(TUAG)- Người
Việt bắt đầu đến vùng đất An Giang từ lúc nào thì cho đến nay, chưa thấy sử
sách ghi chép rõ ràng. Tuy nhiên, theo truyền thuyết dân gian và một số vết
tích còn lại đến ngày nay thì đã có một số nhóm người Việt gốc miền Trung vào
đây từ rất lâu. Nhưng do điều kiện sống khắc nghiệt nên dân cư còn thưa thớt. Chỉ
khi thấy khói vương tỏa qua cây lá chỗ nào thì mới biết có người ở nơi đó.
Cuộc sống
của lưu dân bấy giờ luôn bị đe doạ:
Chèo ghe sợ sấu cắn chưn,
Xuống bưng sợ đỉa, lên
rừng sợ ma.
Sự lo âu
khắc khoải lúc nào cũng canh cánh trong lòng:
Đến đây xứ sở lạ lùng,
Con chim kêu cũng sợ, con
cá vùng cũng kinh.
Mặc
dù cuộc sống gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm nhưng người Việt vẫn kiên trì tìm
đất sống. Họ ở rải rác dọc theo bờ sông Tiền và sông Hậu.
Khi
Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, đã thấy có người Việt ở vùng Bình Mỹ (Châu
Phú), vùng Châu Đốc và vùng cù lao Cây Sao (cù lao Ông Chưởng ngày nay). Tương
truyền khi thuyền quân xuôi dòng Cửu Long (1700), Nguyễn Hữu Cảnh ghé lại những
nơi có người Việt ở để thăm hỏi và khích lệ mọi người giữ tình thân thiện dù không cùng chủng tộc.
Ông
cũng cho phép một số binh phu được ở lại nơi này tìm đất cày cấy làm ăn. Họ
sống rải rác theo ven sông ở vùng Châu Phú, Châu Đốc, Tân Châu và Chợ Mới.
Lưu
dân ở vùng cù lao Ông Chưởng (An Giang) được gọi là dân "hai Huyện"
(Phước Long và Tân Bình). Họ được xem là mẫu mực về thuần phong mỹ tục, vẫn giữ
được nếp ăn, nếp nghĩ của người Việt. Từ Chợ Mới đến Cái Hố theo lòng rạch Ông
Chưởng, ta gặp một số gia đình cố cư, ông bà của họ đến cư ngụ nơi đây từ đời
Gia Long, Minh Mạng hoặc lâu hơn (quá 6 đời).
Ở
cù lao Giêng, có một địa danh xưa là bến đò Phủ Thờ. Phủ Thờ này là của họ
Nguyễn từ Bình Định vào, con cháu ngày nay ở vào đời thứ 7, thứ 8, cư ngụ kề
nhau, đông đúc. Có thể nói đây là một trong những họ đến lập nghiệp đầu tiên
trong vùng.
Điều
đáng chú ý là người Việt đi vào phương Nam khai hoang lập nghiệp với cả
gia đình cha mẹ, vợ con, chứ không đợi khi khá giả rồi mới về quê rước vợ con
vào. Những người đã đến đây là không thể về, vì quá xa và ngoài đó (Ngũ Quảng)
điều kiện sống quá khó khăn, đói khổ, nên đành phải bỏ xứ.
Chính
sách cưỡng bức di dân của Nguyễn Phúc Tần và chính sách chiêu mộ di dân của
Nguyễn Phúc Chu mở ra từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII trên quy mô ngày
càng lớn. Nhờ các chính sách của chúa Nguyễn mà công cuộc khai hoang và mở mang
bờ cõi phương Nam
của dân Việt ngày càng nhanh chóng hơn.
Khi
tỉnh An Giang mới được thành lập, dọc theo hữu ngạn sông Tiền, dân cư khá đông,
tập trung ở cù lao Ông Chưởng. Một số thôn xã được thành lập. Riêng cù lao
Giêng không rộng lắm nhưng sanh kế dễ dàng, quy tụ được bốn thôn.
Phía hữu ngạn sông Hậu, dân cư thưa thớt. Từ biên giới
Việt Miên xuống Long Xuyên chỉ có các làng Bình Thạnh Tây (đối diện Bình Thạnh
Đông bây giờ), Bình Đức, Mỹ Phước. Hai
làng Bình Đức và Mỹ Phước kề sát nhau, cách con rạch Long Xuyên.
