm lược. Con người An Giang có truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất chống ngoại xâm. Trong suốt chiều dài lịch sử từ khi có Đảng, Nhân dân An Giang luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin theo con đường cách mạng. An Giang tự hào là một trong số tỉnh ở Nam Bộ sớm có các tổ chức tiền thân của Đảng và các cơ sở đảng. Cuối năm 1927, Chi bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu tiên của tỉnh Long Xuyên ra đời tại huyện Chợ Mới. Tháng 2/1928, Tỉnh bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên tỉnh Long Xuyên được thành lập. Tháng 4/1930, Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở An Giang được thành lập tại xã Long Điền, huyện Chợ Mới đã tổ chức treo lá cờ Đảng Cộng sản đầu tiên trên Cột dây thép ở ấp Long Thuận, xã Long Điền. Kể từ đó, nhiều cơ sở đảng trong tỉnh ra đời và ngày càng lớn mạnh, đã lãnh đạo Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang viết nên những trang sử hào hùng, vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cứu nước, bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam của Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế giúp nước bạn Campuchia và đạt những thành tựu to lớn, đáng tự hào trong gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.

An Giang có những đặc trưng riêng biệt, vừa có đồng bằng, rừng núi, tài nguyên khoáng sản, những di tích lịch sử lâu đời mang dấu ấn của một nền văn hóa lúa nước cổ xưa. An Giang còn là nơi có nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, sông nước mênh mông, ruộng đồng bát ngát, núi non kỳ vĩ, rừng tràm xanh ngắt một màu và từ lâu đã là một xứ sở trù phú về nông nghiệp và thủy sản... Bức tranh sơn thủy ấy tạo nên cảnh thiên nhiên kỳ vỹ, hội tụ trong không gian văn hóa độc đáo. Thiên nhiên và con người ở An Giang không chỉ mang những nét đặc trưng của miền Tây Nam Bộ mà còn có những vẻ đẹp riêng biệt của mình. Tất cả đã hội tụ ở đất An Giang, tạo nên một mảnh đất bình dị, đơn sơ và mộc mạc không lẫn với bất kỳ nơi đâu.

Là tỉnh đa dân tộc, đa tôn giáo, nơi khởi nguồn của Phật giáo Hòa Hảo, Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Các dân tộc Kinh, Hoa, Chăm, Khmer... cùng chung sống hòa thuận lâu đời, từ đó hình thành những giá trị văn hóa phong phú, với nhiều lễ hội dân gian, các làng nghề truyền thống và các công trình kiến trúc độc đáo. Tính đa dạng về văn hóa là một trong những thế mạnh của hệ giá trị sinh thái nhân văn, tạo nên nét đẹp rất riêng của nền văn hóa tâm linh địa phương và của từng dân tộc tại An Giang.

22-11-ag1.jpg

An Giang tự hào là địa phương có bề dày lịch sử, giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, là vùng đất địa linh, nhân kiệt, quê hương của Chủ tịch Tôn Đức Thắng - Người Cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo mẫu mực, người bạn chiến đấu thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người chiến sĩ trung thành của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, xuyên suốt chặng đường 192 năm hình thành và phát triển, người dân An Giang luôn anh dũng, kiên cường trong kháng chiến; cần cù, sáng tạo trong lao động; đoàn kết, nhân ái, giản dị, thuỷ chung trong cuộc sống. Tính chất phát, cần cù, chịu khó và luôn sống có nghĩa, có tình đã tạo nên một đặc trưng rất riêng của con người An Giang.

Nhìn lại chặng đường lịch sử 192 năm qua, trong sâu thẳm mỗi người dân An Giang luôn tự hào và mãi mãi ghi ơn những thế hệ tiền nhân khai khẩn, bảo vệ, xây dựng và phát triển vùng đất An Giang tươi đẹp như ngày nay. Những thành tựu tỉnh An Giang đạt được trong thời gian qua là kết tinh của truyền thống yêu nước, đoàn kết, cần cù, sáng tạo và quyết tâm của cả hệ thống chính trị và sự đoàn kết, nỗ lực to lớn của các tầng lớp nhân dân.

Thời gian tới, Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân An Giang sẽ tiếp tục phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường, đoàn kết, đổi mới, năng động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, quyết tâm xây dựng quê hương Chủ tịch Tôn Đức Thắng ngày càng văn minh, giàu đẹp; xứng tầm với công sức khai mở, vun bồi của những bậc tiền nhân.

BBT

Nơi hồn quê hội tụAn Giang 190 nămBài viếtTrần SangNơi hồn quê hội tụ/SiteAssets/Lists/thoisu01/EditForm/Ag-192nam-1b.jpg
22/11/2024 5:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Hàng năm, ngày truyền thống tỉnh An Giang không chỉ là dịp để mọi người ôn lại những trang lịch sử hào hùng, mà còn là dịp để cùng nhau tôn vinh những giá trị văn hóa, tinh thần của vùng đất biên giới Tây Nam này. Được thiên nhiên ưu đãi với sông Hậu hiền hòa, núi Cấm hùng vĩ và những cánh đồng lúa bát ngát, An Giang không chỉ là quê hương của những sản vật đặc trưng mà còn là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa độc đáo và tình người đậm đà, hiếu khách.

 

Từ khi hình thành cho đến ngày hôm nay, An Giang luôn là vùng đất giàu truyền thống cách mạng. Tinh thần yêu nước và sự kiên trung của người dân An Giang được khắc ghi qua những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và trong sự nghiệp xây dựng quê hương. Nhắc đến An Giang, người ta không thể quên hình ảnh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, người con ưu tú của quê hương, biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết.

Cùng với đó, những địa danh như kênh Vĩnh Tế, Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam, Đồi Tức Dụp, Khu di chỉ văn hóa Óc Eo - Ba Thê,… đã trở thành dấu ấn văn hóa và lịch sử, gắn liền với tinh thần lao động sáng tạo, đoàn kết vượt khó của bao thế hệ.

An Giang còn được biết đến với sự giao thoa văn hóa đa dạng giữa các dân tộc Kinh, Khmer, Chăm và Hoa. Những lễ hội như lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam, Tết Chol Chnam Thmay của người Khmer hay lễ Ramadan của người Chăm không chỉ thể hiện nét đẹp tín ngưỡng mà còn gắn kết cộng đồng, tạo nên một bức tranh văn hóa đa sắc màu. Ẩm thực An Giang cũng mang dấu ấn đậm nét với những món ăn truyền thống nổi tiếng như bún cá Châu Đốc, cơm tấm Long Xuyên, bánh cánh Vĩnh Trung, bánh bò thốt nốt… Tất cả đều phản ánh sự khéo léo và tâm hồn phóng khoáng của con người nơi đây.

Ngày nay, An Giang đang chuyển mình mạnh mẽ trên con đường phát triển kinh tế và bảo tồn văn hóa. Với sự nỗ lực không ngừng, tỉnh đã và đang xây dựng những mô hình nông nghiệp bền vững, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu.

Trong bối cảnh hội nhập và phát triển, An Giang không chỉ chú trọng vào phát triển kinh tế mà còn tập trung giữ gìn bản sắc văn hóa. Các công trình văn hóa, lễ hội truyền thống được bảo tồn và tổ chức quy mô hơn, trở thành điểm tựa tinh thần cho người dân và là cầu nối để quảng bá hình ảnh tỉnh nhà ra khắp cả nước và quốc tế.

Lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam - một trong những lễ hội lớn nhất miền Tây Nam Bộ, không chỉ thu hút hàng triệu du khách mà còn là biểu tượng cho sự linh thiêng, và lòng tri ân của người dân. Bên cạnh đó, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật tại các vùng như Châu Đốc, Tân Châu, hay Long Xuyên ngày càng phong phú, gắn kết giá trị truyền thống với hơi thở hiện đại, tạo ra sự hòa quyện độc đáo.

Nông nghiệp vẫn là trụ cột của kinh tế An Giang, nhưng với những thách thức từ biến đổi khí hậu, tỉnh đã có những bước đi táo bạo để chuyển đổi sang các mô hình nông nghiệp thông minh. Sự hồi sinh của lúa nổi - giống lúa từng bị lãng quên - là minh chứng rõ ràng nhất. Không chỉ mang lại giá trị kinh tế, lúa nổi còn phản ánh sự thích nghi bền bỉ của người dân An Giang với môi trường tự nhiên. Những dự án bảo tồn lúa nổi - không chỉ cho thấy sự trân trọng đối với truyền thống mà còn phản ánh tầm nhìn chiến lược của tỉnh trong việc đối mặt với những thách thức của tương lai.

Bên cạnh đó, sự hợp tác quốc tế trong nghiên cứu và phát triển giống cây trồng, ứng dụng công nghệ vào sản xuất đã giúp nâng cao chất lượng nông sản, đặc biệt là gạo An Giang, vốn đã nổi tiếng trên thị trường quốc tế.

Điều làm nên sức mạnh và sự đặc biệt của An Giang không chỉ nằm ở tài nguyên thiên nhiên hay các công trình văn hóa, mà chính là con người. Người dân An Giang luôn nổi tiếng bởi sự cần cù, chân thành, và lòng hiếu khách. Dù là người nông dân trên cánh đồng, các nhà khoa học trong phòng thí nghiệm, hay những doanh nhân đang xây dựng thương hiệu, tất cả đều mang trong mình tình yêu quê hương mãnh liệt.

Kỷ niệm ngày truyền thống tỉnh An Giang là dịp để mọi người cùng hướng về cội nguồn, để nhớ ơn những bậc tiền nhân đã dày công xây dựng và bảo vệ quê hương. Đồng thời, đây cũng là lời nhắc nhở thế hệ trẻ về trách nhiệm tiếp nối truyền thống, phát huy những giá trị tốt đẹp để đưa An Giang ngày càng phát triển, xứng đáng là vùng đất nghĩa tình, đậm đà bản sắc. Kỷ niệm ngày truyền thống tỉnh An Giang là cơ hội để nhìn lại chặng đường đã qua, từ những ngày khai hoang, lập làng cho đến một An Giang vững mạnh hôm nay. Nhưng hơn hết, đây là thời điểm để cùng nhau đặt ra những mục tiêu mới, những kế hoạch lớn để tiếp tục phát triển quê hương.

Từ những người con đi xa, An Giang luôn là nơi gửi gắm niềm thương nhớ. Từ những người đang sống và làm việc trên mảnh đất này, An Giang là nguồn động lực để phấn đấu không ngừng. Cùng với nhau, chúng ta tin rằng An Giang sẽ mãi mãi là niềm tự hào, là quê hương của những giấc mơ và những kỳ tích mới.

Ngày truyền thống tỉnh An Giang không chỉ là một dấu ấn lịch sử, mà còn là nguồn cảm hứng để mỗi người con quê hương gìn giữ và phát huy giá trị cội nguồn. Đó là dịp để nhìn lại chặng đường đã qua, để tự hào về những thành tựu đạt được và cùng hướng về tương lai với khát vọng dựng xây một An Giang ngày càng phát triển, đậm đà bản sắc.

Dẫu thời gian có trôi, lòng yêu quê hương, tinh thần đoàn kết và sự sáng tạo bền bỉ sẽ luôn là ngọn lửa soi đường cho mọi thế hệ. An Giang mãi mãi là biểu tượng của sự kiên cường, nghĩa tình và niềm tin yêu cuộc sống - một vùng đất không chỉ đẹp bởi cảnh sắc mà còn giàu giá trị bởi những con người mang trong mình hồn quê sâu đậm.

Hãy để tình yêu An Giang tiếp tục lan tỏa, để ngày truyền thống không chỉ là một sự kiện, mà còn là động lực để mỗi người góp phần xây dựng quê hương vững mạnh, giữ trọn niềm tự hào và gắn bó muôn đời với mảnh đất thiêng liêng này.

An Giang - quê hương trong tim, mãi sáng ngời giữa dòng chảy thời gian!

TRẦN SANG

Đẩy mạnh tuyên truyền kỷ niệm 192 năm Ngày Truyền thống tỉnh An Giang (1832 - 2024)An Giang 190 nămTinNguyễn NhậmĐẩy mạnh tuyên truyền kỷ niệm 192 năm Ngày Truyền thống tỉnh An Giang (1832 - 2024)/SiteAssets/Lists/thoisu01/EditForm/Ag-192nam-1b.jpg
16/11/2024 10:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Ngày 22/11 hằng năm được Thủ tướng Chính phủ quyết định là ngày truyền thống tỉnh An Giang (tại Quyết định  số 1447//QĐ-TTg, ngày 22/11/2022).

 Ag-192nam-1.jpg

Nhân dịp kỷ niệm 192 năm Ngày Truyền thống tỉnh An Giang (1832 – 2024). Được sự thống nhất của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân dân tỉnh, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh. Ủy ban nhân dân tỉnh An giang yêu cầu các Sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh và Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố đẩy mạnh tuyên truyền về truyền thống lịch sử, văn hóa con người An Giang; những đóng góp của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân của tỉnh trong sự nghiệp đổi mới xây dựng, bảo vệ tổ quốc… để kỷ niệm 192 năm Ngày thành lập tỉnh An Giang (22/11/1832 – 22/11/2024).

Theo đó, nhằm triển khai thực hiện công tác chuẩn bị, tổ chức các hoạt động tuyên truyền kỷ niệm 192 năm Ngày Truyền thống tỉnh An Giang (1832 - 2024); Tuyên truyền sâu rộng truyền thống lịch sử, văn hóa, khơi dậy niềm tự hào, tình yêu quê hương An Giang; cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang, các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tích cực thi đua lao động sản xuất, công tác và học tập, góp phần xây dựng quê hương An Giang ngày càng giàu đẹp, văn minh. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề nghị các phòng, đơn vị thuộc Sở; hệ thống Phòng Văn hóa - Thông tin; Trung tâm Văn hóa - Thể thao; Trung tâm Văn hóa, Thể thao và Truyền thanh; Trung tâm Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Trung tâm Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Truyền thanh các huyện, thị xã, thành phố thực hiện công tác tuyên truyền chào mừng kỷ niệm 192 năm Ngày Truyền thống tỉnh An Giang (1832 - 2024) phù hợp với tính chất, quy mô tổ chức, tầm mức sự kiện và phù hợp với tình hình, đặc điểm địa phương, đơn vị.

 Ag-192nam-2.jpg

 Ag-192nam-3.jpg

Nội dung tuyên truyền tôn vinh những giá trị lịch sử truyền thống hào hùng của dân tộc; khẳng định chủ quyền quốc gia, vai trò và những đóng góp to lớn của vùng đất Nam bộ và con người An Giang trong tiến trình lịch sử; Khơi dậy khát vọng vươn lên mạnh mẽ của cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong tỉnh, tiếp tục phấn đấu không ngừng, quyết tâm vượt qua khó khăn, xây dựng và phát triển An Giang – quê hương Chủ tịch Tôn Đức Thắng ngày càng văn minh, giàu đẹp; quảng bá, giới thiệu tiềm năng, lợi thế và hình ảnh vùng đất, con người An Giang đến với bạn bè trong nước và ngoài nước; Cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tích cực thi đua lao động sản xuất, công tác học tập, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI đã đề ra.

Với đa dạng các hình thức tuyên truyền như: Tổ chức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng (các trang thông tin, cổng thông tin điện tử, các trang mạng xã hội Facebook, Zalo, Youtube…); tuyên truyền miệng thông qua đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên. Đưa nội dung kỷ niệm 192 năm Ngày Truyền thống tỉnh An Giang (1832 - 2024) vào sinh hoạt của các tổ chức đoàn thể nhân dân, trong đó quan tâm tuyên truyền đến các đối tượng là thanh niên, học sinh, sinh viên.

Tuyên truyền thông qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, trò chơi dân gian, trưng bày giới thiệu sách và du lịch. Thực hiện tuyên truyền cổ động trực quan (cụm thông tin, cổ động, panô, áp phích, khẩu hiệu ở các khu trung tâm, cơ quan, công sở và nơi tập trung đông người); triển lãm; chiếu phim; Tăng cường công tác nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội; kịp thời định hướng đấu tranh phản bác những hành vi tuyên truyền xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch.

Nguyễn Nhậm

Nguồn: Thông báo số 1154/TB-UBND ngày 11/11/2024. Công văn 2943 /SVHTTDL-QLVH ngày 12/11/2024.


Kênh Vĩnh Tế - công trình chiến lược miền biên viễnAn Giang 190 nămBài viếtHoàng KỳKênh Vĩnh Tế - công trình chiến lược miền biên viễn/SiteAssets/Kenh-VT-bt-1.jpg

​HOÀNG KỲ (*)

13/11/2024 11:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Vào thời điểm này 200 năm trước, chiếu dụ của vua Gia Long về việc hoàn thành kênh đào Vĩnh Tế. Đây là công trình quy mô nhất thời bấy giờ, kênh có chiều dài 91 km, rộng 30 m, sâu 2,55 m, được thi công bằng sức người, trong thời gian 5 năm. Công trình là một minh chứng hùng hồn cho sự sáng tạo, tài tình của người Việt chinh phục thiên nhiên, thể hiện tầm nhìn chiến lược của triều Nguyễn, khẳng định chủ quyền lãnh thổ, khai khẩn vùng đất phương Nam, phát triển kinh tế, bang giao và củng cố sức mạnh quốc phòng miền biên viễn.  

Theo dòng lịch sử

Vĩnh Tế Hà là dấu ấn lịch sử quan trọng khẳng định chủ quyền biên giới đất liền của vùng Châu Đốc - Hà Tiên nửa đầu thế kỷ XIX. Công trình này là biểu tượng cho tầm nhìn chiến lược của triều Nguyễn nhằm bảo vệ cương thổ quốc gia, đánh dấu một mốc son lịch sử trong tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Với tầm nhìn chiến lược, vua Gia Long đặc biệt quan tâm đến vùng Châu Đốc Tân Cương, phên dậu ở Tây Nam đất nước. Ông muốn xây dựng Châu Đốc thành trọng trấn, kết hợp với Hà Tiên, một trung tâm thương mại, cảng thị quốc tế. Ông quan sát bản đồ và nhận thấy cần phải mở đường sông từ Châu Đốc tới Hà Tiên. Đường sông này nhằm tạo sự tương trợ cần thiết giữa quân bộ và quân thủy trong việc giữ gìn biên cương trước sự tấn công từ bên ngoài, thuận lợi trong giao thông, vận chuyển hàng hóa và cung cấp nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp.

Năm 1816, sau khi xem xét địa đồ miền Châu Đốc, Đức vua truyền dụ với các quan rằng: "Đất này mở đường sông để đi thẳng tới Hà Tiên, làm ruộng đi buôn đều được lợi cả. Sau này dân ở đông đúc, đất mở rộng rãi, có thể thành một trấn to lớn"[1]. Tuy nhiên, sau khi suy xét kỹ các yếu tố bên trong, bên ngoài, vua cho chậm việc đào kênh, chờ thời cơ thích hợp.

Sau đó, khi kênh Thoại Hà nối liền từ Long Xuyên đến Rạch Giá được đào xong, vua Gia Long hạ quyết tâm cho việc đào kênh thông từ Châu Đốc đến Hà Tiên như đã dự liệu trước đây. Tháng 9 năm Kỷ Mão (1819), sau khi xem xét tình hình và thể theo nguyện vọng của nước láng giềng Chân Lạp, vua Gia Long ban sắc dụ giao quan Trấn Thủ Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Thoại chỉ huy đào kênh, thông từ Châu Đốc đến Giang Thành - Hà Tiên để tháo lũ rửa phèn cho vùng "Châu Đốc tân cương" đồng thời tạo nên một con đường thủy trọng yếu có tính chiến lược trong việc trấn giữ miền biên viễn. Cùng với Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại, việc tổ chức đào kênh Vĩnh Tế còn có sự tham gia của Chưởng cơ Nguyễn Văn Tuyên và Điền bát Nguyễn Văn Tồn.

Kenh-VT-bt-2.jpg

Tượng danh thần Thoại Ngọc Hầu tại lăng Thoại Ngọc Hầu

Trước khi chiếu lệnh cho Tổng trấn thành Gia Định và Trấn thủ Vĩnh Thanh là Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại chuẩn bị khởi công, vua Gia Long ban chiếu dụ dân Vĩnh Thanh như sau: "Đào con sông này công việc rất khó nhọc. Kế sách của Nhà nước, mưu hoạch về biên thùy, đều quan hệ không nhỏ. Các ngươi dẫu ngày nay khó nhọc, mà thực có lợi cho muôn đời. Vậy nên bảo nhau, đừng sợ khó nhọc"[2].

Theo sử liệu triều Nguyễn, công trình đào kênh Vĩnh Tế kéo dài suốt 5 năm (1819- 1824) với ba đợt. Ngay đợt đầu, đã huy động trên 10.000 nhân lực. Kênh đi qua nhiều đoạn đất cứng rất khó đào, lại gặp phải thời tiết thất thường của sơn lam chướng khí, việc huy động nhân lực gặp nhiều khó khăn, nạn thú dữ… làm cho công việc có lúc phải gián đoạn hoặc chậm tiến độ. Vì vậy, Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại phải tìm nhiều cách để khắc phục khó khăn, trở ngại.

Hiểu được khó khăn của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại, trước khi cho tiến hành kế hoạch đào kênh đợt hai, tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1822), vua Minh Mạng chỉ dụ: "Đường sông Vĩnh Tế liền với một lộ tân cương, xe thuyền được lợi rất nhiều. Hoàng khảo Thế tổ Cao Hoàng Đế ta mưu sâu, tính kỹ, để ý đến việc biên cương, buổi đầu đã một lần đào, công việc chưa xong. Trẫm noi theo chí trước, dốc lo làm sao một lần khó nhọc để thong thả lâu dài…"[3].

