Chính trị
Thứ 7, Ngày 07/12/2019, 16:00
Trên chặng đường lịch sử 75 năm xây dựng và trưởng thành của Quân đội
nhân dân Việt Nam, mỗi chiến công, mỗi bài học kinh nghiệm của đội quân
cách mạng đều gắn liền với nguồn sức mạnh của sự gắn bó keo sơn thắm
thiết quân dân.
Là quân đội của nhân dân, gắn bó và yêu thương, kính
trọng nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu, đó là bản chất của quân đội
cách mạng, đó cũng chính là nhân tố quan trọng góp phần làm nên sức mạnh
tổng hợp về chính trị, tinh thần, ý chí quyết chiến, quyết thắng, tài
thao lược của quân đội ta trước mọi kẻ thù, trong mọi hoàn cảnh.
 Quân đội nhân dân anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng
TỪ NHÂN MÀ RA, VÌ NHÂN DÂN MÀ CHIẾN ĐẤU
Để
tiến hành sự nghiệp giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, trong điều kiện cụ thể của Việt Nam,
việc xây dựng lực lượng chính trị của cách mạng là điều cơ bản nhất, là
việc phải làm đầu tiên, rồi mới xây dựng quân đội, xây dựng lực lượng vũ
trang. Đó chính là quan điểm “người trước súng sau”, là xây dựng lực
lượng chính trị của quần chúng để trên nền tảng đó xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân, tiến hành khởi nghĩa vũ trang, đánh đuổi kẻ thù, giành
lấy chính quyền, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là luôn tăng cường và đảm
bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn
trung thành tuyệt đối với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, với lợi
ích của giai cấp công nhân, của dân tộc và nhân dân lao động.
Trên
tinh thần đó, vấn đề “tổ chức ra quân đội công nông”[1] đã được khẳng
định trong Chánh cương vắn tắt của Đảng (thông qua tại Hội nghị hợp nhất
các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam mùa Xuân năm
1930). Tiếp đó, khởi đầu từ những Đội tự vệ đỏ trong phong trào Xô Viết -
Nghệ Tĩnh, đến đội vũ trang Cao Bằng, du kích Nam Kỳ, Bắc Sơn (sau đổi
thành Cứu quốc quân), Ba Tơ,… cùng với sự phát triển của tiến trình cách
mạng, thực hiện Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân đã được thành lập ngày 22/12/1944. Với thắng lợi
ban đầu (hạ đồn Phai Khắt, Nà Ngần) và từ 34 chiến sĩ đầu tiên, Đội Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân đã ngày càng mở rộng địa bàn hoạt
động, đã phát triển từ đội thành đại đội, rồi đại đội chủ lực đầu tiên
của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tiền đồ của Đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân rất vẻ vang, “nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có
thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”[2].
Từ buổi
đầu thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đội quân đó từ nhân
dân mà ra nên phải dựa vào dân, luôn gắn bó với nhân dân, gần gũi nhân
dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu để được
dân tin, dân yêu, dân giúp đỡ, bao bọc và chở che. Vì chỗ dựa vững chắc
nhất của quân đội là lòng dân, cho nên “trung với nước, hiếu với dân là
bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề nhưng cũng là vinh dự
của người chiến sĩ”[3] và “phải làm cho quân đội ta thành một quân đội
chân chính của nhân dân”[4]. Đồng thời, thấm nhuần chỉ dẫn của Người:
“Điểm trọng yếu là bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du
kích đều phải bám sát lấy dân, rời dân ra nhất định thất bại. Bám lấy
dân là làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu. Như vậy thì
bất kỳ việc gì khó cũng làm được và nhất định thắng lợi”[5], trong mọi
hoàn cảnh, quân đội “phải tăng cường công tác chính trị, luôn nâng cao
trình độ chính trị và giác ngộ giai cấp của bộ đội”, phải làm cho “mỗi
người binh sĩ phải biết chính trị ít nhiều. Họ đem xương máu ra giữ gìn
Tổ quốc, thì chẳng những họ phải hiểu vì sao mà hy sinh, họ lại phải có
thể nói cho người khác biết vì sao phải yêu nước”[6]…
Đây chính
là sức mạnh của quân đội cách mạng, thể hiện sâu sắc tư tưởng xây dựng
quân đội nhân dân cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; đồng thời, cho
thấy sự khác biệt với quan điểm quân sự tư sản, lấy vai trò của chỉ huy
với một đội quân nhà nghề cùng súng ống, vũ khí và trang bị kỹ thuật làm
sức mạnh. Đó luôn là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và sản xuất,
thực hiện tốt nhiệm vụ vừa tiêu diệt địch, bảo vệ nhân dân vừa xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Đó cũng chính là đội quân luôn trung thành tuyệt đối
với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, với lợi ích của giai cấp
công nhân, của dân tộc và nhân dân lao động, luôn thực hiện mối quan hệ
quân dân gắn bó “như cá với nước” và nhận được sự góp sức người, sức của
từ nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Việt Nam giải phóng quân (do Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
và Cứu quốc quân hợp lại) đã cùng toàn dân vùng lên đấu tranh, giành
thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, lập nên Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau đó, khi cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp bùng nổ trong toàn quốc, thấu triệt quan điểm: 1) Mục đích của
cuộc kháng chiến là đánh thực dân phản động Pháp, giành độc lập thống
nhất. 2) Tính chất cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, trường kỳ.
