Skip Ribbon Commands
Skip to main content

Xây dựng Đảng

Chào mừng quý vị đến với Cổng thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh An Giang!
Xây dựng Đảng
Thứ 4, Ngày 29/12/2021, 10:00
An Giang: Kết quả công tác phát triển đảng viên thời gian qua và một số nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới
Cỡ chữ: Font size: Giảm (A-) Mặc định (A) Tăng (A+)
29/12/2021 | Như Anh

(TUAG)- Phát triển đảng viên là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng nhằm tăng thêm nguồn sinh lực cho Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Nếu không làm tốt công tác này, Đảng sẽ bị già hóa, trì trệ, giảm sút năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, không hoàn thành được vai trò lãnh đạo và sứ mệnh của mình đối với sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, tiến hành công tác phát triển đảng viên là yêu cầu khách quan, thường xuyên trong hoạt động lãnh đạo và công tác tồ chức xây dựng Đảng.

Nhằm đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân; đồng thời, đề ra các nhiệm vụ, giải pháp để đẩy mạnh công tác tạo nguồn, kết nạp đảng viên xin đề xuất một số giải pháp trọng tâm sau.

Thực trạng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên

Về tổ chức cơ sở đảng: Tính đến ngày 31/6/2021, toàn Đảng bộ tỉnh có 798 tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ), trong đó, có 335 đảng bộ cơ sở và 463 chi bộ cơ sở, 35 đảng bộ bộ phận, 3.010 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở, bao gồm các loại hình: (1) xã, phường, thị trấn có 156 TCCSĐ (119 xã, 21 phường, 16 thị trấn), chiếm 19,54%, 3010 chi bộ trực thuộc với 44.223 đảng viên; (2) Các cơ quan hành chính nhà nước có 322 TCCSĐ (36 đảng bộ, 286 chi bộ), chiếm 40,35%, trong đó, cơ quan đảng, đoàn thể 103; cơ quan nhà nước219, 263 chi bộ trực thuộc với tổng số 6.455 đảng viên; (3) Các đơn vị sự nghiệp có 145 TCCSĐ (45 đảng bộ cơ sở và 100 chi bộ cơ sở), chiếm 18,17%, có 278 chi bộ trực thuộc với 6.263 đảng viên; (4) Quân đội, công an, biên phòng có 76 tổ chức cơ sở đảng, chiếm 9,52%%( 57 đảng bộ cơ sở và 19 chi bộ cơ sở), 296 chi bộ trực thuộc với 3898 đảng viên và (5) doanh nghiệp và hợp tác xã có 101 tổ chức cơ sở đảng (37 đảng bộ cơ sở và 64 chi bộ cơ sở), chiếm 12,65%; có 185  chi bộ trực thuộc với 4.177 đảng viên.

Tình hình đảng viên hiện nay

Số lượng đảng viên: Tính đến 31/12/2020, toàn Đảng bộ tỉnh hiện có 65.052 đảng viên, tăng 20.561 đảng viên so với năm 2010 (năm 2010 là 44.491 đảng viên), trong đó, nữ 23.022 đảng viên, tăng 9.853 đảng viên (13.169), chiếm tỷ lệ 35,39% so với tổng số đảng viên; dân tộc thiểu số 1.629 đảng viên (1.040), tăng 589 đảng viên, chiếm tỷ lệ 2,5% và tôn giáo có 13.033 đảng viên (chiếm tỷ lệ 20,03%).

Về độ tuổi: Từ 18-30 tuổi có 13.194 đảng viên; từ 31-35 tuổi có 12.440 đảng viên; từ 36-40 tuổi có 11.720 đảng viên; từ 41-45 tuổi có 7.527 đảng viên; từ 46-50 tuổi có 5.848 đảng viên; từ 51-55 tuổi có 5.766 đảng viên; từ 56-60 tuổi có 4.685 đảng viên; trên 60 tuổi có 3.872 đảng viên.

Về trình độ: (1) Chuyên môn: 4.868 đảng viên có trình độ công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ, sơ cấp; 12.106 đảng viên có trình độ trung cấp; 5.187 đảng viên có trình độ cao đẳng; 29.293 đảng viên có trình độ đại học; 2.309 đảng viên có trình độ thạc sĩ và 91 đảng viên có trình độ tiến sĩ; (2) Lý luận chính trị: 28.318 đảng viên có trình độ sơ cấp; 17.010 đảng viên có trình độ trung cấp; 4.089 đảng viên có trình độ cao cấp, cử nhân.