Vùng
An Giang gồm 2 khu vực mới và cũ riêng biệt:
-
Phía Tân Châu, Ông Chưởng, Chợ Mới
dễ canh tác, dân đông, làng cũ, vì đã lập từ lâu.
-
Phía hữu ngạn sông Hậu, là vùng rừng núi hoang vu, đất khó canh tác, dân thưa thớt, làng mới lập.
Hồi
đầu thế kỷ XVII, phía sông Hậu từ Châu Đốc xuống Năng Gù dân cư thưa thớt. Đầu
nguồn, lòng sông hẹp, lượng nước phù sa không đủ sức tạo được giồng cao như
sông Tiền. Chỉ có mấy khu vực cao ráo như khu chợ Châu Đốc, Mỹ Đức, Cái Dầu...
dân đến ở khá đông. Họ cất nhà sàn để ở,
mùa nước nổi khai thác cá linh, làm lúa mùa, cuộc sống còn nghèo.
Từ
xa xưa, chợ Thủ (huyện Chợ Mới) là một điểm dân cư tập trung bên cạnh điểm dân
cư cù lao Giêng. Dân cư đông đảo, nhà cửa khang trang. Chùa, miếu được xây dựng
để làm nơi cầu nguyện, thờ phụng cho nhân dân trong vùng. Nghề thủ công phát
triển từ lâu như nghề ươm tơ dệt lụa, nhất là nghề mộc của dân chợ Thủ đã nổi
tiếng khắp vùng Đồng bằng sông Cửu Long, và còn lưu truyền đến ngày nay. Dân cư
từ những nơi này phát triển nhanh chóng. Từ đây, từng lớp lưu dân đã ổn định và
bắt đầu phân tán đi khai phá các
vùng đất mới
khác trong vùng như: Long Xuyên, Châu Đốc, Tân Châu...
Dần
dần, dân cư đông đúc. Những nhóm quần cư lần hồi nâng lên thành các đơn vị nhỏ
về hành chánh là lân, phường, thôn, làng, hoặc những ấp đông đúc gọi là giáp
(tương đương với làng). Các vị trí then
chốt về an ninh gọi là điếm. Dân mới đến chưa vào sổ bộ
hoặc cư ngụ tạm thời thì gom lại lập đơn vị mới gọi là tứ chiếng thôn, tứ
chiếng điếm.
Bấy
giờ, số dân đứng tên chính thức trong bộ đinh của làng không cần nhiều, chừng
chục người hoặc ít hơn, nếu chịu trách nhiệm đóng thuế với quan trên thì việc
đăng ký thành lập làng được nhìn nhận ngay. Dân đứng tên trong bộ ở làng chỉ
gồm điền chủ lớn nhỏ, trung nông, thương buôn. Tá điền và lớp nghèo thành thị
có quyền không ghi tên vào sổ bộ, sống theo quy chế dân ngoại, dân lậu tùy
thích. Nhưng đã là dân lậu, họ không được vào ban hương chức hội tề, không được
dự tiệc đình làng, không được kiện cáo bất cứ ai khi bị ức hiếp và nếu bị tố
cáo dẫu là oan ức thì họ cũng bị xem là có lỗi. Lực lượng di dân này sống rày
đây mai đó, làm ruộng, làm mướn, thay đổi nơi cư trú luôn. Có thể lúc đó vùng
đất này tương đối dễ sống, đất ruộng hoang vu còn nhiều chỗ dung thân, nên, nơi
này sống không được, họ bỏ đi nơi khác. Họ có thể thay đổi ngành nghề nhanh
chóng như làm ruộng chuyển sang đánh bắt cá, hoặc chuyển sang làm nghề gỗ, đốn
củi.
Việc
di dân lập ấp ở An Giang có công đóng góp rất lớn của Thoại Ngọc Hầu, bắt đầu
từ năm Đinh Sửu 1817. Lúc bấy giờ, nhiều
nhà cửa của nông dân đã được dựng lên, các đình chùa cũng bắt đầu được xây cất.
Năm
1818, được lệnh Triều đình, Nguyễn Văn Thoại đốc suất đào kênh Đông Xuyên ra
đến Rạch Giá tạo điều kiện canh tác thuận lợi cho dân khẩn hoang hai bên bờ con
kênh.
