NỘI DUNG TƯ TƯỞNG ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế chứa đựng nhiều nội dung phong
phú, rộng lớn; được thể hiện một cách rõ ràng, nhất quán, kiên định qua
nhận thức, quan điểm và hành động của Người. Đáng chú ý một số điểm như
sau:
Thứ nhất,
đoàn kết quốc tế là một đòi hỏi khách quan, một vấn đề có tính nguyên
tắc, là chiến lược xuyên suốt, nhất quán và có vai trò, vị trí, ý nghĩa
quan trọng đối với cách mạng Việt Nam.
Tiếp
bước con đường đi ra thế giới của các chí sĩ yêu nước như Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh; rút kinh nghiệm từ thất bại của những phong trào
yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược đầu thế kỷ XX; nhờ những trải
nghiệm trong thời gian sinh sống, lao động ở nước ngoài; qua hoạt động
với tư cách đảng viên Đảng Xã hội Pháp, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, và
nhất là nhận được nguồn cổ vũ lớn từ thắng lợi vĩ đại của Cách mạng
tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh là người đầu tiên và duy nhất xác định rõ
ràng nền tảng, nhân tố quan trọng cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam là đoàn kết, hội nhập với thế giới.
Trong
quan điểm của Người, thân phận bất hạnh của đa số “người bị bóc lột”,
người lao động nghèo ở các nước là cơ sở chính hình thành nên “tình hữu
ái”, sự đoàn kết giữa các dân tộc trên thế giới; đoàn kết quốc tế là yếu
tố quan trọng làm nên sức mạnh của cách mạng giải phóng dân tộc nói
chung và cách mạng ở Việt Nam nói riêng.
Thứ hai, Chủ
tịch Hồ Chí Minh có quan điểm rõ ràng về mục tiêu của đoàn kết quốc tế.
Đó là, tranh thủ nguồn lực bên ngoài để tăng cường sức mạnh cho cuộc
đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước và kết hợp sức mạnh
dân tộc và sức mạnh thời đại thành sức mạnh tổng hợp, vì quốc gia, dân
tộc và vì nền hòa bình của khu vực và trên thế giới. Với Hồ Chí Minh,
“sức mạnh, sự vĩ đại và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự
đoàn kết của nhân dân Việt Nam và sự ủng hộ của nhân dân thế giới… Sự
đoàn kết quốc tế có một ý nghĩa to lớn với chúng tôi”(1).
Thứ ba, với
Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết quốc tế, để thực sự tạo nên sức mạnh,
phải được xây dựng trên những nguyên tắc cơ bản: 1) không phân biệt,
bình đẳng, cùng có lợi; 2) tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của nhau; 3) phải phát huy tinh thần “tự lực cánh sinh”, dựa vào
sức của mình là chính; 4) có lý, có tình. Trong Lời tuyên bố của Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng Chính phủ các nước trên thế giới
ngày 14-1-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Căn cứ trên quyền lợi
chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại
giao với Chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và
chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hòa bình và
xây đắp dân chủ thế giới”(2).
Người khẳng định: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt mọi quan
hệ thân thiện hợp tác với bất cứ một nước nào trên nguyên tắc: tôn
trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của nhau, không xâm phạm
lẫn nhau, không can thiệp nội trị của nhau, bình đẳng cùng có lợi, và
chung sống hòa bình”(3).
Đây là thông điệp về hòa bình, hợp tác, hữu nghị, tôn trọng các quyền
dân tộc cơ bản của nhau của nhân dân Việt Nam với thế giới. Đây cũng là
tư duy, tầm nhìn vượt thời đại của Hồ Chí Minh.
Thứ tư,
đoàn kết quốc tế, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề tập hợp lực lượng là
rất quan trọng. Lực lượng đoàn kết quốc tế, theo tư tưởng của Người,
rất phong phú song tập trung chủ yếu vào phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc, phong trào hòa bình, dân chủ thế giới. Hồ Chủ tịch đã thành
công khi gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ
hòa bình, tự do, công lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ được sự
ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Đồng thời, trong việc mở
rộng lực lượng đoàn kết quốc tế, Người còn xác định rõ vai trò quan
trọng của các quốc gia láng giềng, các nước lớn.
Có
thể khẳng định, tư tưởng về đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là những định hướng, nền tảng, cơ sở lý luận quan trọng cho việc hoạch
định và thực thi đường lối, chính sách đối ngoại Việt Nam, là ánh sáng
soi đường của đối ngoại Việt Nam.
VIỆT NAM THỰC HIỆN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
Những
thành công của đối ngoại Việt Nam, nhất là trong hơn 30 năm Đổi mới, là
thực tiễn chứng minh rõ ràng và đầy đủ nhất về tầm nhìn, bản lĩnh, trí
tuệ của con người vĩ đại Hồ Chí Minh.