Về cơ cấu nghề nghiệp: Tồng số đảng viên đang làm việc và công tác là 54.537 đồng chí, chiếm tỷ lệ 83,83% tổng số đảng viên. Tổng số cán bộ, công chức cấp xã trở lên và người hoạt động không chuyên trách ấp, khóm, tổ dân phố chiếm tỷ lệ 30,40% trong tổng số đội ngũ đảng viên hiện đang công tác và làm việc; viên chức trong các đơn vị sự nghiệp chiếm 19,91 %; người làm nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 1,19%; lực lượng vũ trang chiếm 6,61%; người làm việc trong các doanh nghiệp chiếm là 3.615 chiếm 5,55 %; học sinh, sinh viên là 97 chiếm 0,14 % và lao động khác chiếm là 5.477 chiếm 8,41%.

Hiện nay, tổng số biên chế viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp toàn tỉnh là 39.687 đồng chí; trong đó, tổng số đảng viên 12.954 đồng chí, chiếm tỷ lệ %. Nguồn quần chúng để kết nạp Đảng trong các đơn vị sự nghiệp còn khá lớn, điển hình trong lĩnh vực sự nghiệp giáo dục và y tế.

Kết quả công tác phát triển đảng viên

Nhiệm kỳ 2015 - 2020, toàn tỉnh dã kết nạp được 10.497 đảng viên, đạt tỷ lệ 69,98% so với Nghị quyết đề ra, trong đó: Xét theo số lượng kết nạp của từng địa phương, đơn vị trên tổng số đảng viên mới được kết nạp toàn tỉnh thì một số địa phương, đơn vị có số lượng đảng viên mới kết nạp cao, như: Đảng bộ TP Long Xuyên, TP Châu Đốc, huyện Chợ Mới, Đảng ủy Công an tỉnh, huyện Châu Thành, huyện Thoại Sơn, huyện Tri Tôn, huyện Tịnh Biên, Đảng ủy Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh…

Về đảng viên mới kết nạp là nữ: Giai đoạn 2016 - 2020, toàn tỉnh có tổng số đảng viên nữ được kết nạp vào Đảng 3.561 đồng chí, chiếm 33,92tỷ lệ % so tổng số đảng viên được kết nạp; nhìn chung, cơ cấu đảng viên mới kết nạp theo giới tính khá cân bằng và có sự chuyển biến tích cực, đảng viên nữ tăng nhanh, chiếm tỷ lệ ngày càng cao. Về đảng viên mới kết nạp là đoàn viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh: Giai đoạn 2016 - 2020 tổng số đảng viên là đoàn viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh kết nạp là  5.132 đồng chí, chiếm tỷ lệ 48,89 %. Tỷ lệ kết nạp đảng viên mới là đoàn viên qua mỗi năm có xu hướng tăng; tuy nhiên, số lượng đảng viên mới kết nạp còn hạn chế so với tổng nguồn đoàn viên chưa kết nạp hiện có. Về đảng viên mới kết nạp là người dân tộc thiểu số: Tổng số đảng viên mới kết nạp là người dân tộc thiểu số từ năm 2016 - 2020 là 163 đồng chí, chiếm tỷ lệ 1,55%, tăng hơn so với nhiệm kỳ trước; qua đó, cho thấy việc kết nạp đảng viên là người dân tộc được quan tâm hơn. Về đảng viên mới là người có đạo, người làm việc trong doanh nghiệp: Tỷ lệ đảng viên mới là người có đạo so với tồng số đảng viên mới kết nạp toàn tỉnh giai đoạn 2016 - 2020 chỉ chiếm tỷ lệ 17,88 %. Đảng viên mới làm việc trong các doanh nghiệp chiếm tỷ lệ  3,79%. Như vậy, việc kết nạp đảng viên mới là người có đạo, người làm việc trong các doanh nghiệp còn rất thấp.

Về độ tuổi đảng viên mới kết nạp

Độ tuổi bình quân đảng viên mới kết nạp là 28,04 tuổi. Trong đó, đảng viên kết nạp từ 18 đến 30 tuổi, chiếm tỷ lệ 64,83% cao nhất trong tổng số đảng viên mới toàn tỉnh,  độ tuổi từ 31 đến 35 tuồi, chiếm tỷ lệ 23,07%; từ 36 đến 40 tuổi, tỷ lệ 8,14 %; độ tuổi từ 41 đến 45 tuồi, chiếm tỷ lệ 2,62%; độ tuổi từ 46 đến 50 tuồi, chiếm tỷ lệ 1,07%; và từ 51 tuổi trở lên, tỷ lệ 0,23%.

