Tham
dự hội thảo có Phó Giáo sư, tiến sĩ Bùi Nhật Quang, Ủy viên dự khuyết
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam; Giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Quang Thuấn, Phó Chủ tịch Hội đồng lý
luận Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo - Chủ nhiệm Đề án Di tích Óc Eo - Ba
Thê, Nền Chùa (Văn hóa Óc Eo Nam bộ), cùng các nhà khoa học của Viện
Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, đại diện Bộ Khoa học - Công Nghệ, lãnh
đạo UBND tỉnh An Giang cùng đông đảo các nhà nghiên cứu, chuyên gia
khảo cổ học đến từ các viện, trường trong cả nước.
Tại hội
thảo, các đại biểu tập trung đánh gia một cách khách quan nhất về giá
trị lịch sử, văn hóa của các di tích và di vật đã được khai quật, để xác
định một cách khoa học nhất vị trí của nền văn hóa Óc Eo trong tiến
trình lịch sử của dân tộc và trong bối cảnh khu vực lúc bấy giờ, nhằm
xây dựng những luận cứ khoa học, chắc chắn nhất để xây dựng hồ sơ khoa
học đề cử UNESCO xem xét công nhận vùng không gian Văn hóa Óc Eo – Ba
Thê và Nền Chùa là Di sản Văn hóa thế giới trong thời gian tới; đồng
thời, làm cơ sở cho các đơn vị liên quan đề ra các giải pháp bảo tồn và
phát huy các giá trị khu di tích Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa trong giai
đoạn tiếp theo.
Giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Quang Thuấn, Phó Chủ tịch
Hội đồng lý luận Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo – Chủ nhiệm Đề án Di
tích Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa cho biết, cho đến hôm nay, có thể nói, một
diện tích đủ lớn của nền văn hóa Óc Eo đã được khai quật, các di tích
và di vật được xuất lộ đã bước đầu làm lộ diện một nền văn hóa khảo cổ
đã từng tồn tại cách đây khoảng hai nghìn năm trên mảnh đất Tây Nam Bộ
của mảnh đất đầy yêu thương của Tổ quốc Việt Nam. Độ rộng không gian mà
nền văn hóa này lan tỏa, cùng với chiều sâu thời gian lịch sử mà nền văn
hóa này tồn tại, cũng như sự phong phú và độc đáo của các giá trị văn
hóa của các di tích và di vật của nền Văn hóa Óc Eo cho phép chúng ta tự
hào về sự quyết liệt, ý chí, sức sáng tạo của khối óc cũng như sự khéo
léo của bàn tay, sự tinh tế về tâm hồn của bao thế hệ ông cha ta gửi gấm
nơi đây.
“Căn
cứ vào các kết quả khai quật và nghiên cứu được thực hiện trong thế kỷ
XX và thập niên đầu thế kỷ XXI, trong địa bàn rộng lớn mà nền văn hóa Óc
Eo lan tỏa, hai vị trí được xác định là có vị trí hết sức quan trọng,
đó là Khu di tích Óc Eo - Ba Thê (An Giang) được xác định là một đô thị
hoặc cảng thị, một trung tâm kinh tế - văn hóa lớn của Văn hóa Óc Eo -
Phù Nam và khu di tích Nền Chùa (Kiên Giang) được xem như một “tiền
cảng” quan trọng, là nơi xuất, nhập khẩu các loại hàng hóa cho đô thị cổ
Óc Eo và các thị tứ thời bấy giờ trong vùng tứ giác Long Xuyên” - Giáo
sư, tiến sỹ Nguyễn Quang Thuấn cho biết thêm.
Theo Phó Giáo sư,
tiến sĩ Bùi Chí Hoàng, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ - Phó Chủ nhiệm
Đề án Di tích óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa (Văn hóa Óc Eo Nam Bộ), Óc Eo là
tên một gò đất trên cánh đồng phía Đông Nam núi Ba Thê, thuộc xã Vọng
Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Óc Eo được biết đến như một nền văn
hóa khảo cổ tồn tại trong nhiều thiên niên kỷ đầu Công nguyên ở vùng
đất Tây Nam Bộ của Việt Nam (văn hóa Óc Eo hình thành và phát triển
khoảng từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII sau Công nguyên) Đây là một
nền văn hóa lớn trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với đất nước, con người
ở vùng đồng bằng châu thổ hạ lưu sông Mekong; đồng thời, nó còn có quan
hệ mật thiết với lịch sử Đông Nam Á thời cổ.
