(TUAG)- Sinh ra trong một gia đình nho giáo, ở vùng đất có truyền
thống văn hóa, yêu nước và cách mạng - làng Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc,
tỉnh Nam Định (nay là xã Nam Vân, TP Nam Định), đồng chí Lê Đức
Thọ, tên thật là Phan Đình Khải (10/10/1911 - 13/10/1990) sớm giác ngộ,
tham gia phong trào cách mạng từ khi 15 tuổi, đến năm 18 tuổi đồng chí
được kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng.
Là chiến sĩ
cộng sản trưởng thành từ phong trào cách mạng, lăn lộn, xông pha trên
nhiều trận tuyến, đồng chí Lê Đức Thọ được Bác Hồ và Trung ương Đảng
giao nhiều nhiệm vụ quan trọng. Đồng chí là một trong những nhà lãnh đạo
chủ chốt của Đảng ở Nam Bộ giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1948-1954).

Đồng chí Lê Đức Thọ tại căn cứ Trung ương Cục miền Nam năm 1968
Năm 1948, nhận rõ những khó khăn phức tạp của chiến trường Nam Bộ, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng quyết định cử đồng chí Lê Đức Thọ lãnh đạo một
phái đoàn Đảng và Chính phủ vào Nam kiểm tra và tăng cường cho cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở Nam Bộ. Theo yêu cầu của Đảng
bộ Nam Bộ và được sự đồng ý của Trung ương, đồng chí Lê Đức Thọ ở lại
tham gia lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ. Trên
cương vị là Phó Bí thư Xứ ủy Nam Bộ và sau đó là Bí thư, Trưởng Ban Tổ
chức Trung ương Cục miền Nam, đồng chí có công lớn trong việc xây dựng,
kiện toàn bộ máy lãnh đạo của Đảng ở Nam Bộ như: Kiện toàn bộ máy lãnh
đạo của Xứ ủy, trong đó có việc kiện toàn lại Văn phòng Xứ ủy, các ban
đảng vụ, các ban chuyên môn: Ban Dân vận, Ban Công vận, Nông vận, Tôn
giáo... Nhờ đó, các hoạt động chỉ đạo của Đảng có sự thống nhất, thông
suốt, chặt chẽ và hiệu quả.
Về quân sự, đồng chí Lê Đức Thọ đã
chấn chỉnh những sai lầm chủ quan, duy ý chí và giáo điều cả về công tác
tổ chức lực lượng vũ trang và quan điểm xây dựng phương thức tác chiến
thiên về “tập trung quân” thành trung đoàn và liên trung đoàn, dốc lực lượng vũ trang để “ăn to đánh lớn”
không phù hợp với hoàn cảnh cụ thể và tính đặc thù của chiến trường Nam
Bộ. Nhờ tổ chức lại lấy tiểu đoàn và đại đội làm đơn vị chủ công, kết
hợp vận động chiến với chiến tranh du kích của các địa phương, quân và
dân Nam Bộ đã giành lại thế chủ động trên chiến trường cùng Nhân dân cả
nước đánh bại Kế hoạch Nava, giam chân địch tại chỗ, góp phần quan trọng
vào chiến thắng Điện Biên Phủ.
Về kinh tế, đồng chí Lê Đức Thọ đã chỉ đạo xóa bỏ chủ trương “bao vây vùng kinh tế địch”
- cấm lưu thông hàng hóa giữa những vùng nông thôn giải phóng của ta
với các đô thị và những vùng địch hậu - nơi còn đang bị địch tạm thời
chiếm đóng, thực hiện chính sách kinh tế mới cho phép giao lưu buôn bán
giữa hai vùng. Nhờ vậy, kinh tế ở các khu căn cứ địa kháng chiến ở Đồng
Tháp Mười cũng như tại vùng bán đảo Cà Mau và Tây Sông Hậu phát triển,
đời sống Nhân dân được cải thiện rõ rệt, tạo điều kiện thuận lợi cho xây
dựng căn cứ địa cách mạng ở chiến khu U Minh. Với tình hình cụ thể, đặc
thù của nông thôn Nam Bộ, Bí thư Trung ương Cục miền Nam Lê Đức Thọ đã
chỉ đạo không thực hiện cải cách ruộng đất ở Nam Bộ như ở miền Bắc, vừa
tránh được tổn thất, vừa tạo điều kiện phát triển kinh tế, tập hợp lực
lượng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau này.