Kenh-VT-bt-3.jpg

Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang và lãnh đạo tỉnh dâng hương tại lăng Thoại Ngọc Hầu

Sau đó, vua Minh Mạng ra lệnh cho Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt huy động thêm nhiều dân binh ở các đồn Uy Viễn, Vĩnh Thanh, Định Tường hơn 45.000 người, chia làm 3 phiên, đào đắp bằng tay với dụng cụ thô sơ hàng triệu mét khối đất đá và có khi phải thay nhau thi công suốt ngày đêm. Nhưng hết mùa Xuân sang mùa hè thì việc đào kênh tiếp tục tạm hoãn vì hạn hán. Với lượng nhân công được huy động lớn như thế, qua 3 tháng thi công, con kênh đào được khoảng 70 km. Công việc chỉ huy dân binh đào kênh Vĩnh Tế giai đoạn 2 kết thúc.

Đợt cuối được tiến hành vào tháng 2 năm Giáp Thân (1824), với chiều dài khoảng 1.700 trượng, từ cuối rạch Giang Thành trở vào tới nơi đã đào xong. Việc đào kênh được tiến hành tích cực với sự hỗ trợ của Phó Tổng trấn Trần Văn Năng và binh dân lên đến 25.000 người, đào cả ngày lẫn đêm, đến ngày mùng một tháng 5 thì hoàn thành.

Việc đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên là một thành quả rất to lớn với số nhân công lên đến trên 80.000 người, thời gian đào kênh suốt 5 năm, từ tháng Chạp năm Kỷ Mão (1819) đến tháng 5 năm Giáp Thân (1824) mới hoàn thành.

Quá trình đào kênh Vĩnh Tế rất khổ cực và nguy hiểm, nhất là những đoạn băng qua "rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí" cùng với thú dữ tấn công, nhiều dân phu gặp nạn.v.v.. Tuy nhiên, công tác hậu cần được bà Châu Thị Tế (phu nhân Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại) hết lòng giúp đỡ, thông qua huy động thân nhân của những người trực tiếp đào kênh chăm lo cho người thân của mình. Bà tích cực đứng ra tập hợp thân nhân của những người đang trực tiếp đào kênh cùng nhau chăm lo việc ăn uống, thuốc men, chữa trị cho người thân của họ những lúc bệnh tật, bị tai nạn trong lúc đào kênh hay bị thú dữ tấn công. Dưới sự chăm sóc tận tình, chu đáo của bà đã góp phần động viên tinh thần, thúc đẩy việc đào kênh diễn ra nhanh chóng hơn.

Khi tin vui hoàn thành kênh đào về đến Huế, vua Minh Mạng rất đổi mãn nguyện vì nối được chí Tiên Hoàng (vua Gia Long), liền ban sắc khen thưởng. Nhà vua chiếu lệnh cho quan địa phương tiến hành làm bia dựng ở bờ sông để đánh dấu công lao của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại. Vua Minh Mạng quan sát thấy bên kia bờ kênh mới đào có núi Sam, có phần giống với núi Sập bên bờ kênh Thoại Hà trước kia nên Ngài ban đặt tên kênh Châu Đốc - Hà Tiên là "Vĩnh Tế Hà", tên núi Sam gần bờ kênh là "Vĩnh Tế Sơn", làng cạnh núi là "Vĩnh Tế Thôn".

Kênh Vĩnh Tế hoàn thành có ý nghĩa to lớn tầm quốc gia và quốc tế. Vừa phát triển kinh tế, giao thông, củng cố, giữ vững an ninh biên giới, vừa tạo điều kiện cho dân phiêu tán định cư, khẩn hoang lập làng. Danh thần Thoại Ngọc Hầu chiêu mộ lưu dân đến khẩn hoang lập ấp hai bên bờ kênh Vĩnh Tế. Bên cạnh đó, theo kênh Vĩnh Tế, người Hoa từ Hà Tiên về An Giang ngày càng nhiều, khai mở đất giồng trồng hoa màu, cây ăn trái ở vùng Khánh Hòa, Mỹ Ðức, Long Sơn… Từ đây, một vùng kinh tế - xã hội mới đã mở ra, đúng ý định chiến lược của vua Gia Long và vua Minh Mạng. Năm 1830, Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt báo về triều đình rằng đồn Châu Đốc đã lập được 41 xã, thôn, phường, với dân số dân hơn 800 người. Đến năm 1832, dân số đã tăng lên 1.100 người, ruộng đất được 9 thửa và lập thêm được 15 thôn phố mới với hơn 300 người. Đây cũng là thời kỳ mà các làng dọc kênh Vĩnh Tế nói riêng và vùng đất An Giang nói chung đi vào ổn định và ngày càng phát triển.

Để thực hiện chính sách Trung ương tập quyền, xóa bỏ các quyền lực các Tổng trấn Bắc Thành và Tổng trấn Gia Định thành, từ năm 1831 vua Minh Mạng cho tiến hành thành lập các tỉnh phía Bắc từ Lạng Sơn đến Quảng Trị xóa bỏ chức Tổng trấn Bắc thành. Ở Nam Bộ, sau khi Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt qua đời, vua Minh Mạng quyết định xóa Gia Định thành và 5 trấn, cho chủ trương thành lập 12 tỉnh từ Quảng Nam vào Nam Bộ, trong đó có tỉnh An Giang.

Theo sách Đại Nam thực lục chính biên ghi nhận 192 năm trước, vào ngày mùng 1 tháng 10 năm Nhâm Thìn (1832), năm Minh Mạng năm thứ 13, trong buổi thiết triều, sau khi nghe Bộ Lại trình tấu, vua Minh Mạng đã chỉ dụ bãi bỏ Gia Định Thành, lập 12 tỉnh từ Quảng Nam đến Hà Tiên, trong đó đổi "ngũ trấn" thành "lục tỉnh" gồm Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên". Tỉnh An Giang lúc bấy giờ bao gồm 2 phủ, 4 huyện. Lỵ sở của tỉnh đặt tại Châu Đốc, nơi Tổng đốc An Hà trú đóng cai quản hai tỉnh An Giang, Hà Tiên.

Kenh-VT-bt-4.jpg

Tầm nhìn chiến lược của tiền nhân

Vua Gia Long - Quân chủ đầu tiên khẳng định "địa thế Châu Đốc, Hà Tiên không kém Bắc thành". Vì vậy, khi toan tính những vấn đề quốc gia trên vùng biên cương phía Tây Nam, Đức vua đã nhìn tổng thể chính trị, an ninh quốc phòng, cũng như việc phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, kênh Vĩnh Tế đóng vai trò như một công trình xác lập chủ quyền của người Việt trên vùng đất Nam Bộ, giúp phòng giữ bờ cõi biên cương, phát triển kinh tế và ích lợi cho muôn đời sau.

Nhìn tổng thể, kênh Vĩnh Tế như một chiến hào nhân tạo, dài và rộng, đủ độ sâu cần thiết ngăn chặn âm mưu và hành động xâm lấn của đối phương. Chẳng những khẳng định chủ quyền lãnh thổ mà dòng kênh còn là một thực thể hiển nhiên bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống yên bình của Nhân dân. Việc thiết kế và thi công tuyến kênh gần dọc biên giới cho thấy tầm nhìn vượt thời đại của vua quan nhà Nguyễn lúc bấy giờ, để lại cho chúng ta hôm nay một chiến lũy hiên ngang mà thơ mộng giữa vùng trời đất nơi biên cương.

Kênh Vĩnh Tế được xem "mũi kim" khai thông "nguyệt đạo" làm cho mạch máu giao thông từ Châu Đốc đến Hà Tiên được vận hành trơn tru để kết nối vùng biên giới Tây Nam thành một dải, thiết lập thế trận phòng thủ biên cương, khẳng định chủ quyền đất nước và thúc đẩy mạnh mẽ quá trình khai hoang, lập ấp. Từ đây, dòng kênh này tạo nên đường sông thông thương, việc biên phòng và việc buôn bán  mở mang, thuận lợi. 

Kênh Vĩnh Tế còn góp phần tháo chua rửa phèn, đất dần ngọt hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp, nhất là trống lúa và thu hút dân chúng đến sinh cơ lập nghiệp, xây dựng thôn ấp, đem lại sự trù phú cho một vùng đất xa xôi, hoang hóa nhưng lại đầy tiềm năng. Ngoài ra, kênh còn góp phần giải quyết vấn đề thoát úng, rửa phèn, cung cấp phù sa cho đồng ruộng, vừa là trục tưới tiêu để phát triển kinh tế nông nghiệp.

Ngoài ra, kênh Vĩnh Tế là minh chứng cho thành tích lớn lao trong sự nghiệp của Danh thần Thoại Ngọc Hầu và phu nhân Châu Thị Tế, đồng thời cũng là tinh hoa trí tuệ của các bậc tiền nhân trong "kinh ban tế thế". Trong dòng chảy lịch sử suốt 200 năm qua, kênh Vĩnh Tế luôn là một biểu tượng hào hùng về một thời mở đất, lập làng gắn liền với bao công lao, xương máu của tiền nhân trong sự nghiệp giữ đất, bảo vệ chủ quyền miền biên viễn Tây Nam Tổ quốc. Kênh Vĩnh Tế hoàn thành đã đáp ứng yêu cầu xác định chủ quyền lãnh thổ, góp phần giữ vững an ninh biên giới Tây Nam Bộ; tạo thành hành lang chiến lược đảm bảo sự thống nhất không gian chiến lược từ Châu Đốc đến Hà Tiên, làm chỗ dựa cho quan binh nhà Nguyễn trấn giữ biên cương chống lại các cuộc xâm lấn của quân Xiêm, Chân Lạp.

Luu-huong-thoi-TNH.jpg

Trong kháng chiến chống Pháp, kênh Vĩnh Tế có vai trò cầu nối giữa chiến trường Đông Nam Campuchia với chiến trường Miền Tây Nam Bộ, phá vỡ chiến lược phong tỏa biên giới của địch. Trong thời kỳ ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, kênh Vĩnh Tế là đầu cầu chiến lược cho sự chi viện nhân lực, vật lực của Trung ương về khu Tây Nam Bộ. Trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, làng mạc cặp theo kênh Vĩnh Tế dù bị tàn phá nặng nề nhưng quân dân Việt Nam vẫn cố bám giữ đất, dựng phòng tuyến phản công địch, giành chiến thắng. Hiện nay, giá trị bảo vệ an ninh, quốc phòng của kênh Vĩnh Tế vẫn luôn được phát huy làm chỗ dựa cho sự phát triển kinh tế biên mậu, góp phần xây dựng khu vực phòng thủ tuyến biên giới Tây Nam hòa bình, hữu nghị.

Suốt 200 năm qua, kênh Vĩnh Tế vẫn luôn được xem là quốc sách chiến lược  trấn thủ biên cương, khẳng định chủ quyền bờ cõi và là biểu tượng sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Kênh Vĩnh Tế đã minh chứng cho nhiều chiến tích của tiền nhân, nuôi dưỡng biết bao đời cư dân vùng biên viễn và khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia, dân tộc Việt Nam. Đây mãi là món quà vô giá mà tiền nhân để lại cho các thế hệ hôm nay và mai sau.

Hướng tới tương lai

Kênh Vĩnh Tế là một công trình lịch sử vĩ đại ở Đồng bằng sông Cửu Long đầu thế kỷ XIX, là niềm tự hào của triều Nguyễn, được ghi tên vào Cao Đỉnh ở Huế. Trải qua hai thế kỷ, kênh Vĩnh Tế luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng trên nhiều phương diện. Trước hết, đó là tuyến giao thông huyết mạch, kết nối các vùng, tạo điều kiện thuận lợi cho vận chuyển hàng hóa; đem lại nhiều nguồn lợi cho cư dân vùng; cung cấp nước ngọt phù sa vun đắp cho ruộng đồng An Giang, cả vùng tứ giác Long Xuyên và toàn bộ diện tích tiếp giáp Campuchia. Đặc biệt, kênh Vĩnh Tế còn đóng vai trò như một tuyến phòng thủ tự nhiên vững chắc để bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc.

Kenh-VT-bt-1.jpg

Kênh Vĩnh Tế ngày nay

Ngày nay, bên cạnh vai trò quan trọng trong việc tưới tiêu, cung cấp nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp, kênh Vĩnh Tế còn là tuyến giao thông thủy huyết mạch, kết nối các vùng, tạo điều kiện thuận lợi cho vận chuyển hàng hóa và giao lưu văn hóa.

Quyết định số 1369/QĐ-TTg, ngày 15/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã xác định kênh Vĩnh Tế nằm trên hành lang biên giới từ tỉnh Long An đến tỉnh Kiên Giang, chủ trương phát triển kinh tế cửa khẩu gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Kênh này tạo nên hành lang kinh tế nối liền các cửa khẩu quốc tế như Tịnh Biên, Vĩnh Xương (An Giang) với cảng biển Hà Tiên (Kiên Giang). Qua đó, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển thương mại biên giới, tạo điều kiện cho việc xuất nhập khẩu hàng hóa, nông sản một cách nhanh chóng và tiết kiệm.

Kênh Vĩnh Tế là sản phẩm của tiền nhân để lại, chứa đựng tiềm năng phát triển rất lớn. Tuy nhiên, để khai thác hiệu quả tiềm năng này, chúng ta cần thực hiện đồng bộ các giải pháp mang tính cấp bách như: Đầu tư nâng cấp hệ thống thủy lợi trên trục chính là kênh Vĩnh Tế để tạo thuận lợi cho thương mại, tạo ra sự phồn thịnh cho khu vực; xây dựng thêm những hồ lớn để dự trữ nước ngọt cho toàn vùng nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước cho các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long; mở rộng hệ thống giao thông đường bộ gắn với đường thủy ở hai bên bờ kênh; nâng cấp và mở rộng các cửa khẩu, tăng cường kết nối giao thông, thương mại xuyên biên giới; đẩy mạnh liên kết vùng; phát triển du lịch sinh thái thủy - bộ miền sông nước gắn với các di tích lịch sử, văn hóa, thắng cảnh nổi tiếng; phát triển nông nghiệp công nghệ cao; bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên nước hiệu quả; xây dựng các cụm dân cư vùng biên kết hợp với củng cố khu vực phòng thủ vững chắc để bảo vệ biên giới "từ sớm, từ xa",v.v..

Kỷ niệm 200 năm hoàn thành việc đào kênh Vĩnh Tế, 198 năm ngày mất bà Châu Thị Tế và 192 năm Ngày truyền thống thành lập tỉnh An Giang (22/11/1832 -22/11/2024) là dịp để chúng ta tìm hiểu, ôn lại và tri ân công lao, những đóng góp to lớn của các bậc tiền nhân đối với đất nước nói chung, với vùng đất Nam Bộ, đặc biệt là đối với vùng đất An Giang nói riêng.

Với tất cả tấm lòng thành kính, tri ân sâu sắc, Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân An Giang sẽ tiếp tục phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa, truyền thống yêu nước; sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức; nêu cao ý chí tự lực tự cường, quyết tâm xây dựng quê hương An Giang xứng tầm khu vực và cả nước. Đó chính là việc làm thiết thực nhằm tri ân bậc tiền nhân có công khai mở, vun bồi, bảo vệ vùng đất An Giang - Cương thổ Tổ quốc.

(*) TS Lê Hồng Quang

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Bí thư Tỉnh ủy An Giang

________________

[1] Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục, tập 1, Sđd, tr. 940.

[2] Đại Nam thực lục tập IV, Chính Biên đệ nhất kỷ III, NXB Sử học- Hà Nội, 1963, trang 390.

[3] Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục, tập II, Sđd, tr. 239.

Giá trị của dòng chảy 200 năm nơi miền biên viễn Tây NamAn Giang 190 nămBài viếtTrần SangGiá trị của dòng chảy 200 năm nơi miền biên viễn Tây Nam/SiteAssets/Su-kien-ag-thang11-1.jpg
13/11/2024 3:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Vào năm 1819, dưới triều Nguyễn, một công trình thủy lợi vĩ đại được khởi công ở miền Tây Nam Bộ - kênh Vĩnh Tế. Với chiều dài gần 100km, kéo dài từ Châu Đốc đến Hà Tiên, kênh Vĩnh Tế không chỉ là một công trình cải tạo đất đai mà còn là biểu tượng của lòng quyết tâm, sức mạnh và tinh thần lao động của người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân Nam Bộ. Được xây dựng trong điều kiện khắc nghiệt, với sự tham gia của hàng ngàn dân công và binh lính, kênh Vĩnh Tế đã trở thành một phần quan trọng trong lịch sử và văn hóa của Việt Nam.

 Su-kien-ag-thang11-1.jpg

Kênh Vĩnh Tế ngày nay

Giá trị lịch sử

Kênh Vĩnh Tế được xây dựng dưới triều vua Gia Long và vua Minh Mạng, trong bối cảnh đất nước vừa ổn định sau nhiều năm chiến tranh. Công trình này do Thoại Ngọc Hầu chỉ huy đào, một vị quan tài năng và tận tụy, người đã nhìn thấy được tầm quan trọng của một tuyến đường thủy giúp kết nối hai vùng trọng yếu là Châu Đốc và Hà Tiên. Được khởi công vào năm 1819, kênh Vĩnh Tế đã kéo dài 5 năm mới hoàn thành. Suốt quá trình đó, hàng ngàn người dân đã đóng góp sức lực, chịu đựng điều kiện khắc nghiệt, đối mặt với bệnh tật, đói khát và nhiều gian khó khác để đào nên kênh.

Quá trình xây dựng kênh là một trang lịch sử đầy tự hào, nhưng cũng chứa đựng những câu chuyện bi thương về lòng hy sinh của người dân. Công trình kéo dài suốt 5 năm, với sự tham gia của hơn 80.000 nhân công, gồm cả dân phu và lính, nhiều người trong số đó đã bỏ mạng vì điều kiện làm việc khắc nghiệt và thiếu thốn. Tuy nhiên, sự quyết tâm và nỗ lực của người dân đã giúp hoàn thành công trình trong một thời gian kỷ lục so với điều kiện và phương tiện hạn chế thời bấy giờ.

Kênh Vĩnh Tế là minh chứng rõ ràng cho tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm và quyết tâm bảo vệ vùng đất của người Việt. Công trình này không chỉ nhằm mục tiêu kinh tế mà còn đóng vai trò chiến lược trong việc bảo vệ biên giới Tây Nam của đất nước. Việc hoàn thành kênh Vĩnh Tế giúp dễ dàng vận chuyển quân lính, vật dụng cần thiết, giúp triều đình nhà Nguyễn kiểm soát và phòng thủ biên giới trước các nguy cơ từ bên ngoài, nơi các cuộc xâm lấn thường xuyên xảy ra. Nhờ có kênh Vĩnh Tế, vùng đất biên giới trở nên an toàn và phát triển, từ đó hình thành nên một cộng đồng dân cư ổn định.

Giá trị quân sự và quốc phòng

Trong lịch sử Việt Nam, kênh Vĩnh Tế không chỉ đơn thuần là một công trình thủy lợi mà còn đóng vai trò quan trọng về mặt quân sự và quốc phòng. Được xây dựng vào thời điểm triều nhà Nguyễn mới ổn định tình hình đất nước, kênh Vĩnh Tế thể hiện sự sáng suốt trong chiến lược bảo vệ biên cương, đặc biệt là khu vực Tây Nam Bộ.

Kênh Vĩnh Tế giúp tạo ra một tuyến đường thủy chiến lược nối liền hai vùng trọng yếu là Châu Đốc và Hà Tiên, qua đó giúp triều đình dễ dàng điều động lực lượng quân đội, binh lính và trang thiết bị dọc theo vùng biên giới Tây Nam. Khi có tình hình bất ổn hoặc nguy cơ xâm nhập từ các lực lượng bên ngoài, việc triển khai quân đội theo đường kênh sẽ nhanh chóng hơn rất nhiều so với đường bộ, do điều kiện địa hình miền Tây sông nước phức tạp và thường xuyên ngập lụt.

Bên cạnh đó, tuyến kênh còn đóng vai trò như một trục giao thông nội địa, giúp đảm bảo sự lưu thông giữa các vùng miền, tăng cường liên kết trong vùng Tây Nam Bộ. Với khả năng di chuyển dễ dàng dọc theo kênh, nhà Nguyễn có thể duy trì sự hiện diện quân sự tại các vùng đất xa xôi, khẳng định chủ quyền và giữ vững an ninh lãnh thổ. Kênh Vĩnh Tế không chỉ phục vụ mục tiêu kinh tế mà còn mang ý nghĩa phòng thủ. Nhờ có kênh Vĩnh Tế, triều đình có thể nhanh chóng triển khai các hoạt động tuần tra, giám sát khu vực biên giới, giúp phòng ngừa và đối phó với các cuộc xâm nhập hoặc quấy phá từ bên ngoài.

Ngoài ra, sự hiện diện của kênh còn giúp thu hút dân cư từ nhiều nơi đến định cư và canh tác quanh khu vực kênh. Điều này giúp tăng mật độ dân cư tại vùng biên giới, tạo ra một vùng đệm bảo vệ và ổn định. Người dân nơi đây trở thành lực lượng hỗ trợ tự nhiên cho quân đội, vừa sinh sống vừa bảo vệ quê hương đất nước. Sự ổn định này góp phần củng cố thế đứng vững chắc cho nhà Nguyễn ở vùng Tây Nam Bộ, từ đó ngăn chặn các ý đồ xâm lấn và tăng cường khả năng bảo vệ lãnh thổ.