3) Chính sách kháng chiến là đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế,
v.v..4) Tiến hành kháng chiến toàn diện, kết hợp các mặt trận và các
hình thức đấu tranh; trong đó, đấu tranh quân sự là chủ chốt, Quân đội
nhân dân Việt Nam (với các tên gọi Việt Nam giải phóng quân, Vệ quốc
quân, Quân đội quốc gia Việt Nam và cuối cùng là Quân đội nhân dân Việt
Nam) đã ngày một phát triển về số lượng và nâng cao trình độ tác chiến,
tài thao lược trên các chiến trường.
Quân đội luôn được “tổ chức
chặt chẽ, tập luyện hẳn hoi, chuẩn bị chu đáo”[7] thường xuyên, liên tục
để đảm bảo sẵn sàng chiến đấu; đội ngũ cán bộ - “những người tướng giỏi
của đoàn thể” và chiến sĩ quân đội luôn được chú trọng đào tạo và bồi
dưỡng đã xuất phát từ thực tiễn và vận dụng sáng tạo kinh nghiệm đánh
giặc của tổ tiên “lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn, lấy yếu chống
mạnh”,v.v.. để từng bước chuyển từ thế phòng ngự sang thế tiến công; đã
kiên cường, mưu trí và kiên trì, sáng tạo giành thắng lợi to lớn trong
trận Điện Biên Phủ, kết thúc 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược.
 Chủ tịch Hồ Chí Minh quan sát đồn Đông Khê tại Chiến dịch Biên giới năm 1950
Tuy nhiên chiến tranh chưa kết thúc, không chỉ giúp thực dân Pháp
trong cuộc chiến tranh Đông Dương, khi Pháp bại trận, đế quốc Mỹ đã
ngang nhiên tuyên bố không bị ràng buộc bởi Hiệp định Giơnevơ, can thiệp
sâu vào miền Nam Việt Nam, nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất
Tổ quốc của nhân dân Việt Nam đã trở thành một cuộc đụng đầu lịch sử.
Quyết tâm đánh Mỹ và quyết tâm thắng Mỹ, cả nước đã tiến hành cuộc chiến
tranh nhân dân với tinh thần đoàn kết “triệu người như một”, với niềm
tin chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và ý chí “đánh cho đến
thắng lợi hoàn toàn, đánh cho đến độc lập và thống nhất thực sự”.
Tiếp
tục phát huy truyền thống “cả nước đánh giặc” của cha ông trong lịch
sử, thấm nhuần lời dạy của Lênin, khi có chiến tranh phải “biến cả nước
thành một dinh luỹ cách mạng”, lực lượng vũ trang cách mạng bao gồm bộ
đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích được xây dựng và ngày
càng phát triển, hình thành thế trận bao vây và tiêu diệt địch. Để tiến
hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, xuất phát từ thực
tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải xây dựng quân đội ngày càng
hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu để giữ gìn hoà bình, bảo vệ đất nước,
bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm hậu thuẫn cho
cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà”[8].
Để thực hiện lời Người,
đồng thời để có đủ sức mạnh chiến thắng kẻ thù, cán bộ, chiến sĩ Quân
đội nhân dân Việt Nam đã ra sức rèn luyện, học tập nâng cao trình độ tác
chiến trên chiến trường, phối hợp với quân dân miền Bắc vừa sản xuất
vừa chiến đấu, tạo thành nguồn sức mạnh tổng hợp nhằm đưa cách mạng tiến
lên bằng những bước nhảy vọt. Cuối cùng, không chỉ phát triển về mọi
mặt, không chỉ luôn rèn luyện và ngày một trưởng thành mà quân đội ta
còn chớp đúng thời cơ và “thần tốc, thần tốc, thần tốc hơn nữa” để giành
thắng lợi trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc thắng lợi cuộc
Tổng tấn công mùa xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đát nước.