Vùng này phân bố
trên một khu vực rất rộng ở miền châu thổ sông Cửu Long, trong miền đất
trũng Tây sông Hậu bao gồm nhiều vùng sinh thái khác nhau của các tỉnh
An Giang (Óc Eo-Ba Thê), Kiên Giang (Đá Nổi, Nền Chùa, Tân Long), Đồng
Tháp (vùng Đồng Tháp Mười), vùng ven biển Tây Nam (U Minh, Năm Căn) kéo
đến vùng rừng Sác duyên hải (Cần Giờ, Giồng Am...) và vươn ra tận Biển
Đông (khu vực từ cửa sông Tiền đến Cà Mau).
Ngoài
ra, khảo cổ học đã phát hiện nhiều di tích, di vật thuộc văn hóa Óc Eo ở
các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, một phần Long An,
Bình Thuận và Thành phố Hồ Chí Minh.
Những nghiên cứu đầu tiên về
văn hóa Óc Eo có lịch sử lâu dài, từ những năm 1940 do các nhà nghiên
cứu người Pháp, đặc biệt là Louis Malleret; những kết quả nghiên cứu
được Louis Malleret công bố trong bốn tập sách “Khảo cổ học đồng bằng
sông Cửu Long” (1959 -1963), giới khoa học trên thế giới đã bắt đầu có
những quan tâm và xem đây là những tư liệu chứng minh cho việc hình
thành một quốc gia sớm nhất tại khu vực Đông Nam Á – Vương quốc Phù Nam.
Sau
năm 1975 và nhiều thập niên tiếp theo sau đó, Khảo cổ học Việt Nam cũng
đã có nhiều chương trình nghiên cứu về văn hóa Óc Eo và thu thập nhiều
tư liệu khoa học rất quý, góp phần bổ sung thêm vào khối tư liệu về di
tích và di vật đã có từ thời Pháp trước đó; tính phong phú, đa dạng và
giá trị của những tư liệu giai đoạn này có thể nói vượt trội hơn hẳn so
với các phát hiện về tư liệu và nghiên cứu mà Louis Malleret đã từng
tiến hành ở Óc Eo.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, nguồn gốc xuất xứ
của văn hóa Óc Eo bắt nguồn từ trong văn hóa Đồng Nai. Mối liên hệ tiếp
nối văn hóa Đồng Nai-Óc Eo được minh chứng bởi sự hiện diện ở văn hóa
Óc Eo hàng loạt loại hình hiện vật đã có mặt trong văn hóa Đồng Nai, đó
là các đồ dùng, vật dụng sinh hoạt bằng gốm, dụng cụ thủ công (bàn xoa,
bàn dập, bàn mài…); đồ đồng, đồ sắt (lục lạc, mũi dùi, rìu); đồ trang
sức (hạt chuỗi thủy tinh, mã não); nhà sàn trên cọc gỗ…
Bên cạnh
đó, trong tiến trình phát triển, văn hóa Óc Eo có những giao lưu văn hóa
rộng lớn với những nền văn minh thời cổ đại như với văn minh Đông Sơn
(những hoa văn trang trí và những hiện vật đồng kiểu tương tự như văn
minh Đông Sơn); với Ấn Độ (những tượng thờ thuộc Ấn Độ giáo, Phật giáo,
đồ trang sức, hoa văn chạm chìm, con dấu, văn tự…); với thế giới Địa
Trung Hải và Trung Đông (huy chương La Mã, hoa văn trang trí, hình chạm
chìm, tượng đồng, hạt chuỗi La Mã, hình tượng vua Ba Tư…); và với Trung
Hoa (mảnh gương đồng, tượng phật nhỏ)... nhưng vẫn giữ được những nét
riêng, mang tính bản địa, điều này được thể hiện qua số lượng đồ gốm,
qua nồi nấu kim loại, khuôn đúc và các công cụ chế tác mà chúng ta đa
khai quật được.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu, Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, Óc Eo là một di tích
rất lớn, một trung tâm văn hóa cổ của đồng bằng sông Cửu Long, một hình
mẫu của sự kết hợp những yếu tố nội sinh và ngoại sinh trong sự phát
triển; một vốn quý và điểm chốt quan trọng trong việc nghiên cứu những
vấn đề lịch sử văn hóa của đất nước và khu vực Đông Nam Á.
