Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước 2020 được thông qua với tỷ lệ 93.58% ý kiến tán thành của đại biểu Quốc hội.
Sau
nội dung này, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật sửa đổi,
bổ sung Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ
trợ.
Tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật số
14/2017/QH14 về Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ,
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2018. Việc ban hành Luật đã tạo cơ sở
pháp lý thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác quản
lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ; đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang và các lực lượng
khác. Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực hiện Luật Quản lý, sử dụng vũ
khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ và Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa
đổi, bổ sung năm 2017 đã bộc lộ một số bất cập, khoảng trống trong việc
xử lý hình sự đối với hành vi chế tạo, mua bán, tàng trữ, vận chuyển,
sử dụng trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự
vũ khí quân dụng. Trong công tác phòng, chống tội phạm, đây là những
hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của con người, gây hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng, cần phải xử lý hình sự. Chính vì vậy, việc xây dựng
Luật sửa đổi, bổ sung Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ
và công cụ hỗ trợ nhằm kịp thời khắc phục những bất cập này.
Tại
phiên thảo luận tổ về dự án Luật, các đại biểu đã cho ý kiến về sự cần
thiết, phạm vi sửa đổi, bổ sung Điều 3 của Luật và tính thống nhất với
các quy định của Luật với Điều 304 của Bộ luật Hình sự.
Theo dự
kiến, Luật sửa đổi, bổ sung Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật
liệu nổ và công cụ hỗ trợ sẽ được Quốc hội xem xét, thông qua theo quy
trình tại một kỳ họp.
Thời gian còn lại của phiên họp sáng, Quốc
hội sẽ thảo luận tại hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước
ngoài tại Việt Nam.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam
đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo cơ quan thẩm tra, cơ quan
soạn thảo và các cơ quan có liên quan tiếp tục rà soát kỹ để phù hợp với
chủ trương, đường lối của Đảng, bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất
với hệ thống pháp luật, tương thích với các điều ước quốc tế, nhất là
các Hiệp định thương mại mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập trong thời gian
qua, đồng thời lưu ý một số vấn đề cần tiếp tục giải trình, làm rõ. Cụ
thể là quy định các trường hợp được chuyển đổi mục đích của thị thực,
trường hợp miễn thị thực cho người nước ngoài vào khu kinh tế ven biển;
về việc bổ sung điều kiện để quyết định đơn phương miễn thị thực làm thu
hẹp diện các nước được đơn phương miễn thị thực; bổ sung các quy định
về thị thực điện tử bảo đảm đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, chặt chẽ, thống
nhất, tránh quy định trùng hoặc bỏ trống nội dung về thị thực điện tử…
Thảo
luận tại tổ về nội dung này, các đại biểu đã cho ý kiến về: Sự cần
thiết ban hành Luật; bổ sung các trường hợp được chuyển đổi mục đích của
thị thực; bổ sung trường hợp được miễn thị thực “Vào khu kinh tế ven
biển theo quyết định của Chính phủ”; bổ sung điều kiện đơn phương miễn
thị thực; cấp thị thực điện tử cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam;
sửa đổi điều kiện nhập cảnh, điều kiện xuất cảnh; quy định về quản lý cư
trú của người nước ngoài; về xây dựng, kết nối, khai thác, chia sẻ cơ
sở dữ liệu nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài;
các mức góp vốn khi cấp thị thực cho nhà đầu tư; thời hạn tạm trú không
quá 10 năm đối với nhà đầu tư có thẻ tạm trú ĐT1; quy định mức góp vốn
tối thiểu đối với nhà đầu tư có ký hiệu thị thực ĐT4; việc sử dụng nguồn
kinh phí xuất nhập cảnh được trích lại để nâng cao chất lượng công tác
quản lý xuất nhập cảnh…
Trong phiên làm việc chiều, Quốc hội nghe
Tờ trình về việc đề nghị Quốc hội phê chuẩn Hiệp ước bổ sung Hiệp ước
Hoạch định biên giới quốc gia năm 1985 và Hiệp ước bổ sung năm 2005 giữa
Việt Nam và Campuchia; Nghị định thư Phân giới cắm mốc biên giới trên
đất liền giữa Việt Nam và Campuchia; Báo cáo thuyết minh Hiệp ước bổ
sung Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia năm 1985 và Hiệp ước bổ sung
năm 2005 giữa Việt Nam và Campuchia; Nghị định thư Phân giới cắm mốc
biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Campuchia; Báo cáo thẩm tra về
việc phê chuẩn Hiệp ước bổ sung Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia
năm 1985 và Hiệp ước bổ sung năm 2005 giữa Việt Nam và Campuchia; Nghị
định thư Phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và
Campuchia./.
P.N