Trong công tác an ninh, đồng chí Lê Đức Thọ chỉ đạo sát sao “Giám đốc Sở Công an Nam Bộ”.
Là một trong những nhà lãnh đạo chủ yếu của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp ở Nam Bộ, đồng chí Lê Đức Thọ có công lớn trong quá trình đưa
cuộc kháng chiến của Nhân dân Nam Bộ phát triển, giành được những chiến
thắng vẻ vang, xứng danh “Thành đồng Tổ quốc” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
phong tặng.
Trước khi ta mở chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng chí
Lê Đức Thọ đã tiên liệu, dự báo trước tình hình, trực tiếp giao nhiệm vụ
mới cho nhà tình báo chiến lược Phạm Xuân Ẩn, góp phần quan trọng chuẩn
bị mạng lưới tình báo chiến lược cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước sau này. Khi chuẩn bị tập kết, đồng chí Lê Đức Thọ đã đề xuất kế
hoạch đưa hàng vạn con em cán bộ miền Nam ra miền Bắc học tập, đào tạo
để trở về xây dựng miền Nam sau này.
Sau cuộc Tổng tiến công Tết
Mậu Thân 1968, đồng chí được Bộ Chính trị cử vào miền Nam làm Phó Bí thư
Trung ương Cục miền Nam. Từ tháng 5/1968, đồng chí làm cố vấn đặc biệt
của Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Hội nghị
Paris, trực tiếp đàm phán với Mỹ về việc chấm dứt chiến tranh, lập lại
hòa bình ở Việt Nam.
Với 64 năm hoạt động cách mạng liên tục,
đồng chí Lê Đức Thọ đã đem tâm sức, tài năng và trí tuệ của mình cống
hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Nhân dân ta, là một
trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Tên tuổi
và sự nghiệp của đồng chí gắn liền với những giai đoạn của cách mạng
Việt Nam, gắn liền với những thành quả cách mạng vĩ đại của dân tộc, là
một trong những đồng chí lãnh đạo có nhiều cống hiến lớn cho sự nghiệp
cách mạng, để lại cho đồng bào, đồng chí những tình cảm vô cùng quý mến.
Đảng và Nhà nước ta đã trao tặng Đồng chí Huân chương Sao vàng và nhiều
Huân chương cao quý khác; Đảng và Nhà nước Liên Xô tặng Huân chương
Cách mạng Tháng Mười; Đảng và Nhà nước Campuchia tặng Huân chương Ăngco.
Đồng chí đã được tặng Giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1973, nhưng đã từ
chối vì khi đó nước nhà chưa được hòa bình, thống nhất. Tên tuổi và sự
nghiệp cách mạng của đồng chí Lê Đức Thọ sẽ sống mãi trong lòng Tổ quốc
và Nhân dân, sống mãi trong những trang vàng chói lọi của lịch sử cách
mạng Việt Nam
Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh đồng chí Lê Đức Thọ,
nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức
Trung ương Đảng là dịp để chúng ta tôn vinh và tri ân những cống hiến to
lớn của đồng chí Lê Đức Thọ đối với cách mạng Việt Nam. Đồng thời,
khích lệ, cổ vũ các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ noi gương đồng
chí Lê Đức Thọ và các đồng chí lãnh đạo cách mạng tiền bối tiêu biểu,
tích cực học tập, lao động, cống hiến trí tuệ, sức lực để xây dựng đất
nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Nguyễn Lam
_______________
Tài liệu tham khảo: Chương trình
sưu tầm tài liệu, viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo tiền bối tiêu biểu
của Đảng và cách mạng Việt Nam: Lê Đức Thọ - tiểu sử, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2020.