Trong bối cảnh lịch sử thời bấy giờ, việc mở rộng và bảo vệ lãnh thổ luôn là mối quan tâm hàng đầu của các triều đại phong kiến Việt Nam. Kênh Vĩnh Tế là minh chứng cho quyết tâm của triều Nguyễn trong việc khẳng định chủ quyền, bảo vệ và phát triển vùng đất Nam Bộ. Công trình này là lời khẳng định rõ ràng về chủ quyền của Việt Nam đối với vùng biên giới Tây Nam, giúp ngăn chặn các thế lực ngoại bang có ý định lấn chiếm lãnh thổ. Việc xây dựng kênh Vĩnh Tế cũng cho thấy tầm nhìn xa của Thoại Ngọc Hầu và các nhà vua triều Nguyễn. Nhờ công trình này, triều Nguyễn không chỉ bảo vệ được lãnh thổ mà còn tạo nền tảng để phát triển kinh tế, xã hội cho vùng biên giới.

 

Một đoạn kênh Vĩnh Tế chảy qua Cổng Trà Sư ( Ảnh: Huỳnh Phúc Hậu)

Giá trị văn hóa

Kênh Vĩnh Tế còn mang đậm dấu ấn văn hóa đặc trưng của miền Tây Nam Bộ. Quá trình xây dựng kênh đã thu hút đông đảo người dân từ khắp nơi đến tham gia lao động và sinh sống, từ đó tạo nên sự giao thoa và hòa hợp văn hóa. Cộng đồng đa dạng này mang đến một không khí sống động và phong phú về văn hóa, và đồng thời hình thành nên những giá trị văn hóa đặc trưng của vùng đất Nam Bộ.

Kênh Vĩnh Tế và hình ảnh Thoại Ngọc Hầu đã đi vào ca dao, tục ngữ, và các câu chuyện dân gian, trở thành biểu tượng của lòng kiên trì, tinh thần đoàn kết và sự hy sinh vì lợi ích chung. Những câu chuyện về tái trí của Thoại Ngọc Hầu, sự khổ cực và nỗ lực của người dân đã trở thành đề tài cho nhiều tác phẩm văn học, ghi lại một thời kỳ oanh liệt của công cuộc khai hoang và mở rộng bờ cõi. Đối với người dân Nam Bộ, kênh Vĩnh Tế không chỉ là con kênh, mà còn là biểu tượng của sức mạnh tập thể và niềm tự hào dân tộc.

Lễ giỗ Thoại Ngọc Hầu, được tổ chức hàng năm tại An Giang, là dịp để con cháu tưởng nhớ và tri ân những người đã đóng góp công sức và xương máu cho công trình này. Đây cũng là dịp để người dân thể hiện lòng biết ơn và tôn kính đối với Thoại Ngọc Hầu, người đã dành cả cuộc đời cho sự phát triển của vùng đất Nam Bộ. Lễ giỗ không chỉ là một nghi lễ truyền thống mà còn là một phần trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân địa phương, là dịp để kết nối cộng đồng và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.

Không những thế, sự giao lưu văn hóa trong quá trình cộng cư đã dẫn đến việc hình thành nhiều phong tục độc đáo. Kênh Vĩnh Tế không chỉ là một công trình thủy lợi, mà còn là chứng tích của sự giao thoa văn hóa giữa các vùng miền, là nơi hội tụ những giá trị tinh thần của cộng đồng người Việt ở vùng Tây Nam Bộ. Nhờ đó, vùng đất này mang những nét đặc trưng văn hóa riêng biệt, với tinh thần phóng khoáng, hòa nhập, và giàu lòng nhân ái của người dân Nam Bộ.

Giá trị kinh tế và phát triển bền vững

Từ khi hoàn thành, kênh Vĩnh Tế đã có tác động to lớn đối với sự phát triển kinh tế của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Với hệ thống thủy lợi cải thiện, đất đai quanh kênh được mở rộng diện tích canh tác, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Nhờ đó, nhiều vùng đất quanh kênh trở thành khu vực sản xuất lúa nước và hoa màu quan trọng, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của cả khu vực.

Sự xuất hiện của kênh Vĩnh Tế giúp người dân có thêm nguồn nước tưới tiêu, hạn chế tình trạng hạn hán trong mùa khô và ngập úng vào mùa mưa. Điều này giúp ổn định sản xuất nông nghiệp, tăng năng suất và đảm bảo đời sống cho hàng ngàn hộ dân trong vùng. Kênh Vĩnh Tế đã trở thành một phần thiết yếu trong hệ thống thủy lợi của miền Tây Nam Bộ, là nơi cung cấp nước cho hàng ngàn hecta đất nông nghiệp, đảm bảo mùa màng bội thu.

Ngoài giá trị nông nghiệp, kênh Vĩnh Tế còn có tiềm năng phát triển du lịch văn hóa, lịch sử. Đây là một điểm đến thu hút du khách tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Nam Bộ, về những câu chuyện gắn liền với Thoại Ngọc Hầu và những người dân đã góp phần xây dựng kênh. Các di tích gắn liền với kênh Vĩnh Tế như Lăng Thoại Ngọc Hầu, Miếu Bà Chúa xứ Núi Sam đã trở thành địa điểm du lịch văn hóa, tâm linh, nơi mà người dân đến tham quan, tìm hiểu về lịch sử và văn hóa của vùng đất này. Các hoạt động du lịch gắn với kênh Vĩnh Tế không chỉ mang lại nguồn thu nhập mới cho người dân địa phương mà còn góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, lịch sử của công trình.

Tuy nhiên, để phát triển bền vững và bảo tồn giá trị của kênh Vĩnh Tế, cần có các biện pháp bảo vệ môi trường và duy trì chất lượng nguồn nước. Hiện nay, kênh Vĩnh Tế đang đối mặt với một số vấn đề như ô nhiễm, xói mòn đất, làm giảm giá trị kinh tế và ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái. Các cơ quan chức năng cần có kế hoạch bảo vệ môi trường hiệu quả để giữ gìn dòng kênh xanh sạch, đảm bảo tính bền vững cho thế hệ mai sau. Việc này không chỉ duy trì giá trị kinh tế mà còn bảo tồn di sản văn hóa, lịch sử cho vùng đất Nam Bộ.

Sau 200 năm tồn tại, kênh Vĩnh Tế không chỉ là một công trình thủy lợi mà còn là biểu tượng vững bền của tinh thần lao động, của lòng yêu nước và sự kiên cường của người dân Nam Bộ. Công trình này không chỉ đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế mà còn là niềm tự hào và là di sản văn hóa, lịch sử của dân tộc. Kỷ niệm 200 năm đào kênh là dịp để chúng ta tri ân những con người đã góp công sức và xương máu để xây dựng kênh Vĩnh Tế, đồng thời là cơ hội để chúng ta nhìn lại những giá trị to lớn mà công trình này đã mang lại. Việc bảo tồn và phát huy giá trị của kênh Vĩnh Tế là trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam, để công trình này tiếp tục trường tồn và tiếp nối giá trị của mình trong cuộc sống hiện đại.

TRẦN SANG

Tầm nhìn và tư duy chiến lược phát triển vùng đất An GiangAn Giang 190 nămBài viếtThành NhânTầm nhìn và tư duy chiến lược phát triển vùng đất An Giang/SiteAssets/Tem-kenh-VinhTe-1.jpg
12/11/2024 4:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Trong suốt chiều dài lịch sử vùng đất An Giang, hệ thống sông ngòi, kinh (kênh), rạch dày đặc là thuận lợi cho giao thông đường thuỷ, cho việc vận chuyển, lưu thông hàng hoá; cung cấp nước ngọt để phục vụ sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, rửa phèn và mang phù sa bồi lắng cho đồng ruộng thêm màu mỡ… góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời cũng là thuận lợi góp phần cho việc chống ngoại xâm, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Kinh Vĩnh Tế được Thoại Ngọc Hầu - Nguyễn Văn Thoại đốc suất đào vào cuối năm 1819, con kinh nối liền Châu Đốc đến Hà Tiên. Sau mấy lần gián đoạn, đến giữa năm 1824 kinh hoàn thành, dài khoảng 100 cây số. Tổng số dân binh huy động lên đến 80.000 người (Kinh, Khmer). Đây là công trình giao thông, thủy lợi lớn nhất ở Nam bộ vào đầu thế kỷ XIX có tính chiến lược lâu dài cho mục tiêu kinh tế- xã hội và quốc phòng. Để ghi ơn bà Châu Thị Tế (vợ Nguyễn Văn Thoại) là người có công lao to lớn trong việc tổ chức đào kinh, vua Minh Mạng ban lệnh đặt tên kinh là Vĩnh Tế và tên núi Sam là Vĩnh Tế sơn và đến năm 1836 cho khắc hình kinh Vĩnh Tế vào Cửu Đỉnh ở Ngọ Môn Huế.[1]

Trong hệ thống kinh rạch ở An Giang, có thể nói kinh Vĩnh Tế thể hiện tầm nhìn chiến lược của tiền nhân nhằm phát triển vùng đất rộng lớn phía hữu ngạn sông Hậu, là con kinh có vai trò rất quan trọng góp phần phát triển vùng đất An Giang trở nên trù phú như ngày nay.

Kinh Vĩnh Tế - tầm nhìn chiến lược góp phần phát triển vùng đất An Giang

Đầu thế kỷ XIX, vùng đất phía Tây Nam hữu ngạn sông Hậu là vùng đất chưa được khai phá nhiều, dân cư thưa thớt. Nhìn tổng thể, khu vực tứ giác Long Xuyên[2] là một vùng trũng to lớn, bị ngập lụt hằng năm, nhiều phèn và chịu nhiễm mặn từ vịnh Thái Lan vào. Từng nhóm cư dân nhỏ sống cô lập, không có đường giao thông kết nối, chỉ có những con rạch nhỏ tự nhiên, thiếu nước ngọt cho sản xuất và đời sống.

Cuối năm 1816, thành Châu Đốc xây xong, vua Gia Long xem hoạ đồ vùng Châu Đốc, Hà Tiên đã nhận định: "Xứ này nếu mở đường thuỷ thông với Hà Tiên thì hai đàng thông thương đều lợi. Trong tương lai dân đến ở càng đông, đất mở càng rộng, sẽ thành một trấn to vậy", "mà cũng là lợi chung cho việc canh nông và thương mãi nữa".[3]

Minh Mạng năm 1821 truyền cho Nguyễn Văn Thoại: "Châu Đốc là vùng xung yếu, phải khéo trong mọi trường hợp, trấn an phủ dụ dân địa phương. Trước hết phải chiêu mộ dân buôn, xây dựng xóm làng, làm cho số dân đinh và số hộ khẩu ngày càng tăng, ruộng đất ngày càng khẩn thêm".

Giữa năm 1824, việc đào kinh Vĩnh Tế hoàn thành, dài khoảng 100 cây số, góp phần quyết định trong cải tạo môi trường sinh thái, tạo ra một không gian xã hội ổn định lâu dài, phát triển, nhất là về nông nghiệp, nông thôn.

Tem-kenh-VinhTe-1.jpg

Đánh giá lợi ích to lớn của kinh Vĩnh Tế, Nguyễn Văn Thoại trong bia "Vĩnh Tế Sơn" dựng năm Minh Mạng thứ 9 (1828) tại chân núi Sam đã viết: "Thần thụ mệnh vua, siêng năng kính cẩn, nhóm dân lập ấp; tuỳ xem địa thế: một đường ngang song song thông ra Trường Giang, một đường thông lên Sốc Vinh, một đường ngay đến Lò Gò, vỗ về dân sự, mở mang thôn lạc, khai phá ruộng vườn, tuy trong muôn phần chưa thoả mãn được một, nhưng đem này mà sánh xưa, thì đã khác lạ lắm".

"Từ ngày dọn cỏ dẹp gai trở đi, rành rành chân núi trắng phau, trọi trọi ngọn tre xanh ngắt, cảnh núi trở nên tươi đẹp, sừng sửng vọt lên. Ngắm dò dòng nước biếc bên bờ cao, ruộng vườn bao quanh chân núi, hơi lam tuôn cuốn lẫn khói nấu cơm, chùa chiền trên chót hương toả mây lồng, thật không kém gì phong cảnh trung châu vậy".

Thật vậy, kinh Vĩnh Tế dẫn nước ra biển Tây, góp phần điều tiết lũ cho vùng đất An Giang và tứ giác Long Xuyên. Từ đó, nước ngọt xổ nhèn, rửa mặn, bồi lắng phù sa màu mỡ, đất đai được khai khẩn, làng xóm nông thôn được mở rộng dần. Đồng thời dòng kinh cũng là con đường lưu thông hàng hoá, làm tiền đề cho kinh tế nông thôn phát triển. Đến năm 1831, vùng Châu Đốc lập được 4 làng nhỏ, dân đinh có hơn 80 người, bình quân mỗi làng có 20 dân đinh.[4]

Đến năm 1832, tỉnh An Giang chính thức được thành lập gồm 2 phủ Tuy Biên, Tân Thành và 4 huyện: Tây Xuyên, Phong Phú, Đông Xuyên và Vĩnh An, tỉnh thành đặt tại chợ Châu  Đốc. Toàn tỉnh ngạch bộ đinh là 25.615 người, sinh sống ở 41 thôn và phường phố (trong đó có 3 phường và 2 phố của người Hoa). Công cuộc khẩn hoang, lập ấp tiếp tục được đẩy mạnh. Cho đến năm 1836, theo Địa bạ triều Nguyễn chỉ riêng hai huyện Tây Xuyên và Đông Xuyên (là địa phận chủ yếu của tỉnh An Giang ngày nay) lập được 7 tổng, 91 làng.

Năm 1838, vùng này đã thành lập hàng chục xã thôn rãi rác từ Núi Sam, dọc theo hai bờ kinh về phía Hà Tiên với các làng như: Vĩnh Tế, Nhơn Hoà, An Quí, Thân Nhơn, Vĩnh Bảo, Long Thạnh, Vĩnh Gia, Vĩnh Lạc… Đến năm 1854, Nguyễn Tri Phương báo cáo đợt khai hoang ở An Giang lập thêm 23 ấp mới. Đến năm 1866, Trần Hoàn- doanh điền sứ An Giang- Hà Tiên báo cáo đã mộ được 1.646 dân đinh, thành lập được 149 thôn và khẩn thêm được 8.333 mẫu ruộng.

Là đất khai phá sau cùng ở Nam bộ, An Giang có thể nói là một vùng đất biên thuỳ, đầy khó khăn, nhờ các công trình thuỷ lợi, nhất là việc đào kinh Vĩnh Tế ngày mà càng trở nên trù phú. Đồng bào người Kinh, Khmer, Hoa, Chăm... đã cố kết, cùng nhau khai khẩn đất hoang dựng nên làng mạc, sống đùm bọc, chan hòa, trong sự đa dạng về văn hóa. Cư dân sống dựa vào kinh rạch, đồng ruộng, với nghề làm ruộng, đánh bắt cá, tôm... và một số nghề thủ công như dệt, mộc, đan lát, nắn nồi, chạm khắc đá v.v.. Hình thành nên vùng đất mới với cộng đồng các dân tộc đoàn kết chinh phục thiên nhiên, chống ngoại xâm, có nền văn hoá đa dạng và kinh tế- xã hội ngày càng phát triển.

Từ kinh Vĩnh Tế đến hệ thống kinh thoát lũ ra biển Tây- tư duy chiến lược góp phần phát triển kinh tế- xã hội tỉnh An Giang

Dưới thời thực dân, đế quốc xâm lược, để khai thác nông nghiệp, thực dân Pháp, đế quốc Mỹ trên cơ sở các kinh đã có sẵn (Vĩnh Tế, Thoại Hà, Vĩnh An…) có đào thêm một số kinh để khai thác nông nghiệp, phục vụ chiến tranh xâm lược. Đến năm 1969, diện tích sản xuất lúa của An Giang là 275.000 ha, sản lượng 465.000 tấn, năng suất bình quân 1,69 tấn/ha. Tuy nhiên, những năm sau đó chiến tranh ác liệt, nhiều diện tích đồng ruộng bị bỏ hoang, sản lượng lương thực không tăng, người dân thiếu đói. Năm 1975, sau giải phóng, Trung ương phải cứu đói.

Từ sau giải phóng, trước tình cảnh ruộng đất bao la, dân đông mà lại thiếu đói lương thực, Đảng bộ và Chính quyền tỉnh An Giang luôn xem sản xuất nông nghiệp là nền tảng, lương thực là mặt trận hàng đầu và thuỷ lợi là khâu then chốt, đột phá.

Có thể nói tầm nhìn chiến lược của tiền nhân đã được tiếp nối, từ thực tiễn kinh nghiệm về tác dụng của các kinh đào, nhất là kinh Vĩnh Tế trong quá trình khai hoang, phục hoá, phát triển vùng tứ giác Long Xuyên nói chung, tỉnh An Giang nói riêng, đã giúp hình thành nên tư duy chiến lược về hệ thống kinh thoát lũ ra biển Tây, góp phần đưa nước ngọt, phù sa màu mỡ từ sông Hậu đổ về giúp tiêu mặn, rửa phèn vùng đất hoang hoá, đồng thời giảm độ ngập sâu vào mùa nước lũ.

Tư duy chiến lược này được hiện thực hoá bằng Quyết định 99-TTg ngày 09/02/1996 của Thủ tướng Võ Văn Kiệt về công tác thuỷ lợi- kiểm soát lũ, xây dựng giao thông, bố trí lại dân cư… cho toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có tứ giác Long Xuyên, có tỉnh An Giang.

Điển hình nhất cho thực hiện chủ trương chiến lược này là hệ thống các kinh đào T3, T4, T5, T6, kinh Nông Trường, kinh Hà Giang… và 2 đập cao su Tha La và Trà Sư nhằm thoát lũ ra biển Tây.

Tem-kenh-VinhTe-2.png

Trên địa bàn An Giang có các kinh T4, T5, T6. Năm 1996, kinh T6 đoạn dưới nối vào giữa kinh Mới được khởi công và cơ bản hoành thành. Năm 1997, khởi công và hoàn thành kinh T5 trước lũ tháng 8. Năm 1998, khởi công kinh T4, đồng thời nạo vét kinh Vĩnh Tế và làm tuyến đê ngăn lũ bờ Nam kinh Vĩnh Tế từ Châu Đốc đến Hà Tiên và các công trình cống, đập trên tuyến, bịt kín 7 cầu. Năm 1999 đào tiếp đoạn kinh T6 nối dài, mở vàm từ kinh Vĩnh Tế nối vào đoạn đã đào năm 1976 để thoát lũ lớn hơn. Cuối tháng 9/1999, các tuyến đê ngăn lũ và 2 đập Tha La và Trà Sư hoàn thành. Cả 3 tuyến kinh T4, T5, T6 đều có điểm xuất phát từ kinh Vĩnh Tế, chạy song song, dẫn nước tiêu mặn, rửa phèn và thoát nước lũ ra vịnh Thái Lan.

Phần diện tích của tỉnh An Giang trong vùng tứ giác Long Xuyên là 239.200 ha, chiếm 47,43% của vùng và chiếm 69,8% diện tích toàn tỉnh. Diện tích có khả năng nông nghiệp chiếm 58,70% đất nông nghiệp cả tỉnh. Khai thác vùng này, tỉnh ban hành chính sách người đi khai hoang nhận được 4 ưu đãi: (1) Mỗi hộ được nhận 3 ha, nếu có khả năng làm hơn, có thể cấp thêm để khai phá, nhưng chỉ là cho mướn, đồng thời cấp riêng cho mỗi hộ từ 100 m2 đến 300 m2 để làm sân phơi, nhà ở. (2) Người khai phá được ưu đãi về thuế. Đối với đất chuyển vụ được giữ ở mức cũ trong 3 năm, nếu là đất khai hoang, được miễn thuế trong 3 năm. (3) Tỉnh đầu tư toàn bộ cho công trình thủy lợi lớn như: kinh cấp 1 và cấp 2. (4) Người khai phá xong, tiến hành sản xuất thì ngoài phần làm nghĩa vụ thuế và bán sản phẩm theo nghĩa vụ, số sản phẩm còn lại được quyền tự do vận chuyển và đem bán sản phẩm ngoài thị trường.

Từ 1988 đến 1992 tỉnh An giang đầu tư trên 86 tỷ đồng vào vùng tứ giác và hàng chục tỷ đồng cho chương trình khuyến nông; hoạt động ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp và cho nông dân vay. Đầu tư thủy lợi có vốn của Trung ương 14 tỷ đồng, vốn tỉnh 33 tỷ đồng và vốn nông dân 39 tỷ đồng. Người dân còn bỏ tiền để cải tạo đất và vốn lưu động cho sản xuất trên 180 tỷ đồng.

Ngoài việc đầu tư thủy lợi và các dịch vụ trực tiếp cho sản xuất, An Giang còn đầu tư hàng trăm tỷ đồng xây dựng trên 300 km đường điện; 860 km đường giao thông và 841 cây cầu nông thôn; các cơ sở y tế, giáo dục, đài truyền thanh, trạm thông tin nông nghiệp, chợ nông thôn… cho khu vực này.

Tỉnh đã thu hút không những người trong tỉnh, còn lôi cuốn nhiều cá nhân, tập thể thuộc các doanh nghiệp nhà nước ở ngoài tỉnh. Đã điều động 64.575 dân, 11.979 hộ, trong đó có 30.925 lao động nhận khai thác 5.300 ha đất hoang vùng tứ giác.