MÃI XỨNG DANH “BỘ ĐỘI CỤ HỒ”
Là
quân đội của nhân dân, với sự nỗ lực đoàn kết của toàn quân, đoàn kết
quân dân và đoàn kết quốc tế, Quân đội nhân dân Việt Nam - công cụ bạo
lực vũ trang chủ yếu của Đảng, Nhà nước và nhân dân đã góp phần to lớn
vào thắng lợi chung của dân tộc. Đối lập về bản chất với quân đội của
giai cấp bóc lột và quân đội xâm lược của các nước đế quốc, thực dân,
Quân đội nhân dân Việt Nam được tổ chức và xây dựng theo quan điểm của
Hồ Chí Minh: “Đối với nhân dân, nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ
đội”[9], “quân đội nhân dân, từ nhân dân tổ chức ra, được nhân dân nuôi
nấng, giúp đỡ, vì nhân dân mà chiến đấu”[10].
Luôn ghi nhớ “dân
là chủ. Dân như nước, mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết”
và “muốn giết địch, thắng trận thì phải có đồng bào giúp mọi mặt. Muốn
được đồng bào vui lòng giúp, thì phải giúp đỡ đồng bào, kính trọng đồng
bào. Đó là con đường thắng lợi”[11], mỗi quân nhân cách mạng đều thấm
nhuần và tuân theo "Mười điều kỷ luật" do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo
và yêu cầu cán bộ, chiến sĩ thực hiện:
1/Phải phục tùng mệnh lệnh của cấp trên. 2/Không được lấy cái kim sợi chỉ của dân. 3/Mua bán với dân phải công bằng. 4/Không được lấy của công làm của riêng. 5/Nói năng với dân phải lễ phép. 6/Phải giữ gìn sạch sẽ nhà cửa, vườn tược của dân nơi đóng quân. 7/Mượn cái gì của dân dùng xong phải đem trả. 8/Làm hư hại cái gì của dân phải bồi thường. 9/Không tắm rửa trước phụ nữ. 10/Không rượu chè, cờ bạc, hút thuốc phiện
Lịch
sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đã chứng minh rằng, Quân
đội nhân dân Việt Nam “mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và
kỷ luật nghiêm” và “quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là quân đội
nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”[12]. Đó cũng
chính là quá trình trang bị và giáo dục cho những người quân nhân cách
mạng về lý tưởng, mục tiêu, đường lối của Đảng, về nhiệm vụ cách mạng,
thể hiện từ nhận thức trở thành bản lĩnh chính trị, thành niềm tin,
thành ý chí và quyết tâm hành động. Quân đội nhân dân Việt Nam là tập
hợp đông đảo những người công nhân, nông dân, trí thức dũng cảm vốn xuất
thân “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu” đã luôn dựa vào nhân
dân như “cá với nước”; có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung
thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu vì độc lập,
tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Mỗi cán bộ, chiến sĩ dù ở cấp
bậc nào cũng luôn rèn luyện và gương mẫu về đạo đức, lối sống trong
chiến đấu cũng như trong cuộc sống đời thường; luôn nỗ lực học tập để
nâng cao năng lực toàn diện, sẵn sàng tác chiến trong thời chiến cũng
như thời bình; đều sẵn sàng vượt qua cực khổ, khó khăn, chống lại những
vinh hoa, phú quý không chính đáng; luôn thương yêu giúp đỡ lẫn nhau,
đồng cam cộng khổ cùng nhau trên cơ sở thực sự phát huy dân chủ.
Là
quân đội của nhân dân, gắn bó và yêu thương, kính trọng nhân dân, vì
nhân dân mà chiến đấu, đó là bản chất của quân đội cách mạng, đó cũng
chính là nhân tố quan trọng góp phần làm nên sức mạnh tổng hợp về chính
trị, tinh thần, ý chí quyết chiến, quyết thắng, tài thao lược của quân
đội ta trước mọi kẻ thù, trong mọi hoàn cảnh. Là quân đội của nhân dân,
những người lính “bộ đội Cụ Hồ" không chỉ đánh giặc giỏi mà còn là những
người sẵn sàng giúp dân về mọi mặt, tham gia chống thiên tai, bảo vệ an
toàn tính mạng và tài sản của nhân dân, xứng đáng với niềm tin yêu của
nhân dân, nhưng quyết “không động đến cái kim và sợi chỉ của nhân dân”,
để “làm cho dân mến, khi sắp tới dân mong, khi đi dân tiếc”.