Năm
1821, khi Thoại Ngọc Hầu đến thủ đồn Châu đốc, ông tiếp tục cho di dân lập ấp,
xây dựng nhiều làng người Việt ở đây. Những nơi cỏ cây rậm rạp, đều được ông
khuyến khích dân khai phá. Trong bia Vĩnh Tế Sơn còn ghi: "Lão thần
Thoại Ngọc Hầu... muốn nơi đồng hoang bát ngát này trở thành làng mạc trù phú,
yên vui, dân cư đông đúc, sum vầy".
Đào
kênh Vĩnh Tế xong, Nguyễn Văn Thoại cho đắp con đường từ Châu Đốc đến núi Sam
mà trước kia phải đi bộ hoặc đi đò chèo. Từ đó, ngựa xe qua lại dễ dàng, đường
cao khoảng 3 mét để ngừa nước lụt, cho dựng bia "Châu Đốc tân lộ kiều
lương" (1828). Dân cư nhờ đó mà từ Châu đốc vào Núi Sam khẩn ruộng, lần
hồi tiến vô khai phá đến vùng Tịnh Biên.
Lúc
bấy giờ, trên cánh đồng An Giang rộng lớn và hoang vu, hàng năm đều ngập trong
nước lũ nhiều tháng trời Mạng lưới sông rạch tự nhiên rất nhiều. Đường bộ hầu
như chưa có, đường thủy là tuyến giao thông gần như duy nhất trừ vùng Bảy Núi.
Cho nên dân cư sinh sống dọc theo các con kênh và bờ sông là điều tự nhiên. Đây
là các tuyến chủ yếu tiếp nhận di dân. Lúc đầu, chỉ mới hình thành những tuyến
mỏng, dọc ven theo kênh rạch. Khi dân cư đông hơn, họ ở có dạng quây quần chứ
không còn đơn thuần theo tuyến dọc nữa. Trong bước đầu đến khai hoang vùng đất
An Giang, sự phân bố dân cư nơi đây đã diễn ra một cách tự phát theo lối đất
lành chim đậu, nơi nào dễ làm ăn thì dân cư sẽ qui tụ lại ở thành xóm làng.
Ngoài ra, một số người có trình độ và có tiền của đứng ra chiêu dân lập làng để
khai phá thêm các vùng đất mới còn hoang vu. Các vùng mới khai phá, dân cư quần
tụ lại cất nhà kề nhau quay mặt ra sông, sau nhà là vườn, sau vườn là ruộng
đồng bát ngát, xa nữa là đồng cỏ và rừng cây hoang vu, có nghĩa là ai có sức
lao động và có vốn, thì có thể vỡ hoang đến đâu cũng được và không phải tranh
giành với ai. Những nơi giáp nước hoặc ngã ba, ngã tư sông, dân cư thường tập
trung ở đông đúc, dần dần hình thành nên quán xá, hiệu buôn, chợ búa để trao
đổi mua bán, trên bến dưới thuyền.
Đầu
thế kỷ XIX, đã nhiều lần quân Xiêm xâm lấn nước ta. Hà Tiên, Châu Đốc là những
vùng bị thiệt hại trước tiên và nặng nhất. Năm 1833, giặc Xiêm xâm lăng, tàn
phá dọc kênh Vĩnh Tế, chiếm Châu Đốc và tràn luôn qua cả Tân Châu. Nhưng chỉ
năm năm sau (1838), dân cư đã quy tụ trở lại, thành lập hàng chục thôn rải rác
từ núi Sam dọc theo hai bờ kênh Vĩnh Tế qua phía Hà Tiên.
Vùng
Châu Đốc là biên cương hiểm trở, vừa sản xuất vừa phải đối phó với ngoại xâm.
Mỗi người dân khẩn hoang quả là một lính thú vô danh nơi biên cương xa xôi này.
Trong Gia Định Thành thông chí danh mục thôn xã không ghi lại làng nào ở vùng "Châu Đốc Tân Cương",
chỉ xác nhận từ biên giới đến biển Đông chỉ thành lập vỏn vẹn được một huyện là
huyện Vĩnh Định với 27 thôn, chạy suốt theo hữu ngạn Hậu Giang, với lời giải
thích "Huyện Vĩnh Định địa giới tuy rộng nhưng dân cư chưa đông nên
chưa chia ra thành tổng". Một huyện mà chỉ có 27 thôn là quá ít, nếu
so với các huyện đương thời như huyện Tân An (135 thôn), huyện Kiến Hòa (151
thôn).