Đến năm 1996, An Giang đã khai thác cơ bản vùng tứ giác Long Xuyên thuộc tỉnh (còn 13.000 ha rốn phèn giáp Kiên Giang đến 2001 cải tạo xong). Sản xuất tăng vụ vượt xa dự kiến năm 1995. Sau 10 năm khai thác vùng tứ giác (1988 - 1998), đến 1999, sản lượng lương thực của tỉnh trên 2,34 triệu tấn. Trong đó, sản lượng lương thực của vùng tứ giác thuộc tỉnh đạt gần 1,53 triệu tấn (chiếm 65,2%), cao gấp hơn 3 lần so với năm 1988.

Việc hiện thực hoá tư duy chiến lược đã tác động lớn làm thay đổi phương châm từ "chống lũ", "tránh lũ"- "né lũ", sang "khai hoang, phục hoá", "sống chung an toàn với lũ", "khai thác lợi thế mùa nước nổi", đến nay là "thuận thiên", đã góp phần giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. An Giang từ tỉnh đứng trước ngưỡng thiếu lương thực với sản lượng lúa khoảng 848 ngàn tấn (năm 1986), đến có dư để xuất khẩu, đạt trên mức 02 triệu tấn lần đầu tiên vào năm 1996, trên mức 03 triệu tấn vào năm 2007 và từ năm 2023 đến nay trên 04 triệu tấn, là một trong những tỉnh có sản lượng lúa đứng hàng đầu cả nước, hoàn thành tốt vai trò, nhiệm vụ đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia.[5]

Tóm lại, lịch sử đã chứng minh cách nay 200 năm, đào kinh Vĩnh Tế nối sông Hậu ra biển Tây cho thấy các bậc tiền nhân đã có sự nghiên cứu sâu sắc, nắm bắt và vận dụng được quy luật tự nhiên vào cuộc sống. Thực tế chứng minh nước kinh Vĩnh Tế quanh năm chảy ra hướng Tây. Trong mùa lũ con kinh làm nhiệm vụ thoát lũ, trong mùa cạn thì dẫn nước sông Hậu cấp cho vùng nội đồng. Tầm nhìn chiến lược đó đã được các thế hệ sau tiếp nối, phát huy, mở rộng, hoàn thiện và hình thành nên hệ thống công trình thuỷ lợi đồ sộ, lấy kinh Vĩnh Tế làm trung tâm, tạo thành một hệ thống liên hoàn điều tiết lũ- khai thác nguồn nước- cải tạo môi trường- phục vụ phát triển kinh tế- xã hội của vùng tứ giác Long Xuyên, trong đó có tỉnh An Giang ngày càng trù phú. Kỷ niệm 200 năm hoàn thành kinh Vĩnh Tế 1824-2024, ôn cố tri tân, thiết nghĩ, trong quá trình xây và phát triển tỉnh An Giang, chúng ta cần tiếp tục khai thác những tiềm năng của hệ thống thuỷ lợi khoa học này, đồng thời hơn thế nữa cần kế thừa tầm nhìn và tư duy chiến lược của các bậc tiền nhân về nắm bắt và vận dụng đúng đắn các quy luật tự nhiên vào thực tiễn cuộc sống./.

 

ThS. Nguyễn Thành Nhân,

Phó Hiệu trưởng Trường Chính trị Tôn Đức Thắng tỉnh An Giang

__________

[1] Lịch sử Đảng bộ An Giang tập 1, trang 15, Tỉnh uỷ An Giang, năm 2002.

[2] Tứ giác Long Xuyên là một vùng đất hình tứ giác thuộc vùng ĐBSCL trên địa phận Kiên Giang, An Giang và Cần Thơ: lúc bấy giờ đây là vùng nhiễm phèn và hoang hóa, khắp nơi chỉ có cây tràm và cỏ dại...

[3] Quốc triều chánh biên toát yếu, quyển 2, tở 57a, dẫn lại theo Nguyễn Văn Hầu, Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, NXB Hương Sen, Sài Gòn, 1971, trang 185.

[4] Sơn Nam, Đất Gia Định xưa, NXB Tp Hồ Chí Minh, 1993, trang 65.

[5] Đến năm 2020, GRDP bình quân đầu người tỉnh An Giang đạt trên 46,8 triệu đồng, tương đương 1.910 USD. Tỉ lệ hộ nghèo đa chiều giảm còn 1,93%.

Công lao to lớn của danh thần Thoại Ngọc Hầu đối với vùng đất An GiangBài viếtHoàng KỳCông lao to lớn của danh thần Thoại Ngọc Hầu đối với vùng đất An Giang/SiteAssets/Bithu-tt-le-TNH-3.jpg

​HOÀNG KỲ(*)

07/11/2024 6:10 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Thoại Ngọc Hầu, một danh thần của nhà Nguyễn, công thần trong việc gầy dựng cơ nghiệp của Vua Gia Long (Nguyễn Ánh), người có nhiều công lao to lớn đối với đất nước, vùng đất Nam Bộ và đặc biệt là vùng đất An Giang. Tầm nhìn chiến lược và những công trình của Ông để lại hậu thế không những đã đặt nền móng cho quá trình khẩn điền, mở cõi vùng Nam Bộ trong thế kỷ XIX mà còn mang ý nghĩa đặc biệt đến hôm nay và mai sau.

 Bithu-tt-le-TNH-3.jpg

Tượng Danh thần Thoại Ngọc Hầu tại lăng Thoại Ngọc Hầu

Danh thần Thoại Ngọc Hầu tên thật là Nguyễn Văn Thoại, sinh ngày 26 tháng 11 năm Tân Tỵ (1761), niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 22, tại làng An Hải, tổng An Lưu Hạ, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng). Thân sinh của Ông, cụ ông Nguyễn Văn Lượng và cụ bà Nguyễn Thị Tuyết. Từ nhỏ, Ông theo gia đình di cư vào Nam, định cư tại cù lao Dài (nay thuộc 02 xã Thanh Bình và Quới Thiện của tỉnh Vĩnh Long).  

Chánh thất của ông Nguyễn Văn Thoại là bà Châu Thị Vĩnh Tế, sinh tháng 4 năm Bính Tuất (1766), con cụ ông Châu Vĩnh Huy và cụ bà Đỗ Thị Toán. Vào những năm giữa thế kỷ XVIII, gia đình bà Châu Thị Vĩnh Tế cũng từ miền Trung vào Nam, đến vùng đất cù lao Dài khai khẩn, biến vùng đất này trở thành nơi trù phú.

Đến mùa Xuân năm 1777, chúa Nguyễn Ánh tổ chức mộ binh tại Ba Giồng (Định Tường), Nguyễn Văn Thoại đầu quân cho chúa Nguyễn. Là một người thông minh, linh hoạt, lại tinh thông võ nghệ, đã lập được nhiều chiến công, Ông được chúa Nguyễn phong làm Khâm sai Thượng đạo Đại tướng quân, rồi đến Khâm sai Thượng đạo Bình Tây tướng quân. Ông từng giữ chức Quản suất biền binh lưu thủ Bắc Thành, Trấn thủ Lạng Sơn, rồi trở về Nam giữ chức Trấn thủ Định Tường (1808). Đến tháng 9, năm Quý Dậu (1813), vua Gia Long sắc phong cho Nguyễn Văn Thoại lãnh ấn Bảo hộ Cao Miên.

Năm 1817, Ông được triều đình triệu hồi về nước, cử làm Trấn thủ Vĩnh Thanh. Sau đó, Ông đã bắt tay ngay vào việc chấn chỉnh các cơ sở hành chánh, xử lý những quan lại tham ô, hạch sách người dân. Mặt khác, Ông triển khai thực hiện các chính sách của triều đình để phát triển kinh tế, mở mang các trục giao thông đường thủy, tạo điều kiện cho người Khmer, người Minh Hương, người Chăm, người Việt đến khai khẩn những vùng đất còn hoang vu ven các nhánh sông Tiền, sông Hậu để tạo lập xóm làng, cùng khai khẩn đất hoang.

Lúc bấy giờ, nhận thấy việc đi lại, trao đổi, mua bán ở vùng đất này còn nhiều khó khăn, sông rạch tự nhiên rất quanh co, việc trao đổi hàng hóa với Rạch Giá, Hà Tiên phải đi vòng đường biển. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải khơi nguồn, tháo lũ của sông Hậu ra biển Rạch Giá, Ông đã dâng biểu tấu trình hoàng thượng việc đào kênh, mở giao thông thủy đi tắt từ Đông Xuyên đến Rạch Giá.  

Tấu sớ của Ông được Triều đình chấp thuận. Tháng 11 năm Đinh Sửu (1817), Triều đình lệnh cho Ông chuẩn bị đào kênh Tam Khê[1]. Đến mùa Xuân Mậu Dần (1818), Ông được Vua giáng chỉ đào kênh Tam Khê với mục đích tạo thành giao thông thủy chiến lược quan trọng ở phía Tây sông Hậu nối liền hai trấn Hà Tiên và Vĩnh Thanh. Đây là bước tiến lớn, lần đầu tiên một con kênh dài được đào bằng sức người tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tạo điều kiện cho việc hình thành xóm làng để khai khẩn đất hoang, phát triển kinh tế trên vùng đất An Giang xưa.

Nhận được chỉ dụ, Ông cho xúc tiến đào kênh theo một lạch nước cũ, nối rạch Đông Xuyên (rạch Long Xuyên) tại Vĩnh Trạch kéo dài theo hướng Tây Nam, ngang qua chân núi Sập tiếp giáp sông Kiên Giang đổ ra biển ở cửa Rạch Giá. Ông huy động khoảng 1.500 dân, quân luân phiên đào kênh liên tục. Việc đào kênh rất khổ cực và nguy hiểm, nhất là những đoạn băng qua "rừng thiên nước độc, lam sơn chướng khí" cùng với thú dữ tấn công… có nhiều dân phu gặp nạn. Tuy nhiên, công tác hậu cần được Vợ Ông là bà Châu Thị Vĩnh Tế hết lòng giúp đỡ, thông qua huy động thân nhân của những người trực tiếp đào kênh chăm lo cho người thân của mình.

Kênh Tam Khê được hoàn thành trong thời gian một tháng[2], đáp ứng nguyện vọng của người dân, giúp quá trình quy dân tạo ấp lập làng, phục vụ sản xuất nông nghiệp, giao lưu trao đổi mua bán giữa các vùng được thuận lợi, đảm bảo an toàn trong khu vực được giao quyền trấn thủ. Việc này được Ông nói rõ trong Bia Thoại Sơn: "Ngày thụ mệnh Vua, sớm khuya kính sợ, đốn cây rậm, bới bùn lầy, đào kênh dài 12.410 tầm, trải qua một tháng thì xong việc, nghiễm nhiên trở thành một con sông to, luôn luôn ghe thuyền qua lại tiện lợi"[3]. Ông cho vẽ họa đồ và làm sớ tâu lên Vua Gia Long. Nhận thấy những lợi ích vượt ngoài mong đợi của dòng kênh mới, Vua Gia Long đã cho phép lấy tên Ông để đặt tên kênh là Thoại Hà, vua đổi tên núi Sập thành Thoại Sơn để biểu dương công lao của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại.

Đây là cột mốc quan trọng đối với cuộc đời làm quan của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại. Để ghi nhớ ơn Vua, Ông đã soạn một áng văn khắc vào bia đá và lập miếu thờ Sơn thần bên triền núi Sập để tiến hành dựng bia phía trước. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), Ông mở hội làm Lễ dựng bia và khánh thành Thần miếu; đầu bia được chạm to hai chữ "Thoại Sơn", mặt bia được khắc đúng 629 chữ, để lưu lại hậu thế, trong đó có đoạn: "Kính dựng một miếu thờ thần nơi chân núi, chạm đá làm bia, ghi rõ hai chữ Thoại Sơn, cùng kể rõ nguyên lai tên núi, ngõ hầu lưu lại đời đời không mất"[4]. Bên cạnh đó, Ông còn thực hiện truyền dụ của Vua đứng ra chiêu mộ dân đến núi Sập tạo lập xóm làng, tiến hành khai khẩn đất đai dọc hai bên kênh, biến những vùng đất hoang vu này thành vùng đất trù phú, sung túc, xóm làng được đặt tên là Thoại Sơn để ghi nhớ công ơn của Ông.

 Bithu-tt-le-TNH-1.jpg

Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang lãnh đạo tỉnh dâng hương tại lăng Thoại Ngọc Hầu

 Từ kết quả của việc đào kênh Thoại Hà, Vua Gia Long càng quyết tâm phải đào cho được con kênh thông từ Châu Đốc đến Hà Tiên. Tuy nhiên, ý định đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên được Vua nghĩ đến từ tháng Giêng, năm Bính Tý (1816), trước khi tiến hành đào kênh Thoại Hà, khi đó Ông đang giữ chức Bảo hộ Cao Miên, sau đó là Trấn thủ Vĩnh Thanh được lệnh Vua xây thành Châu Đốc. Đến cuối năm Bính Tý (1816) thành Châu Đốc được xây xong, Vua Gia Long xem địa đồ miền Châu Đốc, truyền với các quan rằng: "Đất này nay mở đường sông để đi thẳng tới Hà Tiên, làm ruộng đi buôn đều được lợi cả. Sau này dân ở đông đúc, đất mở rộng rãi, có thể thành một trấn to lớn"[5]. Tuy nhiên, sau khi suy xét kỹ lưỡng, Vua Gia Long ngưng ý định đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên, bởi Vua nhận thấy nước Cao Miên mới khắc phục được những rối loạn trong nội bộ, nếu bắt dân tiếp tục phục dịch sẽ làm cho dân lo sợ không yên. Vì vậy, đến tháng 9 năm Kỷ Mão (1819), Vua truyền chỉ cho Gia Định thành và quan Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại chỉ huy binh dân đến Châu Đốc để khởi công đào kênh vào ngày rằm tháng Chạp[6]. Trước đó, Vua Gia Long ra chiếu dụ dân Vĩnh Thanh: "Đào con sông này công việc rất khó nhọc. Kế sách của Nhà nước, mưu hoạch về biên thùy, đều quan hệ không nhỏ. Các ngươi dẫu ngày nay khó nhọc, mà thực có lợi cho muôn đời. Vậy nên bảo nhau, đừng sợ khó nhọc"[7].

Như vậy, ngoài yêu cầu về giao thông, dân cư, mở mang kinh tế, thì theo Vua Gia Long: "Vị thế Châu Đốc - Hà Tiên không kém Bắc Thành". Còn theo Vua Minh Mạng thì đây là "vùng địa đầu quan yếu, ta đã từng xuống chỉ chiêu tập dân buôn bán, cho vay tiền, gạo để lập ấp khẩn điền, quây quần sinh nhai. Đó là ý niệm của ta trong vấn đề củng cố biên cương".

Theo sử liệu triều Nguyễn, công trình đào kênh Vĩnh Tế kéo dài 97 km qua 5 năm thi công (1819 - 1824) với ba đợt. Ngay đợt đầu, đã huy động trên 10.000 nhân lực, bao gồm 5.000 quân dân trong vùng, 500 lính thuộc đồn Uy Viễn, 5.000 dân là người Khmer. Kênh đi qua nhiều đoạn đất cứng rất khó đào, lại gặp phải thời tiết thất thường, nhiều chướng khí, việc huy động nhân lực gặp nhiều khó khăn, nạn thú dữ… làm cho công việc có lúc phải gián đoạn hoặc chậm chạp. Vì vậy, Ông phải tìm cách để khắc phục khó khăn, trở ngại.

Hiểu được khó khăn của Ông, trước khi cho tiến hành kế hoạch đợt hai, Vua Minh Mạng chỉ dụ: "Đường sông Vĩnh Tế liền với Tân Cương, xe thuyền qua lại đều là tiện lợi. Đức Hoàng Khảo Thế Tổ Cao Hoàng Đế ta mưu sâu, tính xa, chú ý việc ngoài biên. Công việc đào kênh mới bắt đầu chưa xong. Nay ta theo chỉ tiên hoàng, cố nghĩ cách khó nhọc một lần mà được thong thả lâu dài về sau".

Sau đó, Vua Minh Mạng lệnh cho Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt huy động thêm nhiều dân binh hơn 55.000 người, chia làm 3 phiên, đào đắp bằng sức người với dụng cụ thô sơ, hàng triệu mét khối đất đá và thay nhau thi công suốt ngày đêm, nhưng hết mùa Xuân sang mùa Hè thì việc đào kênh tiếp tục tạm hoãn vì hạn hán. Với lượng nhân công được huy động lớn như thế, qua 3 tháng thi công, con kênh đào được khoảng 70 km. Công việc chỉ huy dân binh đào kênh Vĩnh Tế giai đoạn 2 kết thúc.

Đợt cuối được tiến hành vào tháng 2 năm Giáp Thân (1824), bề dài của kênh còn lại chỉ khoảng 1.700 trượng từ cuối rạch Giang Thành trở vào tới nơi đã đào xong. Việc đào kênh được tiến hành tích cực với sự hỗ trợ của Phó Tổng trấn Trần Văn Năng và quân, dân lên đến 25.000 người, đào bất kể ngày đêm, đến ngày mùng 01 tháng 05 thì hoàn thành.

Bithu-tt-le-TNH-2.jpg

Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang và lãnh đạo tỉnh thắp hương tại phần mộ Danh thần Thoại Ngọc Hầu

Có thể thấy, việc đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên là một thành quả rất to lớn với số nhân công lên đến trên 80.000 người, thời gian đào kênh suốt 05 năm (từ tháng Chạp năm Mẹo (1819) đến tháng 05 năm Thân (1824)), chiều dài 205 dặm rưỡi (tương đương 91 km), rộng 7 trượng 5 thước (tương đương 25 m), sâu 6 thước (tương đương 3 m). Lợi ích lớn nhất của kênh Châu Đốc - Hà Tiên không chỉ ở việc lưu thông bằng ghe thuyền đi lại, trao đổi buôn bán hay đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ cương thổ Quốc gia, mà còn đóng vai trò quan trọng dẫn nước ngọt từ sông Cửu Long vào các khu đồng ruộng, xã phèn, rửa mặn cho mùa màng tươi tốt. Song song việc đào kênh Vĩnh Tế, Ông cho lập ven bờ kênh 05 làng: Vĩnh Nguơn, Vĩnh Tế, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia và Vĩnh Thông.

Một lần nữa bà Châu Thị Vĩnh Tế lại tích cực giúp phu quân trong việc đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên, bà đứng ra tập hợp thân nhân của những người đang trực tiếp đào kênh, cùng nhau chăm lo việc ăn uống, thuốc men, chữa trị cho người thân của họ những lúc bệnh tật, bị tai nạn khi đào kênh hay bị thú dữ tấn công. Dưới sự chăm sóc chu đáo của Bà đã góp phần thúc đẩy việc đào kênh được diễn ra nhanh chóng hơn. Những người trực tiếp đào kênh luôn cảm thấy an tâm.

Khi tin vui về đến Triều đình Huế, Vua Minh Mạng liền ban sắc khen thưởng và ra sắc cho quan địa phương làm bia dựng ở bờ sông, đánh dấu công lao của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại. Vua nhận thấy, bên kia bờ kênh mới đào có núi Sam, có phần giống với núi Sập bên bờ kênh Thoại Hà trước kia và xét thấy Thoại Ngọc Hầu phu nhân, là dòng họ Châu Vĩnh, nhũ danh Thị Tế, người đàn bà đức độ, luôn tận lực phụ giúp chồng trên đường công bộc, có nhiều đóng góp trong công tác hậu cần, có lúc bà thay chồng đôn đốc việc đào kênh. Từ đó, Vua ban đặt tên kênh Châu Đốc - Hà Tiên là "Vĩnh Tế Hà" và tên núi Sam gần bờ kênh là "Vĩnh Tế Sơn", làng cạnh núi là "Vĩnh Tế Thôn".

Khi nói về lợi ích của kênh Vĩnh Tế, sách Đại Nam nhất thống chí viết: "Từ đây đường sông thông, việc biên phòng và việc buôn bán đều được hưởng mối lợi vô cùng". Việc hoàn thành kênh Vĩnh Tế được dân chúng xem là một thành quả to lớn, có ảnh hưởng nhiều mặt đối với cư dân trong vùng. Dân mừng vì có đường giao thông thuận lợi từ Châu Đốc đi Hà Tiên. Giới chức biên phòng thời ấy cũng bớt gánh nặng nhờ có đường nước án ngữ ven biên. Kênh Vĩnh Tế xưa và nay cũng thế, không chỉ là một đường lưu thông thủy tiện lợi hay giữ gìn biên giới mà còn có tác dụng khác là đưa nước ngọt của sông Cửu Long vào tháo chua rửa phèn cho ruộng đồng.

Danh thần Thoại Ngọc Hầu lâm bệnh, tạ thế tại Châu Đốc ngày 6 tháng 6 năm Kỷ Sửu (1829), hưởng thọ 68 tuổi. Lăng mộ Ông nằm dưới chân núi Sam với vẻ đẹp uy nghi, cổ kính; mặt hướng nhìn ra đường, lưng tựa vào vách núi, ung dung, đường bệ trên thềm cao với gần chục bậc thang đứng, xây bằng đá ong. Ông được Vua Minh Mạng truy phong chức Tráng Võ Tướng quân, Trụ quốc Đô thống, thụy Võ Khác.