Thứ nhất,
hợp tác quốc tế luôn là nguyên tắc, chiến lược, có vai trò, vị trí, ý
nghĩa quan trọng trong quan điểm, chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Việt Nam đã và đang triển khai hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành
viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Sau
chiến thắng năm 1975, sau gần 10 năm rơi vào tình thế khó khăn trên
trường quốc tế, tới năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã mở ra một giai đoạn phát triển mới, một thời kỳ “Đổi mới” toàn
diện, tạo nên thế và lực mới cho dân tộc.
Từ
quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô, với Lào và Campuchia, với các
nước khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế… đến nay, Việt Nam đã xác lập
mối quan hệ thương mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới, là đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với gần 30 quốc gia,
trong đó có tất cả các nước lớn và 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng
bảo an Liên hợp quốc, là đối tác toàn diện với tất cả các nước trong
cộng đồng ASEAN; lần đầu tiên được bầu vào Ủy ban Luật thương mại quốc
tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL); lần thứ hai được bầu, trở thành Ủy viên
không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 và
tới 2020, là Chủ tịch luân phiên của ASEAN. Là thành viên của WTO, của
nhiều thể chế đa phương, đến nay, Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán
ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do FTA với 59 đối tác trên toàn thế
giới.
Việt
Nam ngày càng chủ động, sáng tạo hơn trong triển khai hợp tác quốc tế,
hội nhập quốc tế, góp phần phục vụ tốt lợi ích quốc gia, dân tộc. Tính
đến nay, Việt Nam được 71 nước công nhận là quốc gia có nền kinh tế thị
trường và hiện trong top đầu của ASEAN về mức độ hội nhập và độ mở của
nền kinh tế. Mối quan hệ với các đối tác kinh tế khiến tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu của Việt Nam tương đương 200% GDP.
Cùng
với kinh tế, hợp tác, hội nhập quốc tế đã góp phần không nhỏ trong ổn
định chính trị, an ninh trong nước, góp phần đan xen lợi ích với các đối
tác, qua đó, tạo cục diện thuận lợi để Việt Nam giữ nước từ xa. Tính
đến nay, sau 5 năm bắt đầu tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên
hợp quốc, Việt Nam đã cử 90 sĩ quan tham gia sứ mệnh quốc tế cao cả này.
Có thể xem đây là sự thể hiện mức độ tham gia ngày càng sâu hơn, đóng
góp ngày càng tích cực hơn của Việt Nam với tư cách là thành viên có
trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Thứ hai,
thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, hoạt động đối ngoại
của Việt Nam tập trung vào các đối tác ưu tiên, chủ chốt, các nước lớn,
các nước láng giềng, khu vực và các đối tác quan trọng khác.
Quan
hệ giữa Việt Nam với Lào, Campuchia và các nước ASEAN tiếp tục có những
bước tiến mới, quan trọng. Những nỗ lực lớn của Việt Nam trong xây dựng
mối quan hệ hợp tác quốc tế, nhất là trong lĩnh vực kinh tế ngày càng
nhiều. Kết quả năm 2018, Việt Nam xuất khẩu đạt 243,5 tỷ USD và xuất
siêu 6,8 tỷ USD một phần quan trọng nhờ quan hệ tốt với các đối tác lớn.
Thứ ba,
đoàn kết, hợp tác quốc tế, với Hồ Chí Minh, gắn với nguyên tắc bất di
bất dịch và mục tiêu quan trọng là góp phần đấu tranh bảo vệ vững chắc
chủ quyền lãnh thổ; hợp tác tìm giải pháp ổn định, lâu dài, cùng có lợi
trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế và tôn trọng lợi ích chính đáng
của nhau. Đây là một đóng góp lớn của đối ngoại Việt Nam thời gian qua.
Nguy
cơ lớn nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam
hiện nay, là vấn đề Biển Đông. Tình hình Biển Đông trong vòng hơn 10 năm
qua diễn biến ngày càng phức tạp, không chỉ là vấn đề tranh chấp chủ
quyền, mà còn là tâm điểm cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, Việt Nam đã, đang và
luôn sẵn sàng giải quyết những tranh chấp, bất đồng trên Biển Đông bằng
biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, đồng thời coi trọng
việc giữ gìn mối quan hệ hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng.
Nhờ lập trường chính nghĩa, nhờ những bằng chứng pháp lý và căn cứ lịch
sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam luôn nhận được sự quan tâm, ủng hộ của cộng đồng quốc tế./.
___________________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, t.15, tr.675.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr. 311.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr. 12.
TS. Đỗ Phương Thảo
Vụ Thông tin đối ngoại và Hợp tác quốc tế
Ban Tuyên giáo Trung ương
_____________________________
(Bài đăng trên Tạp chí Tuyên giáo số 10/2019)