Gia
tộc Lê Công gốc Thanh Hóa là một trong những nhóm di dân đến khai phá vùng Châu
Đốc (khoảng năm 1785-1837). Hiện con cháu đời thứ 7 còn sống và cư ngụ tại đây.
Một
gia tộc thứ hai cũng đã có công khai phá vùng Châu Đốc hoang sơ buổi ban đầu là
dòng Nguyễn Khắc, thuộc dòng con cháu của Nguyễn Văn Thoại. Hiện nay, gia đình
cháu đời thứ 7 của ông vẫn còn cư ngụ tại thị xã Châu Đốc.
Thời
Gia Long, Minh Mạng, dân cư vùng An Giang còn ít, nhiều đất hoang chưa có người
khai thác.
Dân
xã, thôn ghi vào bộ đinh là đàn ông, không ghi đàn bà, trẻ con. Để thành lập
một xã chỉ cần vài người dân đinh đứng đơn, bảo đảm với triều đình về nghĩa vụ
thuế đinh, thuế điền. Người xin lập làng được quan phủ cấp cho con dấu nhỏ,
bằng gỗ (dân quen gọi là con mộc).
Những
người đi khai phá đến sau, phần lớn là dân nghèo, dân lậu, xin khai khẩn vùng
đất gọi là "hoang nhàn dư địa" (đất chưa khai phá).
Dưới
đời Minh Mạng, tội phạm lưu đày phần lớn gom về vùng Vĩnh Tế để lập các xóm dọc
bờ kênh, dần dần hình thành nên các vùng dân cư. Nguyễn Tri Phương khi làm kinh
lược sứ ở miền Nam, đã có sáng kiến lập đồn điền biên giới nhằm ngăn giặc, yên
dân, tập trung vùng Châu Đốc và Hà Tiên, đặc biệt là ở vùng Vĩnh Tế.
Năm 1854, Nguyễn Tri Phương báo cáo đã thành lập được 21
cơ đồn điền. Hai năm sau, tỉnh An Giang và Hà Tiên báo cáo đã chiêu mộ được
1.646 dân đinh, lập 159 thôn ấp.
Trong
thời gian này, người Chăm ở ngang chợ Châu Đốc (Đa Phước, Châu Phong) cũng gom
lại từng đội, do một viên hiệp quản đứng đầu. Từ bên Chân Lạp, người Chăm rút
về, nương náu trong lãnh thổ Việt Nam để tránh loạn lạc nội chiến bên Chân Lạp,
rồi định cư luôn ở Việt Nam (Tân Châu, An Phú ngày nay).
Song
song đó, người theo đạo Thiên Chúa lánh nạn kỳ thị tôn giáo của vua quan nhà
Nguyễn từ miền ngoài đến ở khá sớm ở cù lao Giêng (1778), Bò Ót (1779) và Năng
Gù (1845) đã làm tăng dân số vùng đất An Giang ngay từ buổi đầu.

Về
nguồn gốc các dân tộc, các tư liệu trước đây ghi nhận như sau:
-
Người Khmer: Đây là dân bản địa kỳ cựu, hầu hết đều sinh đẻ ở Việt Nam nên gọi
là người Việt gốc Khmer, tập trung nhiều nhất ở các quận Tri Tôn và Tịnh Biên.
Phong tục và tiếng nói của họ cũng không khác người Khmer ở chánh quốc. Họ rất
sùng bái đạo Phật, tôn kính các Sư Sãi và sẵn sàng dâng cúng cho chùa những huê
lợi do họ cực nhọc làm ra để mong được phước cho kiếp sau.
- Người
Chăm và người Mã Lai đến sanh cư lập nghiệp hẳn ở vùng Châu Đốc từ năm 1840.
Trước kia, họ sống ở Cao Miên.
- Người
Chăm Châu Giang rất siêng năng, tiết kiệm. Nhà cửa thường cất tương tợ kiểu Cao
Miên, sàn cao, cách mặt đất từ 1 thước rưỡi đến 2 thước. Họ đoàn kết với nhau
rất chặt chẽ nên ít khi bọn trộm cướp dám quấy phá.