Với tài kinh bang tế thế, phò tá 02 vua Gia Long và Minh Mạng, đảm nhận nhiều trọng trách, được phong tước Ngọc Hầu, Ông để lại cho đời sau nhiều công trình giá trị, công trạng hiển hách, những văn bia vô giá, lưu danh sử sách. Hiện An Giang có nhiều ngôi đình thờ Ông, trong số đó có hai ngôi đình lớn nhất là Đình Vĩnh Tế ở phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, có sắc phong do Vua Khải Định ban ngày 25 tháng 7 năm Giáp Tý (1924) và Đình Thoại Sơn tại thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn, có sắc phong của Vua Bảo Đại ban ngày 15 tháng 8 âm lịch năm 1943; ngoài ra, tại phường An Hải, Đà Nẵng, quê Ông cũng lập đền thờ. Các đền miếu thờ Ông đều được người đời sau ngưỡng vọng, trùng tu khang trang và tế bái trọng thể.

Tưởng niệm 195 năm ngày mất danh thần Thoại Ngọc Hầu, 200 năm hoàn thành kênh đào Vĩnh Tế là dịp để chúng ta tìm hiểu, ôn lại và tri ân công lao, những đóng góp to lớn của ông đối với đất nước nói chung, với vùng đất Nam Bộ, đặc biệt đối với vùng đất An Giang nói riêng. Với tấm lòng thành kính, tri ân sâu sắc, kế thừa những di sản vô giá của danh thần Thoại Ngọc Hầu và các thế hệ khẩn hoang mở cõi, bảo vệ quê hương. Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân An Giang sẽ tiếp tục phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa, truyền thống yêu nước; sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức; nêu cao ý chí tự lực tự cường, quyết tâm xây dựng quê hương An Giang xứng tầm khu vực và cả nước. Đó chính là việc làm thiết thực nhằm tri ân bậc tiền nhân có công khai mở, vun bồi, bảo vệ vùng đất An Giang - cương thổ Tổ quốc.

(*) TS Lê Hồng Quang

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,

Bí thư Tỉnh ủy An Giang

_________________

[1] Còn có tên khác kênh Đông Xuyên, kênh Thoại Hà.

[2] Đại Nam nhất thống chí chép: "Làm hơn một tháng mới thành". Bia Thoại Sơn ghi "duyệt nguyệt thoan công".

[3] Theo bản dịch của tác giả Nguyễn Văn Hầu (2020), Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, Nxb Khoa học Xã hội, tr.134.

[4] Theo bản dịch của tác giả Nguyễn Văn Hầu (2020), Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, Nxb Khoa học Xã hội, tr.308.

[5] Đại Nam thực lục tập IV, Chính Biên đệ nhất kỷ III, NXB Sử học- Hà Nội, 1963, trang 308.

[6] Quốc triều chánh biên toát yếu, quyển 2, mục Đinh Sửu, tờ 52a.

[7] Đại Nam thực lục tập IV, Chính Biên đệ nhất kỷ III, NXB Sử học- Hà Nội, 1963, trang 390.


Dòng kinh chảy qua mùa vàngAn Giang 190 nămBài viếtTrần SangDòng kinh chảy qua mùa vàng/SiteAssets/Dong-kenh-Vinh-Te.jpg
05/11/2024 10:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Dòng Kinh Vĩnh Tế chảy dài gần 100 km nơi miền biên giới Tây Nam của Tổ quốc, lặng lẽ gắn bó với cuộc sống người dân nơi đây hơn 200 năm mưa nắng. Ngắm nhìn dòng kinh ấy, ta không chỉ thấy một công trình thủy lợi vững chãi mà còn thấy cả một dòng lịch sử, một mạch nguồn văn hóa thấm đẫm hơi thở của quá khứ, hiện tại và cả tương lai…

Có lẽ không ai ở An Giang mà không từng nghe về kinh Vĩnh Tế và những câu chuyện đằng sau nó. Con kinh ấy không chỉ là dòng chảy của nước mà còn là dòng chảy của những ngày lao động gian khổ, của mồ hôi và nước mắt, của niềm tin và hy vọng. Hơn 200 năm trước, khi Thoại Ngọc Hầu chỉ huy hàng nghìn nhân công đào kinh, họ phải đối mặt với biết bao thử thách, khó khăn, khắc nghiệt... Nhưng rồi như dòng kinh cũng được thông nước, tinh thần, sự quyết tâm của họ cũng mạnh mẽ như dòng nước, cứ thế bền bỉ, vượt qua bao gian khổ để tạo nên một công trình vĩ đại như ngày nay.

Dong-kenh-Vinh-Te.jpg

Một đoạn Kinh Vĩnh Tế chảy qua Cổng Trà Sư ( Ảnh: Huỳnh Phúc Hậu)

Truyện dân gian về vùng đất này kể lại rằng, để hoàn thành kinh Vĩnh Tế, có biết bao người đã nằm lại bên bờ kinh, chẳng thể thấy được thành quả của mình. Những người sống sót thì cứ thế kể lại câu chuyện ấy, kể về những tháng ngày không ngừng nghỉ dưới cái nắng cháy da, về những đêm mưa biên giới tầm tã nhưng đôi bàn tay họ vẫn tiếp tục đào từng nhát đất, cuốc từng cục đất, từng xẻng đất… Họ làm điều ấy không chỉ để mưu sinh mà còn với niềm tự hào – tự hào về một công trình sẽ bảo vệ, nuôi dưỡng mảnh đất quê hương.

Dòng kinh Vĩnh Tế không chỉ mang theo nước mà còn mang theo những câu chuyện như "huyền thoại" của những cư người dân đầu tiên của Nam Bộ đi khai hoang mở cõi. Ngày nay, dòng kinh mang theo dòng nước đổ ra Biển và chở luôn những câu chuyện đời thường của những cư dân sinh sống bên hai bờ kinh. Buổi sáng, người dân chèo ghe dọc kinh đi bán rau, bán cá, tiếng gọi mời thân quen vang lên giữa dòng nước. Mỗi chiều, khi mặt trời đỏ rực dần khuất sau những hàng cây, ta thấy những đứa trẻ chạy nhảy, tắm mát và nô đùa trên bờ kinh. Những hình ảnh ấy bình dị mà gợi nhớ về những gì đẹp nhất, thuần khiết nhất của cuộc sống con người bên dòng kinh Vĩnh Tế.

Ngồi bên bờ kinh, lặng nghe tiếng nước chảy, ta như được thấy lại hình bóng của những thế hệ người dân đi trước, những người đã xem dòng kinh này như một phần máu thịt của mình. Họ đã sống, đã yêu và đã hiến dâng tất cả cho dòng kinh này, cho mảnh đất này. Hôm nay, bên dòng kinh ấy, người ta lại tiếp tục mơ về một cuộc sống no ấm, yên bình - như dòng nước trong lành mà kinh Vĩnh Tế đã mang đến cho vùng đất này suốt bao năm qua.

Dòng kinh Vĩnh Tế nằm đó, hiền hòa và bền bỉ như một nhân chứng thầm lặng của thời gian, lặng lẽ chứng kiến biết bao thay đổi của đất trời và cuộc sống con người. Nhìn dòng kinh, ta như thấy lại hình ảnh của những người nông dân áo tơi nâu sờn, đôi chân trần bám chặt vào đất, từng nhát cuốc mạnh mẽ bổ xuống lòng kinh, khuôn mặt đẫm mồ hôi nhưng ánh lên một niềm tin mãnh liệt. Niềm tin vào ngày mai, vào dòng kinh sẽ giúp họ nuôi sống cả một miền đất, vào những hạt lúa vàng bội thu, và vào sự bình yên nơi biên giới quê hương.

Bây giờ, con kênh ấy đã trở thành một phần thân thuộc trong cuộc sống người dân nơi miền biên viễn Tây Nam, như mạch máu chảy xuyên suốt những cánh đồng lúa xanh ngát, những làng xóm yên bình. Người dân nơi đây yêu kinh Vĩnh Tế như yêu chính cuộc sống của mình.

Mỗi mùa nước về, dòng nước dâng lên, mang theo phù sa bồi đắp cho đồng ruộng. Người dân lại hân hoan chuẩn bị cho mùa vụ mới, tin tưởng vào những gì dòng kinh đã và đang mang lại. Kinh Vĩnh Tế không chỉ là một dòng chảy đơn thuần mà là dòng chảy của sự sống, của niềm tin và hy vọng, là sợi dây gắn kết bao thế hệ người dân vùng đất này với mảnh đất của họ, với những gì tốt đẹp nhất họ đã dày công gây dựng.

Khi nhìn dòng nước trôi, ta nghe được tiếng thì thầm của quá khứ, cảm nhận được sự kiên trì của những người đã ngã xuống để làm nên kinh Vĩnh Tế. Ta thấy bóng dáng của Thoại Ngọc Hầu, vị quan anh dũng đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử, đã cống hiến cả cuộc đời để bảo vệ và phát triển vùng đất này. Dòng kinh như lời hứa, như một khúc ca vĩnh cửu nối liền quá khứ và hiện tại, giữ lại những giá trị không bao giờ phai nhạt.

Dòng kinh Vĩnh Tế vẫn chảy, lặng lẽ, mải miết qua bao mùa mưa nắng, như tình yêu âm thầm mà sâu sắc của người dân nơi đây dành cho đất mẹ. Chỉ cần lặng nghe, ta sẽ nghe thấy từng nhịp thở của dòng kinh, từng nhịp đập của lòng người Nam Bộ - giản dị mà kiên cường, tựa như chính kinh Vĩnh Tế vậy, trôi mãi về phía trước, không ngừng nghỉ, chảy mãi trong lòng người, trong cả đất trời phương Nam.

Dòng Kinh Vĩnh Tế chảy qua những cánh đồng xanh mướt, ôm ấp từng thửa ruộng lúa trải dài, mang đến một miền biên cương bình yên và trù phú. Nhờ dòng nước mát lành ấy, những vụ mùa ngày một bội thu, lúa trĩu hạt, và những bông lúa vàng rực rỡ trở thành biểu tượng của ấm no và hạnh phúc.

Ngày nay, người dân nơi đây sống yên vui, gửi gắm bao niềm hy vọng vào dòng kinh đã gắn bó với cuộc sống của họ từ bao đời. Kinh Vĩnh Tế không chỉ là dòng nước chảy qua đất đai mà còn là dòng chảy của lòng người, là mạch nguồn nuôi dưỡng tâm hồn và đời sống của những người nông dân chất phác. Với dòng kinh ấy, họ xây dựng nên cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc, gửi trọn tình yêu vào từng hạt lúa, từng giọt phù sa chảy về, cùng nhau xây đắp một vùng biên cương yên bình, ấm no và đầy ắp tình người.

Qua hàng thế kỷ, kinh Vĩnh Tế đã trở thành biểu tượng cho ý chí và tinh thần vượt khó của người dân Nam Bộ. Mỗi khi nhắc đến kinh Vĩnh Tế, người ta nhớ đến sự hy sinh của thế hệ trước và tinh thần kiên trì bền bỉ. Đối với người dân sinh sống ở khu vực này, dòng kinh không chỉ là một di sản vật chất mà còn là di sản tinh thần, thúc đẩy họ nỗ lực vượt qua khó khăn trong cuộc sống hàng ngày.

Kinh Vĩnh Tế đã khơi dậy trong người dân Nam Bộ tinh thần "đi về phía trước", không ngại khó khăn gian khổ. Điều này đã ăn sâu vào tâm hồn của người dân nơi đây, trở thành nguồn động lực giúp họ đứng vững và phát triển trong các điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên và biến đổi khí hậu ngày nay.

Dòng kinh này nhắc nhở thế hệ hôm nay về lòng biết ơn và trách nhiệm giữ gìn, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống mà tổ tiên đã để lại, đồng thời thể hiện tinh thần bất khuất và khát vọng của người Việt trong hành trình xây dựng và phát triển đất nước.

TRẦN SANG

An Giang: Nhiều điểm sáng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị 9 tháng năm 2024An Giang 190 nămBài viếtNgọc HânAn Giang: Nhiều điểm sáng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị 9 tháng năm 2024/SiteAssets/AG-diemsang-24-1.jpg
03/10/2024 4:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- 9 tháng đầu năm 2024, trước bối cảnh thuận lợi và khó khăn đan xen nhưng với sự đoàn kết, quyết tâm của cả hệ thống chính trị, sự năng động, linh hoạt của chính quyền các cấp, công tác xây dựng Đảng và Dân vận, tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trên địa bàn tỉnh An Giang có nhiều chuyển biến tích cực

 AG-diemsang-24-1.jpg

Hội nghị sơ kết thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội 9 tháng của năm và bàn nhiệm vụ 3 tháng cuối năm 2024

Nhiều điểm sáng ghi nhận trong 9 tháng năm 2024

Trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và Dân vận được đặc biệt quan tâm, đạt kết quả khá toàn diện. Các ban đảng, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội các cấp đã tham mưu cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai quán triệt nghiêm túc các chủ trương, nghị quyết của Trung ương và của tỉnh, chất lượng sinh hoạt tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên tiếp tục được nâng cao.

Tiếp tục quán triệt thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa 13) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị gắn với thực hiện các quy định của Trung ương, của tỉnh về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên.

Phối hợp tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt Quy định số 144-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới; Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 14 của Đảng; tổ chức thông tin các bài viết, tác phẩm của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng…

Công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng được cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp quan tâm chỉ đạo thực hiện nghiêm túc. Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy, Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng tiêu cực tỉnh thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành rà soát các vụ việc, vụ án, kéo dài để sớm giải quyết dứt điểm, ổn định tình hình.

Lãnh đạo tổ chức thành công Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh lần thứ 11; Đại hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam tỉnh lần thứ 9.

Về lãnh đạo phát triển kinh tế - xã của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực, tiếp tục tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) tăng 6,54%, cao hơn mức tăng của cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 6,41%), các khu vực kinh tế đều tăng trưởng. Sản xuất nông, lâm, thủy sản phát triển ổn định. Sản xuất công nghiệp - xây dựng phát triển khá tốt. Lĩnh vực thương mại - dịch vụ tiếp tục phát triển, doanh thu bán buôn, bán lẻ hàng hóa, dịch vụ đạt 170.342 tỷ đồng (tăng 15,01% so với cùng kỳ); đón khoảng 8,5 triệu lượt khách tham quan (tăng 7,6%), doanh thu từ hoạt động du lịch đạt 9.700 tỷ đồng (tăng 80%). Kim ngạch xuất khẩu đạt 930 triệu USD (tăng 6,31%). Tổng thu ngân sách nhà nước từ kinh tế địa bàn đạt 6.382 tỷ đồng (tăng 12,36% so cùng kỳ). Tiến độ giải ngân vốn đầu tư công đạt 55,33% kế hoạch.

Ở lĩnh vực văn hóa – xã hội, tỉnh đã long trọng tổ chức Lễ hội Vía Bà Chúa xứ Núi Sam 2024, 10 năm lễ hội được công nhận di sản cấp quốc gia; phối hợp tổ chức lễ thông xe cầu Châu Đốc, lễ khánh thành dự án tuyến nối Quốc lộ 91 và tuyến tránh thành phố Long Xuyên góp phần hoàn thiện hệ thống giao thông và tạo đòn bẩy thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới. 

Công tác phòng, chống dịch bệnh được kiểm soát tốt. Các lĩnh vực văn hóa, an sinh xã hội được quan tâm thực hiện, nhất là công tác chăm lo cho các đối tượng chính sách, người lao động, người nghèo.Thực hiện tốt công tác tuyển quân năm 2024 đạt 100% chỉ tiêu kế hoạch. Quốc phòng, an ninh được đảm bảo; an ninh tuyến biên giới, trong dân tộc, tôn giáo được tăng cường, ổn định. Tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố Long Xuyên, thị xã Tịnh Biên năm 2024 đảm bảo chặt chẽ, nghiêm túc, đạt mục đích, yêu cầu đề ra…

HN-BCH17-24-1.jpg
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang phát biểu tại Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ 17

Nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm đến cuối năm 2024 và định hướng năm 2025

Phát biểu kết luận tại Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ 17, chỉ đạo những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm đến cuối năm 2024 và định hướng năm 2025, Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang yêu cầu các cấp uỷ đảng, chính quyền và các ngành, các cấp, nhất là người đứng đầu nêu cao tinh thần trách nhiệm, năng động, sáng tạo; thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo; việc thực hiện quy chế, nền nếp làm việc, kỷ cương, kỷ luật, đạo đức công vụ... quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị năm 2024, cụ thể:

Thứ nhất, về 6 nhiệm vụ trọng tâm: (1) Tiếp tục rà soát, cập nhật kết quả thực hiện những mục tiêu, chỉ tiêu để đề ra giải pháp bổ sung cần thiết thực hiện phù hợp trong 3 tháng cuối năm nhằm thực hiện đạt kế hoạch năm 2024, làm cơ sở xây dựng kế hoạch năm 2025 và phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 11, nhiệm kỳ 2020 - 2025, nhất là tập trung thực hiện các giải pháp cụ thể để hoàn thành các chỉ tiêu còn thấp; (2) Lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 14/6/2024 của Bộ Chính trị, Kế hoạch số 190-KH/TU, ngày 27/8/2024 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Hướng dẫn số 02-HD/TU, ngày 30/8/2024 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 14 của Đảng. Tiểu ban Văn kiện và Tiểu ban Nhân sự Đại hội lần thứ 12 Đảng bộ tỉnh, nhiệm kỳ 2025 – 2030 khẩn trương thành lập các Tổ soạn thảo, Bộ phận giúp việc để triển khai kế hoạch công tác. Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ khẩn trương rà soát, đăng ký các công trình, sự kiện có ý nghĩa thiết thực, tạo khí thế thi đua sôi nổi để hướng tới chào mừng đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 – 2030; (3) Khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và triển khai Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 làm cơ sở xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời gian tới; (4) Hoàn thành công tác tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ các địa phương theo kế hoạch: Huyện Chợ Mới (tháng 10/2024), huyện Thoại Sơn (tháng 11/2024); đảm bảo an toàn, đúng mục đích; trên tinh thần tiết kiệm, tránh phô trương, hình thức, kiên quyết phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm; (5) Chuẩn bị chu đáo tổ chức các sự kiện, hoạt động từ nay đến cuối năm: Lễ đón Bằng công nhận Trường Chính trị Tôn Đức Thắng đạt chuẩn mức 1; các hoạt động kỷ niệm 200 năm hoàn thành Kênh Vĩnh Tế (1824- 2024), tưởng niệm 198 năm ngày mất Bà Châu Thị Tế (1826-2024) – Tổ chức vào tháng 11/2024; (6) Hoàn thành các nội dung phục vụ Đoàn công tác của tỉnh tham gia kỳ họp xét duyệt hồ sơ Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại tại Paraguay (từ 02/12 đến 07/12/2024).

Thứ hai, về công tác xây dựng Đảng và Dân vận

Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm Kết luận số 21-KL/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Tôn Đức Thắng; Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 09/5/2024 của Bộ Chính trị về "Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới".

Tăng cường nắm bắt và dự báo tình hình tư tưởng, tâm trạng, dư luận xã hội. Chú trọng định hướng chính trị, tư tưởng; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch.

Tiếp tục củng cố, kiện toàn các chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp; hoàn chỉnh bổ sung quy hoạch cán bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020 - 2025, 2021 - 2026 và 2025 - 2030, 2026 - 2031. Rà soát, thẩm định, thẩm tra, xác minh kết luận tiêu chuẩn chính trị phục vụ công tác nhân sự đại hội. Kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng, đảng viên, tập thể, cá nhân năm 2024. Lãnh đạo, chỉ đạo công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo đảm an toàn, an ninh trật tự phục vụ đại hội đảng các cấp theo chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư.

Đẩy mạnh công tác dân vận trong hệ thống chính trị; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả của các mô hình "dân vận khéo", "dân vận khéo trong xây dựng nông thôn mới".

 Làm tốt công tác tuyên truyền, vận động Nhân dân chấp hành tốt chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước, gắn với bảo đảm an sinh xã hội. Kịp thời nắm bắt, xử lý tình hình Nhân dân, đoàn viên, hội viên và trong dân tộc, tôn giáo.

Thứ ba, phát triển kinh tế - xã hội

Tổ chức sản xuất thắng lợi vụ Thu Đông năm 2024 và chủ động triển khai các giải pháp chuẩn bị sản xuất vụ Đông Xuân 2024-2025. Theo dõi sát tình hình sụt lún, sạt lở bờ sông, kênh, rạch; chủ động triển khai thực hiện các biện pháp phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn.

 Đẩy mạnh thực hiện các chủ trương của Trung ương và của tỉnh trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn: (1) Đề án cơ cấu lại ngành nông nghiệp, (2) Đề án "Phát triển bền vững một triệu héc ta lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030" gắn với thúc đẩy liên kết sản xuất các ngành hàng Nông nghiệp theo chuỗi giá trị, nâng cao hiệu quả liên kết sản xuất; (3) Xây dựng nông thôn mới.

 Đẩy nhanh tiến độ giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2024, vốn thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia. Thường xuyên kiểm tra, đẩy nhanh tiến độ thực hiện Dự án tuyến đường bộ cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng đảm bảo đạt, vượt kế hoạch đề ra và các công trình, dự án trọng điểm của tỉnh như: Nhà hát tỉnh, Sân vận động tỉnh, tuyến đường liên kết vùng đoạn từ thị xã Tân Châu đến thành phố Châu Đốc, Bệnh viện Sản - Nhi An Giang…; đồng thời, kịp thời tháo gỡ khó khăn đối với các dự án đang triển khai để đẩy nhanh tiến độ. Quá trình thực hiện phải đảm bảo trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật; kiên quyết phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, lợi ích nhóm.