75
năm xây dựng, rèn luyện và ngày một trưởng thành, là lực lượng trung
thành, tin cậy của Đảng, của chế độ, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn
xứng đáng với lời khen tặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung
với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của
Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”[13].
Trong bối
cảnh đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, trước cả thuận lợi
và khó khăn, thách thức của thời kỳ mới, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ
vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại
mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động bất ngờ…
càng đặt ra cho Quân đội nhân dân Việt Nam trọng trách lớn lao.
Nhận
rõ sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam chính là sức mạnh chính trị,
là từ sự lãnh đạo của Đảng, các thế lực thù địch, phản động ngày càng
tăng cường thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”,
đòi “phi chính trị hóa” quân đội, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ, âm mưu muốn xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với quân đội. Chúng không ngừng kích động gây mâu thuẫn giữa
quân đội với nhân dân, với công an; cán bộ đảng, chính quyền với cán bộ,
chiến sĩ trong quân đội; giữa cán bộ với chiến sĩ, hòng phá hoạt sự
đoàn kết, thống nhất nội bộ, làm mai một truyền thống quân dân "như cá
với nước” và sự đoàn kết hợp đồng các lực lượng trong hệ thống chính trị
xã hội chủ nghĩa của quân đội ta. Chúng còn cổ súy tâm lý “tự do”, ngại
kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh trong quân đội, lối sống thực dụng, buông
thả, vị kỷ để không chỉ nhằm kích động tư tưởng công thần, địa vị, bè
phái, cục bộ, đòi hưởng thụ đãi ngộ của các "bậc công thần"; kêu gọi
quân đội liên minh với quân đội một số nước để tiến lên hiện đại, trở
thành quân đội “nhà nghề” như quân đội các nước tư bản mà còn thúc đẩy
sự tha hóa, biến chất, “tự diễn biến” trong nội bộ quân đội theo ý đồ
của chúng.
Bộ đội giúp dân khi lũ về Tuy nhiên, càng nhiều
cam go, thử thách, yêu cầu và đòi hỏi phải xây dựng Quân đội nhân dân
Việt Nam xứng đáng là “lực lượng trụ cột” của cách mạng Việt Nam trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam càng trở nên bức thiết.
Càng phải đối phó với những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tăng của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, thù địch, càng phải xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam xứng đáng là lực lượng nòng cốt của sức mạnh
quốc phòng toàn dân; là lực lượng chiến đấu trong sạch, vững mạnh, tuyệt
đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Trên tinh
thần đó, phải tạo nên sức mạnh tổng hợp của quốc gia về cả tiềm lực và
thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận lòng dân, an ninh nhân dân gắn
với xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại” như Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Hiến
pháp năm 2013 đã khẳng định, kết hợp với sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế
và vận dụng sáng tạo thành tựu khoa học kỹ thuật của nền kinh tế tri
thức. Trong “từng bước hiện đại hoá” quân đội, tư tưởng “người trước,
súng sau” của Chủ tịch Hồ Chí Minh phải được thấm nhuần trong từng quyết
sách, để giải quyết đúng đắn mối quan hệ con người và vũ khí, trong đó
con người có vai trò quyết định.
Để phát huy truyền thống “bộ đội
Cụ Hồ” và xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam phát triển vững mạnh,
toàn diện, cần tập trung thực hiện một số giải pháp và nhiệm vụ trọng
tâm sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp,
toàn diện, thường xuyên của Đảng đối với quân đội: trong công tác Đảng,
công tác chính trị, xác định nhiệm vụ chính trị, quân sự, quốc phòng,
bảo vệ Tổ quốc; đường lối xây dựng thế trận lòng dân, nền quốc phòng
toàn dân, nền an ninh nhân dân gắn với xây dựng, củng cố thế trận chiến
tranh nhân dân; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng, phát
triển nền khoa học quân sự, nghệ thuật quân sự, chính sách hậu phương
quân đội; xây dựng cơ sở vật chất, khí tài… Tiếp tục xây dựng Quân đội
nhân dân Việt Nam "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại";
trong đó, chú trọng xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở
nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của toàn lực lượng. Cụ
thể, chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động công tác Đảng, công tác
chính trị; nâng cao ý chí, quyết tâm bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân
trong tình hình mới; tăng cường giáo dục truyền thống yêu nước, chống
giặc ngoại xâm của dân tộc gắn với truyền thống lịch sử của quân đội,
đơn vị...