Tuy
nhiên, hiện nay, diện mạo khu di tích Óc Eo - Ba Thê ngày nay cũng như
nhiều khu di tích khảo cổ học khác đã thay đổi khá nhiều. Các khu di
tích này nằm trong vùng tứ giác Long Xuyên, hàng năm chịu tác động của
mùa nước nổi, hơn một nghìn năm qua đã làm cho các khu di tích ngày càng
hoang phế và tác động ngày một khốc liệt hơn, do đó, tiến sĩ Nguyễn Thị
Hậu đề xuất cần phải bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Óc Eo -
một di sản văn hóa - lịch sử quan trọng của Việt Nam nói riêng và của
Đông Nam Á nói chung.
Phát
biểu tại hội thảo, ông Lê Văn Nưng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang
khẳng định, Óc Eo là một nền văn hóa khảo cổ lâu đời, nổi tiếng ở khu
vực Nam Bộ và thế giới. Đây là nền văn hóa gắn liền với Vương quốc Phù
Nam. Không gian phân bổ của nền văn hóa Óc Eo là rất rộng, trong đó Óc
Eo - Ba Thê An Giang được xác định là một vị trí rất quan trọng trong
khu vực. Do đó, việc phối hợp để tăng cường nguồn lực đầu tư nghiên cứu,
bảo tồn thật tốt di tích; đồng thời hướng tới xây dựng hồ sơ văn hóa Óc
Eo trình UNESCO ghi danh di sản văn hoá Thế giới cho Óc Eo - Ba Thê là
một trong những nhiệm vụ hàng đầu của tỉnh An Giang hiện nay.
Theo
Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang, thời gian qua, tỉnh An Giang đã tăng
cường các nguồn lực đầu tư và cùng với các cơ quan khoa học, tiếp tục
nghiên cứu, bảo tồn di tích văn hoá Óc Eo. Nhận thức đầy đủ những giá
trị lịch sử, văn hóa của khu di tích quốc gia đặc biệt Óc Eo - Ba Thê,
tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương, chỉ thị về việc bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hóa Óc Eo; chỉ tính từ năm 2012 đến nay tỉnh An Giang
đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng cho khu di tích văn hóa Óc Eo như: kết cấu
hạ tầng cơ sở, hệ thống giao thông nối liền các di tích, đồ án quy hoạch
văn hóa Óc Eo; phối hợp với các cơ quan khoa học trong nước, quốc tế tổ
chức nhiều cuộc khai quật, thám sát di tích và Hội thảo, toạ đàm, viết
và phát hành hàng chục đầu sách, ấn phẩm các loại có liên quan về văn
hoá Óc Eo... nhằm nâng cao nhận thức và sự chung tay, góp sức của cộng
đồng dân cư địa phương trong việc bảo vệ, phát huy những giá trị của nền
văn hóa Óc Eo bởi họ cũng chính là những chủ nhân thực sự của di sản
này (với 5.000 hiện vật văn hóa Óc Eo các loại được người dân trong,
ngoài tỉnh An Giang tự nguyện hiến tặng).
“Từ những kết quả nêu
trên, so với tiềm năng của nền văn hoá Óc Eo đang có mặt rộng khắp trên
gần 20 tỉnh, thành ở Nam Bộ và giá trị của nó thế giới cũng đã thừa
nhận, vì vậy tinh thần ấy càng làm cho các địa phương có sở hữu di sản
văn hóa Óc Eo nhất là tỉnh An Giang, phải cố gắng, chủ động phối hợp với
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Hội Đồng di sản văn hóa quốc gia, Viện
Hàn lâm KHXH Việt Nam và các cơ quan liên quan ở Trung ương, địa
phương. An Giang quyết tâm phối hợp, đề xuất xây dựng hồ sơ di sản văn
hóa Óc Eo để UNESCO vinh danh trong thời gian sớm nhất có thể” - Phó Chủ
tịch UBND tỉnh An Giang nhấn mạnh./.
Công Mạo