-
Người Hoa: Theo dụ số 48 ngày 21/8/1956 của chính quyền Ngô Đình Diệm sửa đổi
bộ Luật Quốc tịch Việt Nam thì những người Hoa sinh đẻ tại Việt Nam kể như dân
Việt Nam. Họ cũng lãnh thẻ kiểm tra, có bổn phận và hưởng quyền lợi như công
dân Việt Nam.
Trong tỉnh An Giang, tính đến ngày 15/9/1959 có tất cả
1.748 người Hoa sinh đẻ ở Việt Nam
đã lãnh thẻ kiểm tra nhập Việt tịch. Người Hoa sinh sống bằng nghề buôn bán ở
thành thị cả ở thôn quê.
Để củng cố công tác quản lý hành chánh, kiểm tra và
khuyến khích dân cư đến lập nghiệp vùng hoang địa, nhà Nguyễn cho tiến hành lập
làng, nhất là vùng biên cương như Châu Đốc. Thủ tục xin lập làng tương đối dễ.
Do đó, trước năm 1831, lưu dân đã thành lập làng An Nông. Đến tháng 3-1831,
làng An Nông từ núi Chân Tầm Lon tới núi Tà Béc còn nhiều đất hoang, một nhóm
dân cư xin lập làng Phú Cường tách ra từ làng An Nông, gồm 15 người đến ở (chỉ
tính đàn ông) do Trương Văn Nghĩa, Nguyễn Văn Chiêu, Lê Văn Huệ đứng đầu. Theo
nhà văn Sơn Nam, lưu dân đến vùng biên giới Tây Nam này lúc bấy giờ gồm những
người từ vùng Gia Đình, Tân An, Mỹ Tho. Ở làng Vĩnh Hội, cạnh làng Vĩnh Ngươn
(Châu Đốc), có một thợ săn đến ở, dẫn theo 7 người trong đó có 1 người ở Sóc
Trăng, 1 người ở Chợ Gạo (Định Tường), 1 người ở Mỹ Đức Đông (Cái Bè).
Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức cũng có ghi sự hiện diện của những
người Việt đến sinh sống vùng Bảy Núi để tu hành, khai thác nguồn lợi thiên
nhiên, không làm giàu nhưng có thể sống qua ngày. Họ lập vườn cây ăn trái,
trồng hoa màu, tìm dược thảo, làm ruộng ở chân núi, bắt cá vào mùa hạn ở các ao
đìa, sống hòa nhập với người Khmer. Sau khi thành lập địa bộ, dân cư trong vùng
đã lập được nhiều thôn theo bờ kênh Vĩnh Tế như Vĩnh Tế Sơn thôn, Nhơn Hòa, An
Quí, Thần Nhơn, Vĩnh Bảo, Long Thạnh, Toàn Thạnh, Vĩnh Gia, Vĩnh Lạc. Phần lớn
diện tích được trồng khoai, trồng đậu; trong bộ điền gọi là vu đậu thổ (đất
trồng hoa màu).
Năm Minh Mạng thứ 11 (1830), quan Tổng trấn Gia Định
tâu: "Đồn Châu Đốc mới lập được 41 làng, dân đinh chỉ hơn 800
người". Như vậy, nếu kể cả dân lậu, phụ nữ và trẻ em trong làng thì
dân cư Châu Đốc lúc đó có thể lên đến vài ngàn.
Đơn vị hành chánh nhỏ nhất lúc bấy giờ là xã (thôn).
Làng xã thời trước lập ra không cần dân số đông mà chỉ chú trọng vào số thuế
đóng của những người đứng tên cam kết sẽ nộp. Từ các làng này mới thu hút nhiều
lưu dân đến sinh sống, như làng Phú Cường. Năm Tự Đức thứ 10 (1857), làng Châu
Phú vẫn còn nhiều ruộng chưa khẩn, có 2 người dân đinh đứng tên xin thành lập
làng gọi là làng Châu Quới, tách từ làng Châu Phú ra, sau đó thu hút thêm được
5 người dân lậu.