Tăng cường công tác quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ các nguồn tài nguyên, khoáng sản, trong đó thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác khoáng sản tại các mỏ cát được cấp Bản xác nhận; kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm; xử lý nghiêm các hành vi khai thác, vận chuyển, mua bán trái phép tài nguyên (đất, cát, đá, rừng...).

Tăng cường quảng bá tiềm năng, thế mạnh, cơ hội đầu tư tại tỉnh. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh; tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp triển khai thực hiện các dự án, sản xuất kinh doanh trên địa bàn đúng quy định pháp luật.

Tiếp tục triển khai hiệu quả các chính sách an sinh xã hội; thường xuyên nắm chắc tình hình lao động việc làm; kịp thời đề xuất, kiến nghị cấp có thẩm quyền bảo vệ lợi ích chính đáng cho người lao động, đặc biệt trong những tháng cuối năm. Chuẩn bị các phương án, kế hoạch vận động, chăm lo gia đình chính sách, người nghèo, có hoàn cảnh khó khăn vui xuân, đón Tết Ất Tỵ 2025.

 Tăng cường quản lý nhà nước về du lịch; đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá, liên kết du lịch. Theo dõi và kịp thời phối hợp, chỉ đạo, giải quyết khó khăn trong quá trình trình UNESCO công nhận Khu di tích khảo cổ Óc Eo - Ba Thê là Di sản văn hóa thế giới.

Thứ tư, về quốc phòng - an ninh, nội chính và đối ngoại

Các lực lượng chức năng tập trung tấn công, trấn áp các loại tội phạm, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; phối hợp tuần tra, kiểm soát tuyến biên giới, thực hiện tốt công tác phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, kết hợp với bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia.

Tăng cường công tác giám sát, nắm tình hình hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên để kịp thời phát hiện, chủ động kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm. Lãnh đạo, chỉ đạo tốt công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo đảm an toàn, anh ninh trật tự phục vụ đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội 14 của Đảng.

Lãnh đạo tăng cường công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án nghiêm trọng, phức tạp trên địa bàn tỉnh, nhất là các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Ban Chỉ đạo tỉnh, Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy theo dõi, chỉ đạo. Thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng, đối ngoại Nhân dân; tạo môi trường hòa bình, ổn định.

Kế thừa kết quả đạt được, với tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước Nhân dân, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tăng cường đoàn kết, đồng thuận, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện có hiệu quả các chương trình hành động và kết luận của Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ 17; phấn đấu hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị năm 2024, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025./.

NGỌC HÂN (tổng hợp)

Thoại Sơn: Điểm sáng về chăm lo đời sống nhân dânAn Giang 190 nămBài viếtKim CươngThoại Sơn: Điểm sáng về chăm lo đời sống nhân dân/SiteAssets/TS-vuon-minh-pt-5.jpg
13/09/2024 9:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, song Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân huyện Thoại Sơn luôn chung sức, đồng lòng, nỗ lực phấn đấu giành nhiều thành tựu trên các lĩnh vực. Trong đó, phải kể đến là đầu tư nâng cấp, hoàn thiện kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, đèn chiếu sáng các tuyến trọng điểm trên địa bàn huyện; xây dựng và phát triển hệ thống Quỹ Khuyến học - khuyến tài trên địa bàn huyện Thoại Sơn. Đây là cơ sở vững chắc, tạo điều kiện thuận lợi cho huyện Thoại Sơn phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Qua đó, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện đã đề ra.

TS-vuon-minh-pt-4.jpg 

Đường tỉnh 943

Nhìn những con đường nhựa, bê tông trải dài liên ấp, liên xã, liên huyện, những chiếc cầu bê tông vững chắc nối liền đôi bờ, ai cũng phấn khởi, tự hào. Đó là kết quả của sự đoàn kết, chung lòng của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tạo ra sự đột phá về cơ sở hạ tầng giao thông đồng bộ, khang trang, sạch đẹp. Đảm bảo kết nối liên xã, liên vùng, liên huyện, mở ra nhiều cơ hội cho người dân trong các hoạt động thương mại, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp được thông suốt hơn. Với sự chăm lo và đầu tư của Đảng và chính quyền, hiện nay, huyện có 12 tuyến đường huyện với tổng chiều dài 144,3 km; và 11 tuyến đường xã dài 42,9 km, đều được nhựa hóa hoặc bê tông hóa. Trong đó, có 02 tuyến đường cấp V dài 29,4km và 10 tuyến còn lại là đường cấp VI, hiện đang được đầu tư nâng cấp, mở rộng đạt chuẩn đường cấp V đồng bằng, các cầu bê tông đã kết nối với tỉnh và thông suốt từ huyện đến các xã, thị trấn. Điển hình một số công trình như: Tuyến đường NTM nối liền ba xã Định Mỹ - Mỹ Phú Đông - An Bình chiều dài hơn 17 km, chiều rộng mặt đường 5,5m (đoạn từ đường tỉnh 943 – đường tỉnh 947); Tuyến Tây Rạch Giá – Long Xuyên (Thoại Giang – Định Mỹ) có tổng chiều dài 7km, nền đường rộng 6,5m; mặt đường 5,5m. Đây là những tuyến đường liên xã, huyết mạch kết nối giao thông giữa các xã với các vùng lân cận và  là một trong những công trình tạo nên điểm nhấn trên bức tranh xây dựng NTM nâng cao của ba địa phương. Đặc biệt, công trình nâng cấp, mở rộng đường vào Khu Di tích đặc biệt Óc Eo – Ba Thê, thuộc Đường tỉnh 943 có tổng chiều dài 14,768 km; điểm đầu ở cầu Thoại Giang, điểm cuối ở cầu Mướp Văn; bề rộng nền đường 9m; đoạn qua thị trấn Óc Eo có bề rộng nền đường 10m. Và còn rất nhiều công trình khác đã tạo cho Thoại Sơn có một hệ thống giao thông rất thuận lợi.

Ông Trương Anh Dũng người dân xã Thoại Giang vui mừng chia sẻ: “Tôi là người kinh doanh, khi đường tỉnh lộ 943 từ xã Thoại Giang đến cầu Mướp Văn, xã Vọng Thê được nâng cấp, mở rộng chúng tôi rất vui mừng vì giúp cho việc giao, nhận hóa dễ dàng, thuận lợi hơn. Tôi nghĩ rằng trong tương lai với sự phát triển về đường như thế này, huyện ngày càng phát triển hơn nữa”.

Ông Võ Hữu Đầy người dân xã An Bình chia sẻ: “Những chủ trương của Đảng và chính quyền mình rất hay, đặc biệt trong quá trình xây dựng NTM, chúng tôi rất ủng hộ, phải nói đường giao thông được láng nhựa hết, được mở rộng, cả tuyến đường vào ruộng cũng bê tông, kéo theo là nâng cao đời sống của người dân về mọi mặt”.

Có thể khẳng định rằng, từ sự tin tưởng, đồng thuận của người dân đã tạo ra sức mạnh vượt qua mọi khó khăn, để chính quyền và Nhân dân cùng hướng về một mục tiêu chung xây dựng quê hương Thoại Sơn ngày càng phát triển.

TS-vuon-minh-pt-5.jpg

Tặng quà cho các em học sinh dân tộc Khmer

Một trong những điểm sáng về chăm lo đời sống của người dân phải kể đến công tác khuyến học, khuyến tài của huyện. Khắc sâu lời Bác dạy “Chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Công tác đó phải làm kiên trì, bền bỉ…”. Chính vì thế, trong nhiều năm qua, huyện đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc lĩnh vực giáo dục, chăm lo cho thế hệ tương lai của đất nước. Đề án 04 “Đề án xã hội hóa hoạt động xây dựng và phát triển hệ thống Quỹ Khuyến học - khuyến tài trên địa bàn huyện Thoại Sơn” được ban hành, đã nhận được sự quan tâm, ủng hộ từ các tổ chức, doanh nghiệp và nhà hảo tâm chăm lo sự nghiệp giáo dục huyện nhà, khơi dậy phong trào học tập rộng khắp… Điển hình, 23 quỹ khuyến học ở các trường tiểu học, THCS, THPT trên địa bàn huyện, với tổng số tiền trên 23 tỷ đồng. Trong đó, Quỹ Học bổng Nguyễn Văn Thoại đã đạt 5,2 tỷ đồng. Từ các nguồn quỹ này tạo điều cho các em học sinh nghèo được tiếp bước đến trường và kịp thời động viên, khích lệ các em vượt khó vươn lên trong học tập. Điểm chung của các quỹ là bảo toàn tuyệt đối nguồn quỹ, đi đôi với không ngừng tạo nguồn bổ sung phát triển quỹ. Có kế hoạch sử dụng đúng mục đích nguồn lãi kết dư định kỳ từ hệ thống quỹ, theo tôn chỉ mục đích và điều lệ quỹ quy định, chi phải đảm bảo thực sự hiệu quả, hợp lý giữa hoạt động khuyến học và hoạt động khuyến tài góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo và chủ động tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ mới, đáp ứng sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của huyện nhà.

Cô Trương Thị Mỹ Đẹp hơn 47 năm gắn bó với công tác giáo dục và khuyến học của địa phương, đã chứng kiến bao thâm trầm, thay đổi của quê hương từ vùng đất thường xuyên lũ lụt, đời sống người dân nghèo khó. Nhờ những chủ trương của Đảng và chính quyền qua từng giai đoạn về nông nghiệp, nông thôn, xây dựng NTM… để ngày hôm nay vươn lên đạt nhiều thành tựu đáng tự hào. Trong đó, phải kể đến lĩnh vực giáo dục, công tác khuyến học, khuyến tài. Cô Đẹp chia sẻ: “Thoại Sơn có được nguồn quỹ trên nhờ tâm quyết của các đồng chí lãnh đạo tỉnh, huyện khởi xướng, thành lập. Từ khi có quỹ khuyến học, khuyến tài chăm lo cho học sinh, khen thưởng giáo viên, việc học tập của các em có tiến bộ rõ rệt, khích lệ tinh thần học tập của học sinh, giảng dạy của giáo viên hơn. Đầu năm học hay tổng kết năm học đều có khen thưởng, trao học bổng, trao tập sách, vở, đồng phục… vì vậy tỉ lệ học sinh bỏ học vì nghèo cũng giảm đi đáng kể, sự phát triển giáo dục bền vững hơn”.

Em Nguyễn Hồng Quân – Trường THPT Nguyễn Văn Thoại chia sẻ: “Trong thời gian qua, quỹ học bổng đã giúp em và các bạn có hoàn cảnh khó khăn được bước tiếp trên con đường tri thức. Em sẽ cố gắng học tập thật tốt để món quà này trở nên ý nghĩa hơn bao giờ hết. Mong rằng quỹ học bổng sẽ được duy trì bền vững để hỗ trợ nhiều hơn những bạn học sinh đang ngày đêm nỗ lực trên con đường học tập”.

TS-vuon-minh-pt-6.jpg

Hiện trên địa bàn huyện có 52/67 trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 77,61% (trong đó có 14 trường mầm non; 19 trường tiểu học; 15 trường trung học cơ sở và 4 trường trung học phổ thông). Ghé thăm các ngôi trường trên địa bàn huyện, chúng ta dễ nhận thấy diện mạo mới, khang trang, sáng, xanh, sạch, đẹp, trang bị đầy đủ phòng chức năng, thiết bị phục vụ dạy và học. Tạo môi trường học tập an toàn, thân thiện giúp các em thích thú hơn trong học tập. Huyện Thoại Sơn thực hiện duy trì và nâng cao chất lượng đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học; phổ cập giáo dục trung học cơ sở và xóa mù chữ. Tỉ lệ học sinh khá, giỏi, học sinh đậu vào các trường đại học, cao đẳng cao.

Song song đó, chính quyền địa phương đã không ngừng nỗ lực để chăm lo công tác an sinh xã hội, xem đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên nhằm đảm bảo cuộc sống của người dân ngày càng ổn. Một trong những điểm nổi bật của huyện là việc thành lập được Quỹ Nghĩa tình đồng đội, Quỹ Hưu trí, Quỹ Ân sư, Quỹ Bảo trợ người khuyết tật, bệnh nhân nghèo và bảo vệ trẻ em huyện, Quỹ Hỗ trợ cán bộ từ trần (Nghĩa trang cán bộ), Quỹ Vì người nghèo, Quỹ Đình thần Thoại Ngọc Hầu, Quỹ Hội cựu Công an nhân dân với tổng số tiền trên 30 tỷ đồng. Từ đó, những ngôi nhà tình thương, nhà đại đoàn kết được xây lên đã tạo điều kiện cho các gia đình vươn lên trong cuộc sống. Từ năm 2020 - 2023 đã cất mới và sửa chữa 692 (cất mới 518 căn nhà ĐĐK, sửa chữa 174 căn) vượt kế hoạch giai đoạn 2020 – 2025. Hỗ trợ khám chữa bệnh, học sinh vượt khó; thăm hỏi tặng quà tết, trợ giúp khó khăn đột xuất… cho hàng ngàn lượt người.

TS-vuon-minh-pt-7.jpg

Với khát vọng, quyết tâm xây dựng Thoại Sơn phát triển toàn diện, vượt bậc về mọi mặt, phấn đấu trở thành huyện giàu mạnh hiện đại, văn minh, đời sống Nhân dân ngày càng được nâng cao. Qua 45 năm xây dựng và phát triển, Thoại Sơn giờ đây đã khoác lên mình một diện mạo mới, đầy sức sống, đang vững bước trên con đường phát triển, hướng đến một tương lai tươi sáng hơn.

Kim Cương

Tạo được niềm tin và ủng hộ mạnh mẽ từ Nhân dân, huyện Thoại Sơn đã về đích nông thôn mới nâng cao sớm nhấtAn Giang 190 nămBài viếtKim CươngTạo được niềm tin và ủng hộ mạnh mẽ từ Nhân dân, huyện Thoại Sơn đã về đích nông thôn mới nâng cao sớm nhất/SiteAssets/TS-vuongminh-k2-5.jpg
10/09/2024 6:00 SANoĐã ban hành

(TUAG)- Xác định xây dựng NTM là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu, “chỉ có điểm đầu, không có điểm kết thúc”, là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nông thôn, tăng thu nhập của người dân, đầu tư xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng, những năm qua, huyện Thoại Sơn đã có những bước đi và lộ trình thực hiện cụ thể, với những cách làm hiệu quả, giúp cho chương trình xây dựng NTM của huyện phát triển mạnh mẽ, trở thành huyện đi đầu của tỉnh An Giang về xây dựng NTM.

Từ năm 2010, Thoại Sơn chuyển sang một giai đoạn mới, đó là thực hiện công tác an sinh xã hội và xây dựng NTM, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững. Tiếp thu, quán triệt chủ trương, chính sách của cấp trên, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thoại Sơn luôn phát huy trí tuệ tập thể, phân công trách nhiệm rõ ràng cho các đồng chí cấp ủy viên từ huyện đến cơ sở, trong đó, đặc biệt chú ý đến vai trò của người đứng đầu; thận trọng, không nóng vội, mà tiến hành chọn xã điểm chỉ đạo để rút kinh nghiệm. Đồng thời, tập trung chỉ đạo phát triển liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị; thực hiện đề án cơ cấu lại ngành nông nghiệp, đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng công nghệ cao, nhằm nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn, tạo nguồn lực cho đầu tư xây dựng NTM lâu dài; vận dụng linh hoạt và sáng tạo các giải pháp về nguồn vốn và thủ tục đầu tư để thực hiện hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn, tạo sự đột phá cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, an ninh trật tự của địa phương; chú trọng việc xây dựng NTM gắn với việc khai thác triệt để thế mạnh của địa phương.

 TS-vuongminh-k2-1.jpg

Trình diễn máy sạ lúa - Nông dân được tận máy nhìn thấy máy hoạt động, được nhân viên kỹ thuật hướng dẫn cách điều chỉnh máy, lượng giống gieo sạ

Sau 09 năm thực hiện xây dựng NTM, huyện Thoại Sơn đã thật sự thay đổi và phát triển toàn diện: Tốc độ tăng trưởng của huyện bình quân giai đoạn 2011 - 2018 đạt 8,07%/năm, tổng giá trị sản xuất (GO) theo giá thực tế năm 2018 của huyện đạt 19.616 tỷ đồng, trong đó, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 7.679 tỷ đồng; công nghiệp - xây dựng, giá trị sản xuất đạt trên 4.831 tỷ đồng; thương mại, dịch vụ rất ổn định và phát triển; thu ngân sách Nhà nước năm 2018 đạt trên 103% chỉ tiêu tỉnh An Giang giao, tương đương 608 tỷ đồng; thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn huyện đạt trên 47 triệu đồng/người/năm, tăng trên 30 triệu đồng (gấp 3 lần) so với năm 2010; tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn của huyện chỉ còn 1,98%, giảm 2.819 hộ nghèo (tương đương 4,62%) so với năm 2011.

 TS-vuongminh-k2-2.jpg

Mô hình nuôi cá tra tại xã Vĩnh Chánh

Với những thành tựu đã đạt được, huyện Thoại Sơn đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận đạt chuẩn NTM năm 2018, về đích đầu tiên trong tỉnh. Năm 2019, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam cũng xác lập Thoại Sơn là huyện đầu tiên trong cả nước đạt ba danh hiệu: Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới và huyện NTM. Điều đó thể hiện vai trò chỉ đạo đúng hướng, các bước đi trong xây dựng NTM của huyện là phù hợp, hướng tới phục vụ, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của người dân, tạo được niềm tin và ủng hộ mạnh mẽ từ Nhân dân.

 TS-vuongminh-k2-3.jpg

Huyện Thoại Sơn đón Bằng công nhận của Thủ tướng Chính phủ đạt chuẩn Nông thôn mới năm 2018

Ông Trần Hữu Huệ người dân thị trấn Núi Sập cho biết: “Huyện Thoại Sơn trở thành huyện nông thôn mới đầu tiên của cả nước, đó là sự đoàn kết chung sức từ Nhà nước và Nhân dân, để bây giờ huyện tôi rất phát triển những con đường rộng rải, ngôi trường khang trang…, đời sống người dân được nâng lên rất nhiều, mọi người cũng vui vẻ vì được sự quan tâm, chăm lo của Nhà nước, rất tự hào với những tựu của quê hương”.

Sau năm 2018, huyện tiếp tục triển khai nâng chất giữ vững những thành quả đạt được và tiến hành thực hiện các tiêu chí huyện NTM nâng cao. Huyện ủy, UBND huyện đã triển khai Chương trình hành động số 05-CTr/HU ngày 07/12/2020 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thoại Sơn về thực hiện xây dựng huyện NTM nâng cao giai đoạn 2021 - 2025, và UBND huyện đã ban hành Kế hoạch số 21/KH-UBND ngày 20/01/2021 về việc thực hiện lộ trình các xã đạt chuẩn NTM nâng cao, kiểu mẫu và các tiêu chí huyện NTM nâng cao giai đoạn 2021 – 2025. Từ những chủ trương, chính sách trên, không chỉ nhiệt tình, tích cực đóng góp ngày công lao động, của cải vật chất, người dân đóng góp ý kiến vào quá trình thực hiện các chính sách, kế hoạch của địa phương. Được thể hiện rõ nét nhất qua các công trình xây dựng cầu, đường nông thôn, xây nhà đại đoàn kết, các công trình phục vụ nông nghiệp….trong đó, có sự giám sát, kiểm tra của người dân. Điều này tạo sự thống nhất, gắn bó giữa chính quyền địa phương với nhân dân góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của huyện.

 TS-vuongminh-k2-4.jpg

Qua hơn 3 năm, huyện Thoại Sơn đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, hệ thống hạ tầng giao thông nông thôn của huyện không ngừng được đầu tư và mở rộng; kinh tế - xã hội có bước phát triển khá, diện mạo nông thôn có sự thay đổi; đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân được nâng lên. Với quyết tâm phục hồi và phát triển kinh tế, tạo đà để hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Riêng sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản được mùa, được giá nên có mức tăng trưởng khá cao, tiếp tục là bệ đỡ vững chắc cho nền kinh tế. Ước tổng giá trị sản xuất ngành nông, lâm, thủy sản đạt 10.642 tỷ đồng (giá thực tế), tăng 5,46% so năm 2018. Tổng giá trị sản xuất ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đạt 5.855 tỷ đồng (theo giá thực tế), tăng 15,53% so năm 2018.

Là huyện đầu tiên của tỉnh có 100% số xã đạt chuẩn NTM nâng cao. Trong đó, năm 2020 có 08 xã đạt chuẩn NTM nâng cao (Vĩnh Trạch, Thoại Giang, Định Thành, Định Mỹ, Bình Thành, Vọng Đông, An Bình và Vĩnh Phú) và năm 2021 có 06 xã đạt chuẩn NTM nâng cao (Tây Phú, Vọng Thê, Vĩnh Khánh, Mỹ Phú Đông, Vĩnh Chánh và Phú Thuận). Năm 2023 xã Định Thành và Vĩnh Trạch đạt chuẩn xã NTM kiểu mẫu. Có được kết quả đó Huyện ủy, HĐND, UBND đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên, đoàn viên và nhân dân tích cực hưởng ứng cuộc vận động và phong trào thi đua “Toàn dân chung sức xây dựng NTM” đã tạo được sự lan tỏa mạnh mẽ, xuất hiện nhiều mô hình hay như “Hành lang giao thông thông thoáng, mỗi nhà làm hàng rào cây xanh, cột cờ thẳng tắp”, “Ấp tự quản bảo vệ môi trường”, mô hình tiêu biểu gắn với “Dân vận khéo” về xây dựng cầu, đường, nhà, làm kinh tế… góp phần quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, tập hợp quần chúng nhân dân, tạo sự đồng thuận của toàn xã hội trong xây dựng NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu.