Về trình độ học vấn, chuyên môn của đảng viên mới

Tỷ lệ đảng viên mới kết nạp đạt trình độ trung học phổ thông chiếm tỷ lệ 96,73%, chiếm phần lớn tổng số đảng viên kết nạp mới toàn tinh giai đoạn 2016 - 2020; trình độ trung học cơ sở chiếm 3,26%; trình độ tiểu học không còn. Đảng viên mới có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm tỷ lệ 60,75%; trong đó, có  đảng viên thạc sĩ là 178, tiến sĩ là 4. Qua đó cho thấy trình độ học vấn, chuyên môn của đội ngũ đảng viên mới kết nạp ngày càng được nâng lên.

Nhìn chung, số lượng đảng viên mới được kết nạp trong 05 năm qua là khá lớn, làm tăng thêm nguồn sinh lực cho Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng; chất lượng đảng viên mới kết nạp được nâng lên, nhất là về trình độ học vấn ngày càng tăng, đảng viên mới kết nạp có trình độ trung học phổ thông chiếm tỷ lệ rất cao và tăng dần qua các năm trong tổng số đảng viên kết nạp hằng năm, số đảng viên được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ có trình độ đại học trở lên cao; số đảng viên mới kết nạp là đoàn viên, thanh niên chiếm tỷ lệ lớn; việc kết nạp đảng viên và công nhận đảng viên chính thức cơ bản thực hiện đảm bào tiêu chuẩn, điều kiện, nguyên tắc, quy trình, thủ tục theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của Trung ương.

Nguyên nhân ưu điểm

Công tác phát triển đảng viên mới thời gian qua được cấp ủy các cấp quan tâm lãnh đạo, tổ chức thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục về công tác kết nạp đảng viên và chuyển đảng viên dự bị thành đảng viên chính thức trên tinh thần cải cách hành chính trong Đảng, cơ bản giảm nhiều thủ tục không cần thiết nhưng vẫn bảo đảm nguyên tắc của Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của Đảng về công tác đảng viên.

Nhiều tồ chức đảng đã chủ động xây dựng kế hoạch khảo sát nguồn quần chúng ưu tú hiện có; thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục về mục tiêu, lý tưởng của Đảng, qua đó tạo nguồn kết nạp đảng; phát huy vai trò, trách nhiệm của người đảng viên, làm gương cho quần chúng tự nguyện và tích cực phấn đấu xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn.

Đa số các tổ chức chính trị - xã hội các cấp đã làm tốt cồng tác quản lý, giáo dục, bồi dưỡng đoàn viên, hội viên; tổ chức và phát động nhiều phong trào thi đua, các chương trình hành động của đoàn, của hội, qua đó phát hiện, lựa chọn đoàn viên, hội viên ưu tú giới thiệu bổ sung vào nguồn phát triển đảng viên để bồi dưõng kết nạp vào Đảng. Nhận thức và trình độ học vấn, kiến thức của người dân, quần chúng và đoàn viên, hội viên ngày càng được nâng cao.

Hạn chế và nguyên nhân

Về hạn chế: (1) Số lượng đảng viên kết nạp là người dân tộc, người theo tôn giáo, đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, kết nạp đảng đối với học sinh, sinh viên còn thấp so với nguồn hiện có tại địa phương, đơn vị. (2) Ở nhiều nơi, quần chúng khá nhiều nhưng đưa vào nguồn để phát triển Đảng còn ít; công tác giáo dục, tạo nguồn phát triển đảng viên gặp khó khăn, vẫn còn một số lượng khá lớn cán bộ, viên chức, người lao động làm việc dài hạn trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp, nhất là đơn vị sự nghiệp y tế, giáo dục chưa là đảng viên. Số lượng đảng viên mới được kết nạp là học sinh, sinh viên trong các trường trung cấp, dạy nghề, cao đằng, đại học trên địa bàn tinh còn rất hạn chế. (3) Vẫn còn số lượng lớn lực lượng lao động trong ngành nồng, lâm, ngư nghiệp và lao động tự do hiện tại các địa phương có đù tiêu chuẩn, điều kiện song chưa muốn đứng vào hàng ngũ của Đảng. (4) Cơ cấu đảng viên mới chưa hợp lý, số đảng viên là chủ doanh nghiệp, công nhân, người lao động trong doanh nghiệp còn khá ít, không tương xứng với sự phát triển của lực lượng này trên địa bàn tỉnh trong các năm qua.