Triều đình nhà Nguyễn rất quan tâm đến việc củng cố
biên giới phía Nam, "vì địa thế Châu Đốc, Hà Tiên cũng không kém Bắc Thành"
(vua Gia Long). Năm 1830, vua Minh Mạng phán cho bộ Hộ rằng: "Đồn Châu
Đốc lúc đó chưa có tỉnh là vùng địa đầu quan yếu, ta đã từng xuống chỉ chiêu
tập dân buôn bán, cho vay tiền gạo để lập ấp khẩn điền, quây quần sinh nhai. Đó
là ý niệm quan trọng của ta trong vấn đề củng cố biên cương". Buổi
đầu, việc khai khẩn còn khó khăn, thuế khóa đã được miễn nhiều lần. Trong thực
tế triều đình đã dùng nhiều biện pháp để chiêu dụ, thu nạp dân, để cho đồng áng ngày càng mở mang, cuộc sống người dân càng
được nâng lên.
Như vậy, đến khai phá đất An
Giang, ngoài dân lưu tán tự phát vào khai khẩn, còn có một bộ phận dân hưởng
ứng chính sách khuyến khích khai hoang của nhà Nguyễn nên số lưu dân đến tăng
lên khá nhanh. Một thuận lợi cho An Giang nữa là lúc đó miền Long An, Mỹ Tho
đất tốt hầu như không còn cho dân khai khẩn, nên dân di cư tràn xuống miền sông
Hậu, đến khai phá cánh đồng hoang vu mênh mông ở tỉnh An Giang.
Vào
nửa sau thế kỷ XIX, nhất là sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, chế độ
đồn điền trì trệ. Quân lính trong các đồn điền chuyển sang chiến đấu chống
Pháp, nhà Nguyễn buộc phải chuyển sang hình thức doanh điền tiến hành thực hiện
ở các tỉnh. Các nhà doanh điền ở An Giang và Hà Tiên được thành lập. Đến năm 1866, doanh điền sứ An Giang - Hà Tiên là Trần
Hoàn báo cáo đã mộ được 1.646 dân
đinh, thành lập 149 thôn, khẩn được
8.333 mẫu ruộng.
Đến
An Giang, còn có những người theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa.
Lực lượng này gồm dân các tỉnh chung quanh (Gia Định, Mỹ Tho, Vĩnh Long) theo về với đạo, phần lớn tập trung khai
phá vùng Thất Sơn rừng núi hoang vu.
Như
vậy, các luồng di dân vào An Giang chủ yếu là người miền Trung, thường gọi là dân Ngũ Quảng. Các luồng di dân khác
từ một số tỉnh như Biên Hòa, Gia Định, Mỹ Tho... đến khai khẩn đất hoang theo
bờ các kênh xáng mới đào.
Năm
1862, Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông, rồi năm 1867 chiếm luôn ba tỉnh miền Tây.
Theo
thống kê sơ bộ do y sĩ người Pháp Vantalon ghi lại trong chuyến đi trồng trái
(chủng đậu) năm 1881, dân số Long Xuyên là 88.631 người, Châu Đốc là 105.182
dân, phần lớn tập trung ở phía sông Tiền vùng Tân Châu, Chợ Mới.
Khoảng
giữa thế kỷ XIX, An Giang còn là nơi quy tụ những đoàn người theo đạo hoặc núp
dưới ngọn cờ tôn giáo để kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhân cơ hội Kinh lược
xứ Nam Kỳ là Nguyễn Tri Phương khuyến khích việc chiêu mộ dân đến khai hoang
vùng biên giới, giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương đưa người đến khẩn hoang vùng Thất
Sơn, Láng Linh, Cái Dầu và bên bờ sông Tiền.
Năm
1851, ông Đoàn Minh Huyên chia nhiều đoàn tín đồ đi khai khẩn:
-
Đoàn thứ nhất vào Thất Sơn, bên chân núi Két, một nơi còn hoang vu. Đoàn chia
làm hai nhánh, một do cụ Bùi Văn Thân tức tăng chủ Bùi Thiền Sư hướng dẫn, và
một đoàn do cụ Bùi Văn Tây tức Đình Tây chỉ huy, cùng nhau góp sức lập nên các
trại ruộng Hưng Thới và Xuân Sơn, sau này hợp thành xã Thới Sơn (Tịnh Biên).
-
Đoàn thứ hai do cụ Quản cơ Trần Văn Thành dẫn dắt. Đoàn này đến Láng Linh, một
vùng đầm lầy, thuộc huyện Châu Phú.