Cùng với đó, đã triển khai thực hiện hỗ trợ phát triển sản xuất gắn với mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên 14 xã với 116 mô hình với tổng kinh phí 31 tỷ đồng, trong đó vốn hỗ trợ từ Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng NTM 7,5 tỷ đồng, phát triển 22 sản phẩm đạt OCOP 3 sao trở lên, các sản phẩm chủ lực này được các cơ sở, hộ kinh doanh đưa bán trên các kênh thương mại điện tử góp phần mang lại thu nhập cao cho người sản xuất. Từ đó, hộ nghèo trên địa bàn huyện cuối năm 2023 còn lại là 501/42.938 hộ, chiếm tỷ lệ 1,17% so với năm 2010 giảm 5,43% và giảm 1,93 % so thời điểm được công nhận huyện NTM năm 2018.

Là chủ trang trại nuôi bò thịt tuần hoàn, theo chu trình khép kín đã đem lại thu nhập ổn định cho gia đình và tạo thêm việc làm cho 2 lao động ở địa phương. Ông Diệp An Hòa - ấp Hòa Tân xã Định Thành chia sẻ: “Với tổng số vốn đầu tư 573 triệu đồng, trong đó nguồn kinh phí từ Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng NTM 200 triệu đồng, tôi đầu tư diện tích trang trại 1,5 ha, trong đó 1 ha tôi trồng cỏ và 0,5 ha diện tích chuồng trại và hệ thống làm mát giúp bò phát triển tốt hơn. Nhờ ứng dụng quy trình chăn nuôi tuần hoàn, nguồn phân thải ra trong quá trình chăn nuôi được xử lý bằng chế phẩm sinh học đã trở thành nguồn phân bón cho ruộng cỏ và bán lại cho các hộ trồng cây trong xã”.

Từ những thành tựu quan trọng đó, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Đây không chỉ là thành quả của sự nỗ lực từ phía chính quyền và Nhân dân mà còn là nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững trong tương lai.

 TS-vuongminh-k2-5.jpg

Huyện Thoại Sơn đón Bằng công nhận của Thủ tướng Chính phủ đạt chuẩn Nông thôn mới nâng cao năm 2023

Sáng 9/9, UBND tỉnh An Giang tổ chức Lễ Kỷ niệm 45 năm ngày tái lập huyện Thoại Sơn (23/8/1979 - 23/8/2024) và công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ công nhận huyện Thoại Sơn đạt chuẩn Nông thôn mới nâng cao năm 2023. Thoại Sơn vinh dự  trở thành 1 trong 3 huyện đầu tiên của vùng Đồng bằng sông Cửu Long được công nhận huyện nông thôn mới nâng cao. Tổ chức Kỷ lục Việt Nam cũng đã  trao bằng xác lập Kỷ lục Việt Nam là huyện vận động xã hội hóa được nhiều nguồn quỹ nhất để phục vụ công tác an sinh xã hội (với 31 nguồn quỹ thiện nguyện).

Phát biểu tại Lễ công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ công nhận huyện Thoại Sơn đạt chuẩn Nông thôn mới nâng cao, Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Lê Văn Phước đã ghi nhận, biểu dương những thành tựu mà huyện Thoại Sơn đạt được trong 45 năm tái lập và phát triển. Đồng chí đề nghị: Các cấp uỷ, chính quyền tiếp tục quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo; phát huy vai trò người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể trong tổ chức, triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới tại địa phương; hướng đến xây dựng các xã nông thôn mới nâng cao đạt chuẩn xã nông thôn mới kiểu mẫu trong thời gian tới. Tiếp tục huy động nguồn lực xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại gắn với việc phát triển các đô thị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, nhất là người dân ở nông thôn. Quan tâm phát triển bền vững và bảo vệ môi trường nông nghiệp, nông thôn theo hướng sạch, xanh và bền vững gắn với phát triển du lịch (du lịch tâm linh, du lịch nông nghiệp, du lịch sinh thái, du lịch trải nghiệm..), chuyển đổi số quốc gia. Đặc biệt, triển khai có hiệu quả Đề án “Phát triển bền vững 01 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhằm góp phần nâng cao thu nhập của người dân khu vực nông thôn…

(Còn tiếp) Kỳ cuối: Điểm sáng về chăm lo đời sống Nhân dân

Kim Cương

Thoại Sơn vươn mìnhBài viếtKim CươngThoại Sơn vươn mìnhhttps://www.angiang.dcs.vn/Imagesnews/2019-12/Ho-ong-thoai-1.jpg
08/09/2024 2:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Thấm nhuần quan điểm "lấy dân làm gốc," Đảng bộ huyện Thoại Sơn luôn đặt lợi ích và nguyện vọng của người dân lên hàng đầu trong mọi chủ trương, chính sách. Đảng bộ luôn lắng nghe và đồng hành cùng Nhân dân, còn người dân thì luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện qua việc cùng nhau chung sức vượt qua những khó khăn, gian khó, đồng lòng xây dựng huyện Thoại Sơn đạt được những tựu nổi bật như: Anh hùng lực lượng vũ trang năm 2000, Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới năm 2009 và huyện Nông thôn mới (NTM) năm 2018, huyện NTM nâng cao năm 2023. Chính sự chung sức, đồng lòng ấy đã góp phần xây dựng một Thoại Sơn ngày càng giàu đẹp, văn minh, trở thành niềm tự hào của tất cả những người dân gắn bó với mảnh đất này.

Kỳ 1: Nỗ lực vượt khó, bứt phá vươn lên, xứng danh Anh hùng Lao động

Thoại Sơn chính thức có tên trên bản đồ hành chính từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công. Qua nhiều lần chia tách, sáp nhập địa giới hành chính, ngày 23/8/1979, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 300/CP tái lập huyện Thoại Sơn.

TS-vuon-minh-pt-1.jpg
Cầu Thoại Giang (thị trấn Núi Sập) trước đây

Trong những ngày đầu tái lập, Thoại Sơn phải đối mặt với muôn vàn khó khăn thử thách, là địa phương chịu ảnh hưởng khá nặng nề do hậu quả của chiến tranh để lại nên cơ sở hạ tầng về nông nghiệp, giao thông nông thôn, văn hóa, y tế, giáo dục yếu kém. Với địa hình "sáu tháng mùa khô, sáu tháng đi trên mặt nước", quanh năm người dân đi lại bằng xuồng ghe, kinh tế thuần nông chủ yếu là độc canh cây lúa mùa nổi, đời sống người dân khó khăn, số hộ nghèo chiếm 50%.

Vạn sự khởi đầu nan, với quyết tâm "Phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân", Đảng bộ huyện Thoại Sơn đã lãnh đạo, phát động thi đua lao động sản xuất kinh doanh đưa huyện nhà đi lên bằng sự đoàn kết, cố gắng, nỗ lực vượt khó và sáng tạo trên tinh thần "Dám nghĩ, dám làm, biết làm và dám chịu trách nhiệm".

Ông Hồ Việt Hiệp, nguyên Phó Chủ tịch UBND tỉnh cho biết: Đảng bộ huyện Thoại Sơn luôn trăn trở tìm con đường, hướng đi để vươn lên. Khát vọng đó bùng phát khi tiếp nhận luồng gió đổi mới từ Đại hội lần thứ VI của Đảng và Đại hội Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ IV. Thoại Sơn đã linh động vận dụng một cách sáng tạo, cụ thể các nghị quyết của Tỉnh ủy vào đặc thù của địa phương với quyết tâm đổi mới tạo bước chuyển mình từ sản xuất nông nghiệp.

Trên cơ sở chủ động bàn bạc với dân, đánh giá đúng thực tiễn, huyện đã mạnh dạn giao đất để nông dân tự chủ trong sản xuất; giao máy móc lại cho chủ cũ để sản xuất và làm dịch vụ, xóa bỏ hẳn khái niệm "xâm canh". Những đột phá trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng đã tạo được dấu ấn mạnh mẽ của huyện Thoại Sơn phải kể đến như: Đột phá về cơ chế khoán trong sản xuất nông nghiệp; về cơ chế phân phối, lưu thông làm giàu cho ngân sách huyện; về cơ chế phân phối lương thực nên đã giải quyết được vấn đề ổn định lương thực và thực hiện một số chính sách xã hội, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội...

Xác định thủy lợi là khâu đột phá khai thông huyết mạch cho ngành nông nghiệp, chỉ trong thời gian ngắn huyện đã huy động hàng trăm xáng cạp, máy móc để đào mới 48 tuyến kinh cấp 2, với tổng chiều dài 331.000 m, việc rửa phèn và nguồn nước tưới tiêu được bảo đảm, tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân sản xuất, năng suất và sản lượng lúa tăng lên đáng kể. Đến năm 1990 huyện đã thực hiện thành công chủ trương chuyển vụ, chuyển từ sản xuất lúa một vụ sang hai vụ/năm với hơn 37.000 ha, đã làm tăng vòng quay của đất. Thành công của công tác chuyển vụ tạo ra một bước chuyển mới trong sản xuất, làm cho bộ mặt nông thôn thay đổi nhanh chóng. Đồng thời, đây cũng là tiền đề để giải quyết tốt các vấn đề về văn hóa, giáo dục, y tế... và nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân.

TS-vuon-minh-pt-2.jpg
Thị trấn Núi Sập hiện nay

Giai đoạn từ năm 2000-2005 có thể xem là thời gian đặt nền móng cho việc bứt phá, tăng tốc khi huyện đề ra chiến lược phát triển bằng việc tổ chức thực hiện 13 đề án kinh tế - xã hội như: Xây dựng giao thông nông thôn, xây dựng hệ thống đê bao kiểm soát lũ, xây dựng hệ thống đèn đường với chủ trương "Nhà nước và Nhân dân cùng làm"… Nhờ đó mà các thế mạnh của huyện được phát huy cao độ, những đột phá mạnh mẽ về nông nghiệp, nông thôn, nông dân đã góp phần quyết định đưa Thoại Sơn từ một huyện nghèo, yếu kém ít người biết đến trở thành huyện ở tốp đầu của tỉnh trong phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội.

TS-vuon-minh-pt-3.jpg
Nhiều tuyến đường nông thôn được đầu tư xây dựng khang trang

Đến năm 2008, GDP tăng lên 2.295 tỷ đồng (2003 là 952 tỷ đồng), tốc độ tăng trưởng 15,63% nằm trong tốp đầu của tỉnh. GDP bình quân đầu người đạt hơn 19 triệu đồng/năm tăng gấp 2,37 lần so với năm 2003. Việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, tổ chức sản xuất vụ 3 mang tính đột phá nhằm nâng cao sản lượng, góp phần đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu. Từ đó đã kích thích ngành công nghiệp xây dựng, thương mại và dịch vụ phát triển nhanh tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh, đúng hướng. Kinh tế phát triển tạo điều kiện đầu tư cơ sở hạ tầng, văn hóa xã hội ngày càng mạnh mẽ, chất lượng hoạt động của ngành giáo dục, y tế, văn hóa được nâng lên; công tác an sinh xã hội và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.

Đặc biệt, huyện đã hình thành hệ thống đường giao thông nông thôn với tổng chiều dài 400 km, 197 cây cầu bê tông, cầu treo và gần 270 km đèn đường chiếu sáng nông thôn, tổng kinh phí đầu tư gần 800 tỷ đồng. Đây là bước ngoặt quan trọng để huyện đón nhận danh hiệu "Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới" do Chủ tịch nước phong tặng năm 2009.

(Còn tiếp) Kỳ 2: Tạo được niềm tin và ủng hộ mạnh mẽ từ Nhân dân, huyện Thoại Sơn đã về đích nông thôn mới nâng cao sớm nhất

Kim Cương

Bác Tôn - nhà lãnh đạo yêu nước, thương dânAn Giang 190 nămBài viếtHoàng KỳBác Tôn - nhà lãnh đạo yêu nước, thương dân/SiteAssets/Bithu-tu-danghuong-bacton-24-8.jpg

Hoàng Kỳ (*)

19/08/2024 4:00 CHNoĐã ban hành

(TUAG)- Chủ tịch Tôn Đức Thắng - nhà lãnh đạo mẫu mực, người cộng sản kiên trung, người bạn chiến đấu thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời - suốt đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với 92 tuổi đời, gần 70 năm liên tục hoạt động cách mạng, được Đảng, Nhà nước phân công giữ nhiều trọng trách, Chủ tịch Tôn Đức Thắng là người chiến sĩ kiên cường và mẫu mực, vị lãnh tụ kính mến và thân thiết, trọn đời đấu tranh vì độc lập, tự do cho Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân. Đồng chí là tấm gương sáng để các thế hệ học tập, noi theo.

Bithu-tu-danghuong-bacton-24-8.jpg

Lãnh đạo tỉnh dâng hương nhân kỷ niệm 136 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng

Cách đây 136 năm, ngày 20/8/1888, Chủ tịch Tôn Đức Thắng được sinh ra trong một gia đình nông dân ở Cù lao Ông Hổ, làng An Hòa, tổng Định Thành Hạ, hạt Long Xuyên, nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Thân phụ là cụ Tôn Văn Đề và thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Dị, đều là những nông dân cần cù, hiền lành, chất phác. 

Tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc

Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng sôi nổi, phong phú, đầy gian lao, thử thách và vinh quang của Chủ tịch Tôn Đức Thắng mà đồng bào, đồng chí trìu mến gọi là Bác Tôn gắn liền với lịch sử đấu tranh oanh liệt của dân tộc ta trong thế kỷ XX. Là người con ưu tú của quê hương An Giang giàu truyền thống yêu nước anh hùng và cách mạng, ngay từ khi còn là học sinh, Đồng chí đã sớm giác ngộ cách mạng, tham gia phong trào yêu nước chống thực dân Pháp. Trong những năm tháng tuổi trẻ bôn ba ở nước ngoài, hoạt động trong phong trào công nhân Pháp, Đồng chí đã tham gia cuộc nổi dậy của Hải quân Pháp ở Biển Đen ngày 20/4/1919, ủng hộ cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, chống sự can thiệp vũ trang của các nước đế quốc đối với Nhà nước Xôviết non trẻ, góp phần bảo vệ thành trì của cách mạng vô sản thế giới.

Năm 1920, Bác Tôn đã bí mật tổ chức, tập hợp lực lượng công nhân, thành lập Công hội bí mật với mục đích là đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau và đấu tranh chống áp bức bóc lột của chính quyền thực dân, bênh vực quyền lợi của công nhân, từng bước chuyển phong trào công nhân Việt Nam từ giai đoạn "tự phát" sang giai đoạn "tự giác", tạo nên cơ sở xã hội quan trọng để giai cấp công nhân vươn lên tiếp nhận học thuyết cách mạng, khoa học, tiên tiến của thời đại.

Những năm tháng bị tù đày gian khổ trong ngục tù đế quốc, lòng yêu nước, thương dân không ngừng được hun đúc trong con người Tôn Đức Thắng với đức hy sinh và tình thương yêu đối với đồng chí, anh em. Hình ảnh người chiến sĩ cách mạng chân chính, gần gũi, phương pháp thuyết phục, sự quan tâm chăm sóc sức khỏe các bạn tù, đồng thời vững vàng, gan góc trước bọn cai ngục, thậm chí sẵn sàng che thân hứng chịu những trận đòn roi tàn bạo của kẻ thù để che chở cho đồng chí, đồng đội đã tạo sự cảm phục, tin yêu đối với tù nhân. Đồng chí đã tổ chức sáng lập Chi bộ đặc biệt ở Nhà tù Côn Đảo và trở thành một trong những người lãnh đạo của các tù nhân Côn Đảo. Cùng với các chiến sĩ cộng sản khác, Đồng chí đã tích cực đấu tranh đòi cải thiện điều kiện sinh hoạt và biến chốn lao tù đế quốc tăm tối, tàn bạo thành trường học cách mạng.

Cách mạng Tháng Tám thành công, từ nhà tù Côn Đảo trở về, vừa đặt chân lên đất liền, Bác Tôn đã tham gia ngay vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tháng 3/1946, Bác Hồ và Chính phủ đón Bác Tôn ra Hà Nội. Bác được Đảng, Nhà nước phân công đảm nhận nhiều trọng trách quan trọng: Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch danh dự Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Chủ tịch Hội Việt - Xô hữu nghị, Ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới, Phó Chủ tịch nước. Ngày 22/9/1969, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa III, Đồng chí được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất vào tháng 7/1976, Đồng chí được bầu làm chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng chí từ trần ngày 30/3/1980 tại thủ đô Hà Nội, hưởng thọ 92 tuổi.

Bithu-tu-danghuong-bacton-24-9.jpg

Lãnh đạo tỉnh dâng hương nhân kỷ niệm 136 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng

Nhà lãnh đạo mẫu mực, nghĩa tình và liêm khiết

Bác Hồ từng dạy: "Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa" và chính Bác Tôn đã lĩnh hội chủ nghĩa Mác - Lênin theo tinh thần nhân văn cao cả đó: Bác thương những người ruột thịt trong gia đình, bà con hàng xóm, thương những người thợ cùng làm, cùng cảnh ngộ, thương đồng bào bị bóc lột, đàn áp; sống chí tình, chí nghĩa với đồng chí, bạn bè.

Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng khẳng định: Bác Tôn muốn sống như một con người thật bình thường. Chính vì thế, Bác Tôn vĩ đại... Bác thích một vị trí đảng viên cộng sản như mọi đảng viên, thích vị trí công dân trung thực, lương thiện, cố mang điều tốt, cố mang niềm vui, cố giảm nỗi đau cho đồng bào. Nhớ Bác Tôn, nhớ bài học mà Bác lấy cả đời mình làm mẫu, chính là tìm cái vĩ đại trong cái bình thường của một con người coi như đơn giản mà cực kỳ phức tạp khó khăn đối với những ai nắm quyền trong tay.

Trải qua nhiều trọng trách được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó, Bác Tôn là tấm gương mẫu mực về tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh cách mạng kiên cường, lòng trung thành, tận tụy; đạo đức trong sáng, mẫu mực, đức tính khiêm tốn, giản dị; tình thương yêu đồng chí, đồng bào; tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc và tình đoàn kết quốc tế vô sản trong sáng.

Trên cương vị Chủ tịch nước, dù bận rất nhiều công việc, Bác Tôn vẫn quan tâm thăm hỏi, động viên các đồng chí thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ. Hằng năm, vào dịp Ngày thương binh, liệt sĩ 27/7, Bác thường gửi thư thăm hỏi ân cần đến các đồng chí thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội. Bác động viên anh em yên lòng chữa bệnh và nhắc nhở cán bộ, nhân viên điều trị hết lòng chăm sóc, chữa bệnh cho anh em thương binh, bệnh binh.

Trong cuộc sống hằng ngày, Bác Tôn rất khiêm tốn, giản dị, thanh bạch, liêm khiết, chính trực và nghĩa tình. Bác ghét thói đặc quyền, đặc lợi, không bao giờ lợi dụng vị trí công tác của mình để mưu cầu hạnh phúc riêng cho gia đình, cá nhân. Cả ba lần Trung ương định xây nhà cho Bác và người thân, nhưng Bác đều từ chối. Bác cho rằng, trong khi đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, mình ở như thế là tốt lắm rồi. Bác chỉ ở cùng gia đình trong căn nhà số 35, Trần Phú, Hà Nội. Sau khi Bác gái qua đời, khi thấy mình tuổi đã cao, Bác Tôn liền đề nghị chuyển gia đình các con ra ngoài ở để chuẩn bị sau này khi Bác qua đời, dễ bề trả lại ngôi nhà cho Nhà nước. Một hành động nhỏ nhưng chứa đựng cả một triết lý nhân sinh vô cùng cao đẹp, thể hiện nếp sống giản dị, liêm khiết của vị Chủ tịch nước đáng kính.

Có lần, một cán bộ chuẩn bị vượt Trường Sơn về Nam công tác, trước khi rời Hà Nội đồng chí đến thăm sức khỏe và chào Bác Tôn. Hôm đó thấy Bác mặc chiếc áo cũ bị rút ngắn, Bác may nối thêm một khúc. Đồng chí hỏi: "Bác ơi, làm Chủ tịch nước sao Bác mặc áo cũ nối thế này?". Bác cười độ lượng trả lời: "Chủ tịch nước mặc áo nối thì dân mới có đủ cơm ăn". Đồng chí rưng rưng nước mắt trước tấm lòng yêu nước, lo cho dân của Bác Tôn. Niềm vui và nỗi đau của đất nước chính là nhịp đập chung của trái tim giàu lòng nhân ái, cả cuộc đời chăm lo cho sự nghiệp chung, không màng danh vọng cá nhân.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng vẻ vang của mình, dù gặp muôn vàn gian nan, thử thách, Bác Tôn luôn nêu cao khí phách của người chiến sĩ cách mạng, một lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Tấm gương sáng ngời của Chủ tịch Tôn Đức Thắng là hiện thân tiêu biểu cho tính cách, khí chất, phong thái và nét văn hóa đặc sắc của người Nam Bộ nói chung và An Giang nói riêng: Thương người, hào sảng, trọng nghĩa, bao dung độ lượng, hết lòng vì bạn bè, đồng chí, dũng cảm, mưu trí, vượt mọi khó khăn trở ngại vì nghĩa lớn. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận xét: "Di sản quý nhất mà đồng chí Tôn Đức Thắng để lại cho Nhân dân là chất NGƯỜI Tôn Đức Thắng, sản phẩm tổng hợp của chất hào hiệp Nam Bộ, chất kiên cường và tài năng sáng tạo Việt Nam, chất tiên phong của giai cấp công nhân, chất cách mạng của người yêu nước, người cộng sản, chất nhân đạo của con người. Tinh túy của chất ấy là lòng yêu nước, thương dân, niềm ưu ái với đồng bào, đồng chí; niềm tin sắt đá vào thắng lợi của cách mạng, mặc dù mọi khó khăn gian khổ, tinh thần một lòng một dạ phục vụ Nhân dân, đức chí công vô tư quên mình, sự khiêm tốn, giản dị, hồn nhiên, trong sáng"[1].