Hai là, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng, làm cho cán bộ, chiến sĩ tiếp tục kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; làm cho bản
chất cách mạng, truyền thống “bộ đội Cụ Hồ” thấm sâu vào mỗi cán bộ,
chiến sĩ quân đội. Đồng thời, tăng cường đấu tranh trên mặt trận tư
tưởng, lý luận, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng; chủ động đấu tranh phản bác các luận điệu
tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch, nhất là âm mưu xóa bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng với quân đội, thúc đẩy “phi chính trị hóa”
quân đội, chia rẽ quân đội với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Xây dựng và
củng cố mối quan hệ trong quân đội và giữa quân đội với các thành tố
trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với bạn bè quốc tế gắn với không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ, xây
dựng môi trường văn hoá quân sự lành mạnh. Qua đó, tạo sự “miễn dịch”,
tăng sức “đề kháng” phòng ngừa sự tác động, xâm nhập từ mặt trái xã hội
vào môi trường quân đội, góp phần phòng, chống, ngăn chặn các biểu hiện
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh giáo dục về
bản chất, truyền thống vẻ vang của quân đội, bản chất, truyền thống mối
quan hệ đoàn kết quân dân gắn bó như “cá với nước” cho cán bộ, chiến sĩ
trong toàn quân gắn với tăng cường giáo dục, quán triệt trong toàn lực
lượng đường lối, quan điểm của Đảng về công tác dân vận, Quy chế dân chủ
cơ sở, về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh... Bồi đắp, xây dựng lòng tự hào, ý thức trách nhiệm cho mọi
cán bộ, chiến sĩ để tiếp tục vun đắp, củng cố, phát huy, phát triển mối
quan hệ gắn bó giữa quân đội với nhân dân trong giai đoạn hiện nay trên
tinh thần: Gắn bó với nhân dân, dựa vào nhân dân, đồng cam cộng khổ,
chia ngọt sẻ bùi với nhân dân, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân để được
nhân dân chăm lo, giáo dục và cùng nhân dân phối hợp chiến đấu, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ, chức năng là
đội quân công tác, góp phần xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mỗi cán bộ, chiễn sĩ Quân đội nhân
dân Việt Nam không chỉ thường xuyên tuyên truyền, vận động, giúp đỡ và
bảo vệ nhân dân mà còn thiết thực tiết kiệm của cải cho nhân dân, kết
hợp với tăng gia sản xuất để giảm việc đóng góp của nhân dân, góp phần
nâng cao đời sống nhân dân.
Bốn là, mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội
nhân dân Việt Nam không ngừng rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị,
tu dưỡng đạo đức người quân nhân cách mạng, năng lực lãnh đạo, chỉ huy,
tác chiến, trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ và sức mạnh chiến đấu
toàn diện để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quân đội; đồng thời,
thực hiện đoàn kết chặt chẽ trong nội bộ, đoàn kết trong nước và quốc
tế. Trong mọi thời điểm, phải giữ nghiêm kỷ luật, chân thành giúp đỡ lẫn
nhau trên cơ sở đường lối, chủ trương, nguyên tắc của Đảng, lợi ích của
nhân dân và chức năng, nhiệm vụ của quân đội; trên cơ sở kỷ luật quân
đội, tình thương yêu giữa cán bộ và chiến sĩ, giữa cấp trên và cấp dưới
để kết thành một khối thống nhất, vững chắc. Trong bất luận hoàn cảnh
nào, thực hiện nhiệm vụ gì “cán bộ và chiến sĩ thương yêu nhau như ruột
thịt, chia ngọt sẻ bùi. Quân và dân như cá với nước, đoàn kết một lòng,
học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau”[14], cũng luôn dũng cảm, tận tụy, mưu trí và
sáng tạo, đem hết tinh thần, sức lực, trí tuệ, tài năng, kiên quyết hoàn
thành thắng lợi nhiệm vụ trong chiến đấu và mọi mặt công tác như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn./.
TS. Văn Thị Thanh Mai, Ban Tuyên giáo Trung ương Ths. Vũ Văn Tuấn, Học viện Kỹ thuật Quân sự -----------------
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1 [2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.540 [3] Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội.1974, t.1, tr.236 [4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.37 [5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.448 [6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.121 [7] Hồ Chủ tịch với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1962, tr.69 [8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.365 [9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.485 [10] Nghị quyết quân sự của Đảng 1930-1960, tr.105 [11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.492 [12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.14, tr.435 [13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.14, tr.435 [14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.14, tr.435
Lượt người xem: Views:
345
Bài viết:
75 năm keo sơn gắn bó "như cá với nước"
|