-
Đoàn thứ ba do cụ Nguyễn Văn Xuyến tức "Đạo Xuyến" đưa tín đồ về Cái
Dầu (Bình Long) thuộc huyện Châu Phú ngày nay.
Cụ
Ngô Lợi, người khởi xướng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, cũng đã đưa hàng trăm lượt tín
đồ từ khắp nơi về vùng núi Tượng lập làng An Định, di dân mở đất khai hoang vùng biên giới.
Báo
cáo của Chủ tỉnh Châu Đốc Bocquet gởi Giám đốc Nội an Sài Gòn ngày 14-3-1886
ghi: "Sổ bộ làng An Định có ghi 422 dân đinh, trừ một số người vắng
mặt, nhà chức trách chỉ kiểm tra được 342 người gồm dân các tỉnh đến
như: Thủ Dầu Một 25 người, Chợ Lớn 64 người, Tân An 18 người, Gò Công 26 người,
Vĩnh Long 24 người, Mỹ Tho 33 người, Bến Tre 25 người, Cần Thơ 13 người, Sa Đéc
33 người, Long Xuyên 30 người, Châu Đốc 33 người, Sóc Trăng 2 người, Trà Vinh 3
người, Hà Tiên 3 người và Phnom Pênh 10 người. Người ở lâu năm nhất trong làng
là 13 năm (1875) có 1 người, 12 năm có 4 người, 10 năm có 2 người, 9 năm có 13
người, 8 năm có 34 người, 7 năm có 76 người, 6 năm có 54 người, 5 năm có 65
người, số người còn lại ở từ 14 năm...". Như vậy, làng An Định dân cư
đa số từ các tỉnh khác đến, nhất là các tỉnh miền trên như: Thủ Dầu Một, Chợ
Lớn, Tân An, Mỹ Tho. Pháp cho giải tán làng An Định, nhập vào làng Vĩnh Lạc
(Vĩnh Lạc và Vĩnh Quới là hai làng xưa, nhập lại là Lạc Quới thuộc huyện Tri
Tôn ngày nay). Tháng 6 1887, Pháp buộc tất cả 407 gia đình gồm 1994 người phải
xuống tàu thủy để về quê quán, nhưng dọc đường nhiều người đã tìm cách quay trở
lại núi Tượng.
Trong khoảng thời gian hơn nửa thế kỷ (từ 1880 đến
1937), qua chính sách khai hoang và đào kênh của thực dân Pháp ở Đồng bằng sông
Cửu Long, tình hình dân số và ruộng đất có sự thay đổi lớn (qua số liệu thống
kê chưa đầy đủ của thực dân Pháp).
DÂN SỐ TỈNH LONG XUYÊN TỪ 1874 ĐẾN 1914
Năm | Dân số | Chia ra |
| | Việt | Khmer | Hoa |
1874 | 52.157 | 45.107 | 6.700 | 350 |
1879 | 69.572 | 65.328 | 3.604 | 640 |
1884 | 68.412 | 66.004 | 1.272 | 1.136 |
1889 | 101.746 | 99.071 | 1.532 | 1.137 |
1894 | 94.445 | 91.130 | 1.858 | 1.452 |
1904 | 152.378 | 149.025 | 2.000 | 1.341 |
1909 | 142.185 | 138.339 | 2.514 | 1.309 |
1914 | 150.113 | 144.928 | 2.369 | 1.936 |
(Theo Monographie de la province de Long Xuyên xuất bản năm 1929 của Victor Duvernoy)
Theo Quốc triều chính biên
toát yếu của Quốc sử quán triều Nguyễn, năm 1847 tỉnh An Giang, số đinh
theo báo cáo của bộ Hộ có 22.998 người (cả nước Việt Nam khi đó số đinh chỉ có
1.024.388 người).
Đến
năm 1930, chấm dứt các chính sách di dân khẩn hoang vào miền Nam nói chung và tỉnh An Giang nói riêng. Qua số liệu
Niên giám thống kê của Pháp năm 1921, dân số hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc
cộng lại đông đứng thứ nhất đồng bằng sông Cửu Long.
Đây
là điều phải lưu ý vì Long Xuyên và Châu Đốc là vùng đất “sinh sau đẻ muộn” so
với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
(Trích: Địa chí An Giang, năm 2013)