"Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn!"
(Tố Hữu)
Với tinh thần dựa vào sức mình là chính, vũ khí thô sơ và tinh thần
“Cảm tử
cho Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược
quân sự của thực dân Pháp. Đến năm 1953, chúng ta đã làm chủ trên các chiến
trường, tạo ra sự so sánh lực lượng có lợi cho ta. Để cứu vãn tình thế, thu -
đông năm 1953, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đã triển khai Kế hoạch Nava tăng
cường binh lực và phương tiện chiến tranh, mưu toan trong vòng 18 tháng sẽ tiêu
diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta, kiểm soát lãnh thổ Việt Nam, giành lại thế
chủ động trên chiến trường, làm cơ sở cho một giải pháp chính trị hòng tiếp tục
sự chiếm đóng lâu dài. Khi phát hiện hướng tiến công chiến lược của ta vào Tây
Bắc, Lai Châu và Thượng Lào, Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp đã cho quân nhảy
dù chiếm Điện Biên Phủ, xây dựng nơi đây thành căn cứ quân sự kiên cố.
Điện Biên Phủ là cứ điểm có ý nghĩa chiến lược khống chế cả một vùng rộng lớn
của Tây Bắc và Thượng Lào. Tuy nằm ngoài dự kiến ban đầu của Kế hoạch Nava,
nhưng các tướng lĩnh Pháp và Mỹ đã tăng cường lực lượng, xây dựng Điện Biên Phủ
thành một tập đoàn cứ điểm mạnh. Ở đây tập trung 16.200 quân gồm 21 tiểu đoàn
trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh,
1 đại đội xe tăng, 1 phi đội không quân, 1 đại đội vận tải cơ giới. Tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ được bố trí thành 3 phân khu Bắc, Trung, Nam với 49 cứ điểm,
huy động toàn bộ lính dù và 40% lực lượng cơ động tinh nhuệ nhất của Pháp ở
Đông Dương; hai sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm mỗi ngày có thể vận chuyển
khoảng 200 đến 300 tấn hàng và thả dù từ 100 đến 150 quân, đảm bảo nguồn tiếp viện
trong quá trình tác chiến. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm
phòng ngự mạnh nhất của Pháp ở Đông Dương lúc bấy giờ, như “một pháo đài không
thể công phá”, là nơi thu hút để tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta và là quyết
chiến điểm của Kế hoạch Nava.
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị họp và nhận định, đánh Điện Biên Phủ là một trận
chiến lớn nhất của quân đội ta từ trước tới nay và có ý nghĩa quân sự, chính
trị và ngoại giao rất quan trọng. Trên tinh thần đó, Bộ Chính trị đã quyết định
mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, thông qua phương án tác chiến, thành lập Bộ Chỉ
huy chiến dịch, Đảng uỷ mặt trận do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm
Bí thư Đảng uỷ chiến dịch. Chính phủ quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt
trận do đồng chí Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch. Mọi công việc chuẩn bị cho chiến
dịch được tiến hành khẩn trương với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để
chiến thắng”, các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết, bạt rừng, xẻ núi
mở đường kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng tiến công địch; dân công, thanh
niên xung phong bất chấp bom đạn bảo đảm hậu cần phục vụ chiến dịch.
Ngày 25/1/1954, các đơn vị bộ đội ta ở vị trí tập kết sẵn sàng nổ súng theo
phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Nhưng nhận thấy địch đã
tăng cường lực lượng phòng ngự vững chắc, Bộ Chỉ huy và Đảng ủy chiến dịch đã
đưa ra quyết định mới: giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ, thay đổi phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”. Thực
hiện phương châm mới, trận quyết chiến Điện Biên Phủ đã diễn ra trong 3 đợt:
Đợt 1: Từ ngày 13 đến 17/3/1954, quân ta đã dũng cảm tiêu diệt gọn cứ
điểm Him Lam và đồi Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía bắc
của tập đoàn cứ điểm, diệt và bắt sống trên 2000 tên địch, phá hủy 25 máy bay,
xóa sổ 1 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh.
Đợt 2: Từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/1954, quân ta đồng loạt tiến công các
cứ điểm phía đông phân khu trung tâm, thắt chặt vòng vây, chia cắt và liên tục
tiến công, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho tập
đoàn cứ điểm. Đây là đợt tấn công dai dẳng, dài ngày nhất, quyết liệt nhất, gay
go nhất, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc
biệt tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 giằng co tới 30
ngày. Sau đợt tấn công thứ 2 khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn
các loại pháo của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao
độ.
Đợt 3: Từ ngày 1/5 đến ngày 7/5/1954, quân ta đánh chiếm các cứ điểm
phía đông và mở đợt tổng công kích. Đêm ngày 6/5, tại đồi A1 trận chiến đấu
giữa ta và địch diễn ra quyết liệt, quân ta xông lên tiêu diệt từng lô cốt, nổ
phá từng hầm ngầm. Tên quan tư chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống
sót đã ra đầu hàng. 17 giờ 30 phút ngày 7/5, ta chiếm sở chỉ huy trung tâm,
tướng Đờ Ca-xtơ-ri cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ kéo cờ trắng ra hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân đội ta
tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Ngay trong đêm đó quân ta tiếp tục tiến
công phân khu Nam, đánh địch tháo chạy về Thượng Lào, đến 24 giờ toàn bộ quân
địch đã bị bắt làm tù binh.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan
toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn
rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng
của địch. Ngày 7/5/1954 trở thành ngày kỷ niệm kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, chiến thắng Điện Biên Phủ
là một trong những đỉnh cao chói lọi, một kỳ tích vẻ vang. Trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là chiến thắng vĩ
đại nhất, giáng đòn quyết định, tạo bước ngoặt làm thay đổi cục diện chiến
tranh trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt chiến tranh, lập
lại hòa bình ở Đông Dương.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và can thiệp Mỹ; chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên
bán đảo Đông Dương; bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng tháng Tám; giải
phóng miền Bắc, tạo cơ sở vững chắc để tiến lên giành thắng lợi trong cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mỹ giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã củng cố niềm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân chiến đấu dưới lá cờ vẻ
vang của Đảng vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
66 năm trôi qua, Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng làm lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu. Có được chiến thắng này trước hết được bắt nguồn từ sự
lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong
suốt cả cuộc kháng chiến, nhất là ở những thời điểm có tính bước ngoặt quan
trọng của cuộc chiến tranh, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nắm vững
lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, phát động cuộc chiến tranh nhân
dân, toàn dân, toàn diện, xây dựng và sử dụng lực lượng vũ trang cách mạng làm
nòng cốt; đánh địch bằng cả sức mạnh của thời đại ngày nay trong sự kết hợp
chặt chẽ với kinh nghiệm truyền thống của dân tộc, của nhân loại; đánh địch
bằng sức mình là chính, đồng thời tranh thủ tối đa sự ủng hộ mọi mặt của các
nước xã hội chủ nghĩa và bè bạn khắp 5 châu; chủ động tạo nên sự chuyển hóa căn
bản về thế và lực, làm cho sức ta càng đánh càng mạnh và đẩy quân địch vào tình
thế ngày càng khốn đốn, phải đầu hàng vô điều kiện. Chứng minh một chân lý của
thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường
lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó
nhất định giành thắng lợi./.
HB.ĐL