Năm 1958, nhân kỷ niệm sinh nhật lần thứ 70 của Bác Tôn (20/8), Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định tặng Bác Tôn Huân chương Sao Vàng. Tại lễ trao tặng, trước khi gắn tấm Huân chương Sao Vàng lên ngực áo Bác Tôn, Bác Hồ rất vui và xúc động phát biểu: "Đồng chí Tôn Đức Thắng là người con ưu tú của Tổ quốc, suốt 50 năm đã không ngừng hoạt động cách mạng. 17 năm bị thực dân Pháp cầm tù, chín năm tham gia lãnh đạo kháng chiến, bốn năm phấn đấu để bảo vệ hoà bình thế giới và đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà. Đồng chí Tôn Đức Thắng 70 tuổi nhưng rất trẻ, đối với Đảng, đồng chí là 28 tuổi; đối với nước Việt Nam độc lập, đồng chí là 13 tuổi... Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: Suốt đời cần kiệm liêm chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân… Thay mặt Nhân dân và Chính phủ, tôi trân trọng trao tặng đồng chí Tôn Đức Thắng Huân chương Sao Vàng, là Huân chương cao quý nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà đồng chí Tôn Đức Thắng là người đầu tiên và là người rất xứng đáng được tặng Huân chương ấy".

Bac-Ton-nhan-huanchuongsaovang.jpg

Trái tim luôn hướng về quê hương

Sớm thoát ly gia đình tham gia hoạt động cách mạng nên tình yêu và nỗi nhớ quê hương luôn da diết khôn nguôi, Bác luôn dành những tình cảm sâu nặng đối với quê hương. Trong trái tim Bác lúc nào cũng nghĩ tới đồng bào Miền Nam, về quê hương An Giang ruột thịt. Vào dịp Tết nguyên đán, hội đồng hương Long Châu Hà thường tổ chức họp mặt, Bác đều đến dự. Bác ân cần hỏi thăm sức khỏe mọi người, âu yếm ôm hôn các bé, tặng quà và nói chuyện thân mật với những người họp mặt. 

Trong bài viết gởi về miền Nam nhân dịp Quốc khánh 2/9/1959, Bác tâm sự: "Có những đêm khuya, bên bàn làm việc, có những buổi mai vừa thức giấc, hoặc những buổi chiều suy nghĩ, bâng khuâng, nhìn tấm bản đồ nước ta, hình dung non sông gấm vóc từ Nam Quan đến Cà Mau liền một dải, sao đôi mắt mình bỗng mờ đi khi dừng lại ở ranh giới giả tạo mà quân thù Mỹ - Diệm cố tình chia cắt nước ta".

    Phát biểu tại Hội nghị chính trị đặc biệt ngày 27/3/1964, trên cương vị Phó Chủ tịch nước, Bác Tôn chia sẻ: "Tôi muốn được nói với đồng bào miền Nam rằng, từng giờ, từng phút tôi luôn nghĩ đến miền Nam ... nhớ đến đồng bào miền Nam ruột thịt đã chịu bao đau thương tang tóc, đang chiến đấu anh dũng chống bọn cướp nước hại dân vô cùng hung ác. Tôi muốn được sát cánh với đồng bào trong cuộc đấu tranh, cùng đồng bào chia sẻ những gian khổ hy sinh để giải phóng quê hương yêu dấu nhưng đáng tiếc là chưa có điều kiện".

Sau bao năm xa cách, tháng 10/1975, Bác Tôn có dịp về thăm quê hương An Giang. Chuyến về thăm quê tuy ngắn ngủi nhưng hết sức xúc động. Trong buổi họp mặt đại biểu nhân dân An Giang, Bác Tôn xúc động nói: "Hôm nay, Đảng và Nhà nước cho phép tôi về thăm quê nhà. Chưa bao giờ tôi thấy sung sướng như lúc này, khi cả nước được độc lập, tự do, Bắc - Nam thống nhất. Tôi chẳng mong gì hơn là An Giang trở thành tỉnh xuất sắc, giàu mạnh, Nhân dân được ấm no, ai cũng được học hành như Bác Hồ mong muốn trong Di chúc lịch sử của Người".

Tinh hoa dân tộc, cốt lõi miền đất phóng khoáng và mộc mạc An Giang, tính cách người thợ thành phố Sài Gòn và phong trào công nhân, chủ nghĩa Mác -Lênin, lý tưởng cộng sản, trí tuệ và đức độ Hồ Chí Minh - tất cả tổng hợp nên một Tôn Đức Thắng, gia tài của dân tộc, của Nam bộ và An Giang.

An Giang học tập và làm theo tấm gương Bác Tôn

Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương, học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Tôn, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang  không ngừng đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, phát huy ý chí tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung, vận dụng sáng tạo những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với đặc điểm, tình hình của địa phương, đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân ngày càng cải thiện, quốc phòng – an ninh được đảm bảo.

Từ một tỉnh thiếu lương thực trong những năm đầu sau giải phóng, đến nay An Giang trở thành một trong các tỉnh đứng đầu cả nước về sản lượng, góp phần đảm bảo an ninh lương lực quốc gia và xuất khẩu, sản lượng lúa duy trì khoảng 04 triệu tấn/năm. Giai đoạn 2000 - 2023, tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì mức bình quân 7,3%/năm, cao hơn mức bình quân chung của cả nước. GRDP bình quân đầu người năm 2023 ước đạt 60,55 triệu đồng/người/năm.

Cùng với phát triển kinh tế, công tác an sinh xã hội luôn được cấp ủy, chính quyền đặc biệt quan tâm, thật sự trở thành điểm sáng, niềm tự hào của địa phương. Đến nay, tỉnh đã cơ bản xây dựng hệ thống an sinh xã hội khá đồng bộ, nhất là các chính sách về tạo việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu cho người dân; cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, chính sách ưu đãi đối với người có công.

Học tập lối sống nhân hậu, nghĩa tình của Bác Tôn, những năm qua An Giang phát triển đa dạng các mô hình xã hội từ thiện dựa vào cộng đồng, góp phần chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân: Cất nhà Đại đoàn kết, xây cầu, làm đường, các công trình công cộng, nghĩa trang nhân dân... được đông đảo Nhân dân đồng tình, ủng hộ. Chỉ riêng giai đoạn 2020 - 2023, quỹ "Vì người nghèo" các cấp trong tỉnh đã tiếp nhận tiền và hiện vật trị giá trên 307, 2 tỷ đồng. Kết quả chi hỗ trợ sửa chữa, cất mới hàng ngàn căn nhà Đại đoàn kết; thăm hỏi, tặng quà cho hộ nghèo; trợ giúp khó khăn đột xuất; trợ giúp học sinh học khó khăn; hỗ trợ khám bệnh cho người nghèo; thực hiện chương trình an sinh xã hội,v.v.. Toàn tỉnh hiện có trên 200 xe chuyển bệnh miễn phí, trong đó 180 xe chuyên dụng, trị giá trên 120 tỷ đồng. Tất cả 11 huyện, thị xã, thành phố đều phát triển mô hình mua xe chuyển bệnh bằng hình thức xã hội hóa.

Thời gian tới, để đẩy mạnh học tập và làm theo Bác Tôn về tấm lòng yêu nước, thương dân, An Giang sẽ tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội xác định chăm lo đời sống nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và thực hiện với quyết tâm chính trị cao hơn. Theo đó, các cấp ủy tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các cấp, các địa phương, cơ quan, đơn vị có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm không ngừng nâng cao đời sống của vật chất và tinh thần của Nhân dân. Tập trung, nỗ lực, huy động tốt các nguồn lực của Nhà nước và cộng đồng xã hội để xây dựng quê hương An Giang ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Thứ hai, mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự quý trọng dân, thương yêu, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân. Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của Đảng và của Nhân dân lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình; hết lòng hết sức phục vụ Nhân dân; luôn khắc sâu vào tâm trí mình đạo lý "yêu nước, thương dân", phải "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân". Mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của Nhân dân.

Thứ ba, việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm; việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh, tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh. Trong nhận thức và hành động, mỗi cán bộ, đảng viên tuyệt đối không xâm phạm đến lợi ích, quyền lợi hợp pháp, không xúc phạm Nhân dân. Nêu cao ý thức tôn trọng và giữ gìn của công và của Nhân dân. Không được phung phí thời gian, nhân lực vật lực của dân, tránh làm những điều có hại cho đời sống nhân dân. Thường xuyên nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng và kịp thời giải quyết những khó khăn, bức xúc của dân, phải biết giúp đỡ Nhân dân.

Thứ tư, dựa vào dân, đem tài dân, sức dân, của dân, trí dân để làm lợi cho dân. Mục đích của phát triển kinh tế - xã hội suy đến cùng là phục vụ Nhân dân, do đó phải động viên toàn dân, dựa vào dân, biết phát huy sức người, sức của, tinh thần làm chủ, tổ chức và giáo dục Nhân dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của Nhân dân và tạo điều kiện cho Nhân dân tự xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc của mình.

Thứ năm, thực hiện tốt phong trào thi đua chăm lo đời sống nhân dân. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức phát động, triển khai thực hiện nghiêm túc phong trào thi đua sâu rộng trong mỗi đơn vị, địa phương, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân phong trào chung tay chăm lo đời sống nhân dân. Các tập thể, cá nhân phải có kế hoạch cụ thể, thiết thực để cùng đồng hành chăm lo tốt đời sống nhân dân, đảm bảo cho mọi người có cuộc sống ngày càng no ấm, văn minh, an toàn và tiến bộ. Phát triển đa dạng các mô hình xã hội từ thiện, đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia giúp đỡ những người yếu thế, coi trọng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Kỷ niệm 136 năm Ngày sinh Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng là dịp để chúng ta ôn lại, tưởng nhớ, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với công lao to lớn của Người đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc Việt Nam. Với quyết tâm chính trị cao của các cấp ủy, cùng với sự đoàn kết, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, chúng ta tin tưởng rằng việc học tập và làm theo tấm gương Bác Tôn sẽ tiếp tục đạt nhiều kết quả to lớn hơn nữa và ngày càng thấm sâu, lan tỏa "như muôn mạch nước nhỏ hòa thành dòng sông lớn" để những điều tử tế, tốt đẹp trong cuộc sống ngày càng được vun đắp và phát huy, góp phần chăm lo đời sống nhân dân An Giang ngày càng ấm no, hạnh phúc, xứng đáng là quê hương của Chủ tịch Tôn Đức Thắng./.

                                                                    (*) TS Lê Hồng Quang

                                                               Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,

                                                                               Bí thư Tỉnh ủy An Giang

____________

[1] Phạm Văn Đồng: Bác Tôn - Nhà cách mạng bất tử, trong cuốn Tôn Đức Thắng, người cộng sản mẫu mực, biểu tượng của đại đoàn kết (Hồi ký), Nxb. Chính trị quốc gia, H.2003, tr.24.

Bác Tôn - một “gương mẫu đạo đức cách mạng”An Giang 190 nămBài viếtQ.HBác Tôn - một “gương mẫu đạo đức cách mạng”/SiteAssets/Chutich-tonducthang-24.jpg
16/08/2024 4:00 CHNoĐã ban hành

​(TUAG)- Chúc mừng Bác Tôn thọ 70 tuổi (1958), Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân". Cả cuộc đời trọn vẹn phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Bác Tôn để lại cho hậu thế biểu tượng sáng ngời về “chất cách mạng tinh khiết không gì làm phai nhạt được, từ thuở thanh niên đến cuối đời, vượt qua muôn trùng thử thách, ngày càng ngời lên vẻ đẹp đẽ và cao quý” (Phạm Văn Đồng).

Chutich-tonducthang-24.jpg

Miền quê Mỹ Hòa Hưng hiền hòa ven bờ sông Hậu đón tiếng khóc chào đời của người con ưu tú Tôn Đức Thắng vào ngày 20 tháng 8 năm 1888. Sinh trưởng trong một gia đình nông dân khá giả, sau khi tốt nghiệp bậc học cơ sở ở Long Xuyên, năm 1906, chàng thanh niên Tôn Đức Thắng đến với thành phố Sài Gòn để học việc và trở thành người thợ máy. Ở đây, Người đã sớm tham gia và hòa nhập cuộc sống của những người thuộc lớp cần lao.

Năm 1912, Tôn Đức Thắng tham gia lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân xưởng Ba Son và vận động học sinh Trường Bách Nghệ Sài Gòn bãi khóa. Những cuộc đấu tranh đầu tiên đó của giai cấp công nhân đã giành được thắng lợi và biểu lộ sức mạnh của lực lượng xã hội mới, làm cho bọn thống trị phải lo lắng và hoảng sợ. Để tránh sự truy nã của bọn chúng, Tôn Đức Thắng sang làm thợ máy tại một quân cảng ở miền nam nước Pháp và trở thành “người công nhân Việt Nam đầu tiên hoạt động trong phong trào công nhân Pháp và xây dựng mối tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt-Pháp”[1].

Tháng 4/1919, người thợ máy Tôn Đức Thắng đã cùng với anh em binh lính Pháp kéo lá cờ đỏ phản đối chiến tranh lên trên chiến hạm Phrăng-xơ trước cửa thành Xê-vat-tô-pôn. Bằng hành động đó, Tôn Đức Thắng là một trong những người Việt Nam đầu tiên tham gia đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng tháng Mười và xây đắp tình hữu nghị Việt-Xô. Sau này, qua lãnh đạo công nhân Ba Son bãi công, kéo dài thời gian sửa chữa đô đốc hạm Mitchelet đang trên đường sang đàn áp cách mạng Trung Quốc, Bác Tôn lại một lần nữa trở thành lớp người đầu tiên xây đắp tình đoàn kết Việt-Trung.

Năm 1920, đồng chí Tôn Đức Thắng trở về Tổ quốc và Người tiếp tục cuộc đời làm thợ và lao ngay vào những hoạt động yêu nước và cách mạng.

Trong những năm 1920-1921, cùng với một số người cùng chí hướng, đồng chí Tôn Đức Thắng đã sáng lập và là Hội trưởng tổ chức Công hội bí mật đầu tiên ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Đây được xem là tổ chức tiên tiến nhất trong lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam cho đến thời điểm này, chuẩn bị tiền đề để đưa giai cấp công nhân Việt Nam từng bước lên vũ đài chính trị. Từ năm 1925, Công hội bí mật là cơ sở cho sự phát triển của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Sài Gòn và Nam Bộ, giữ vai trò quan trọng giúp cho giai cấp công nhân Việt Nam tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin. Do đó, cùng với lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Tôn Đức Thắng là lớp người đầu tiên tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào giai cấp công nhân Việt Nam và tham gia hoạt động tích cực trong quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Gần 17 năm bị tù đày, trong đó có 15 năm bị tù đày ở "địa ngục" Côn Đảo là thử thách lớn trong cuộc đời người chiến sĩ cách mạng Tôn Đức Thắng. Trong những tháng năm thử thách khốc liệt, Tôn Đức Thắng luôn tỏ rõ là một người cách mạng chân chính, có nghị lực phi thường, trung thành vô hạn với Đảng, với cách mạng. Bản lĩnh và hành động của Người làm kẻ thù phải e dè, kính nể, đồng chí, bạn bè càng quý trọng, kính phục. Tôn Đức Thắng chiến thắng kẻ thù ngay trong lòng nó.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Tôn Đức Thắng và các chiến sĩ cách mạng được đón về đất liền và tiếp tục công cuộc kháng chiến kiến quốc, chống thực dân Pháp đến ngày toàn thắng. Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, giành độc lập - tự do - thống nhất Tổ quốc, Người đã dành những tình cảm sâu nặng nhất cho cuộc chiến đấu cực kỳ gian khổ của đồng bào miền nam, ra sức cùng với toàn Đảng, Nhà nước tăng cường lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc - hậu phương lớn của công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, để làm tròn nghĩa vụ đối với miền nam tiền tuyến lớn anh hùng.

Là Đại biểu Quốc hội từ khóa I (1946) đến khóa V (1980), liên tục là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ năm 1951-1980, đồng chí Tôn Đức Thắng đã được Đảng và Nhà nước ta đề cử giữ nhiều trọng trách: Trưởng Ban Thường trực Quốc hội (9/1955), Phó Chủ tịch nước (1960) và đồng chí vinh dự được bầu làm Chủ tịch nước (1969-1980) - kế nhiệm Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trong những cương vị trọng trách của mình, cùng với Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, đồng chí Tôn Đức Thắng đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đồng chí Tôn Đức Thắng là người đầu tiên được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Sao Vàng – Huân chương cao quý nhất của nước ta – do đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng.

Tháng 12/1955, đồng chí Tôn Đức Thắng là người Việt Nam đầu tiên vinh dự được Ủy ban giải thưởng Hòa bình Quốc tế Lênin của Liên Xô trao tặng giải thưởng Lênin Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc.

Tháng 11/1967, do những cống hiến lớn lao với sự nghiệp hòa bình thế giới. Đoàn Chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô quyết định tặng đồng chí Tôn Đức Thắng huân chương Lênin - huân chương cao quý nhất của Nhà nước Liên Xô. Vinh dự đặc biệt đó không chỉ dành cho đồng chí Tôn Đức Thắng, mà còn là vinh dự chung cho cả nhân dân Việt Nam ta.

Lẽ tất nhiên chẳng phải ai muốn cũng trở thành vĩ nhân. Chỉ có những người gian truân trong khổ luyện, nhiệt thành trong cống hiến, dạt dào tình yêu thương mới có thể hòa nhập vào quần chúng nhân dân mà tỏa sáng. Bác Tôn của chúng ta là người như thế. Cả cuộc đời Bác, từ lúc sinh ra trong một gia đình khá giả đến khi trường kỳ nếm trải gian khổ của cuộc đời cách mạng, cả lúc trở thành người đứng đầu Nhà nước ta, xuyên suốt là một quá trình nỗ lực tự rèn luyện đức và tài.

Đó là cuộc đời của một học trò sau khi mãn khóa không chọn con đường làm thầy thông, thầy ký cốt sao “béo tấm thân, phì gia đình, lợi dòng tộc” mà chọn con đường làm thợ, mà lại là thợ rất giỏi tay nghề, để rồi trở thành người sáng lập công hội đỏ - tổ chức cách mạng tiên phong của công nhân Việt Nam. Sự lựa chọn bắt nhịp đúng với xu thế thời đại của anh thanh niên Hai Thắng cho chúng ta thấy rằng thanh niên cần phải có một cái đầu “tỉnh” và lá gan “dũng cảm” để biết loại bỏ những cám dỗ lợi ích vật chất trước mắt, chọn đúng đường đi cho mình - con đường mà đích đến sẽ là lòng tri ân và tôn kính của người đời vì những đóng góp cho xã hội.

Đó là cuộc đời của một nhà hoạt động cách mạng không nề hà khó khăn, ngại khổ cực. Một người mà đến khi đứng đầu Nhà nước ta vẫn giản dị trong chiếc áo vá nối miễn sao nhân dân no ấm. Một người chứa trong mình ngọn lửa kiên trung sắt đá và cao ngất dũng khí của hào kiệt Lạc Việt ngàn đời, tỏa sáng ngay trong nơi tối tăm nhất - nhà tù thực dân.

Đó là một con người suốt đời rèn luyện đạo đức cách mạng, suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Mặc dù là người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Tôn Đức Thắng lúc nào cũng giữ được phong cách công nhân trong sáng của mình: khiêm tốn, giản dị, chân thành, luôn hòa mình trong quần chúng. Người luôn đi sâu đi sát cơ sở, lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân và kiểm tra hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Mặc khác, không những bản thân gương mẫu thực hiện, mà Người còn luôn luôn căn dặn, nhắc nhở, giáo dục cán bộ lãnh đạo các cấp chính quyền từ Trung ương đến cơ sở phải hết lòng vì dân, vì nước và luôn phải coi nhân dân là gốc của cách mạng. Bác Tôn - một người mà đạo đức đã phục được nhân tâm của quảng đại nhân dân Việt Nam, trở thành người tiêu biểu cho chính sách đại đoàn kết của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bác Tôn luôn là con người của hành động, từ những hành động mang tính tự phát được kích thích bởi tấm lòng yêu nước, ủng hộ lẽ phải đến những đấu tranh không mệt mỏi cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam, rộng hơn là cách mạng thế giới. Đó là một người giản dị nhưng vĩ đại!


Nguồn: Báo Nhân dân

...............

[1] Tỉnh ủy An Giang - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Tôn Đức Thắng với cách mạng Việt Nam và quê hương An Giang, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004, tr. 186.


1 - 30Next