Về nguyên nhân: (1) Do nhu cầu lao động ở nông thôn ít nên phần lớn học sinh sau khi tốt nghiệp THPT tiếp tục đi học tại các trường trung cấp, cao đẳng, đại học tập trung ở đô thị lớn; một số khác đi làm ăn xa hoặc làm công nhân ở các khu công nghiệp, cụm công nghiệp; một bộ phận thanh niên còn lại không có nguyện vọng được đứng vào hàng ngũ của Đảng... (2) Đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, lực lượng vũ trang hiện nay đa số cán bộ, công chức, viên chức, quân nhân đã là đảng viên, trong khi đó thực hiện chủ trương tinh giản biên chế nên nhiều năm nay các cơ quan, đơn vị rất ít hoặc không tuyển thêm biên chế mới là đối tượng quần chúng; do vậy, có nhiều tổ chức cơ sở đảng không còn nguồn quần chúng. (3) Đổi với các khu, cụm công nghiệp, nhiều doanh nghiệp hiện nay chưa có tổ chức đảng; chủ doanh nghiệp chưa quan tâm tạo điều kiện cho việc thành lập và hoạt động của tổ chức đảng trong doanh nghiệp. Do vậy, nhiều tổ chức đảng trong doanh nghiệp rất mờ nhạt, không thể hiện được vai trò lãnh, chỉ đạo hoạt động của tổ chức đảng và gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức sinh hoạt (thường phải sinh hoạt ngoài giờ làm việc, ngày nghỉ). Người lao động trong doanh nghiệp tư nhân làm việc không ổn định, đa số chỉ quan tâm đến việc làm, thu nhập, không có nguyện vọng phấn đấu vào Đảng.

Ngoài các nguyên nhân trên, 02 năm gần đây còn có một số nguyên nhân khách quan khác như: Các cấp ủy, tổ chức đảng phải tập trung cao cho công tác chỉ đạo, chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng các cấp, nhiệm kỳ 2020 - 2025; công tác phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai; thực hiện việc giãn cách xã hội để phòng, chống dịch bệnh Covid-19 ... nên chưa tập trung cho công tác phát triển đảng viên.

Nguyên nhân chủ quan: (1) Một số cấp ủy đảng, nhất là cấp cơ sở công tác lãnh đạo, chi đạo, đôn đốc công tác phát triển đảng viên chưa thường xuyên, thiếu quyết liệt, sâu sát; do vậy, kết quả kết nạp đảng viên thời gian qua của một số đơn vị đạt tỷ lệ thấp. Công tác bồi dưỡng, tạo nguồn kết nạp đảng viên của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng ở cơ sở chưa được quan tâm thường xuyên, chưa có kế hoạch cụ thể, dẫn đến có nhiều chi bộ trong nhiều năm không tạo được nguồn và không kết nạp được đảng viên. Công tác tuyên truyền, giáo dục của các tổ chức đảng, đoàn thể cho thế hệ trẻ ở một số nơi còn coi nhẹ, chưa tạo được động lực, phấn đấu của quần chúng. Mặt khác, một số đảng viên có biểu hiện thỏa mãn, thiếu kiên trì trong phấn đấu, không tích cực học tập, rèn luyện, còn có những biểu hiện thực dụng, tính toán thiệt hơn; cá biệt còn một bộ phận đảng viên là cán bộ vừa nghĩ hưu trí đã có đơn xin miễn sinh hoạt Đảng đã làm ảnh hưởng rất lớn đến niềm tin, nhận thức của quần chúng vào Đảng. Một số quần chúng được kết nạp vào Đảng do chưa được rèn luyện, thử thách, ý thức trách nhiệm đảng viên kém dẫn đến vi phạm nguyên tắc sinh hoạt Đảng.


Một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong công tác phát triển đảng viên mới trong thời gian tới

Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng phải xác định rõ công tác phát triển đảng viên là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng. Phân công các đồng chí ủy viên ban thường vụ, ủy viên ban chấp hành phụ trách địa bàn, cơ quan, đơn vị thường xuyên sâu sát cơ sở, chỉ đạo, đôn đốc đẩy mạnh công tác tạo nguồn phát triển đảng viên. Hằng tháng, ban thường vụ các huyện, thị, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy đánh giá kết quả công tác kết nạp đảng viên để làm cơ sở đôn đốc, nhắc nhở, giao trách nhiệm cho các đồng chí cấp ủy viên; đồng thời, chỉ đạo giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong công tác kết nạp đảng viên.

Hai là, các cấp ủy, tổ chức đảng thường xuyên tổ chức thảo luận hoặc sinh hoạt chuyên đề về công tác tạo nguồn, phát triển đàng viên: làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục để quần chúng, nhất là thế hệ trẻ có nhận thức đầy đủ về Đảng, thấy được niềm vinh dự khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng; từ đó, có động cơ đúng đắn phấn đấu vào Đảng. Giao trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức chính trị - xã hội đẩy mạnh việc tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên tích cực tham gia các phong trào thi đua, qua đó phát hiện, bồi dưỡng, giới thiệu nguồn kết nạp cho Đảng.

Ba là, tập trung rà soát nguồn, quan tâm giáo dục tạo điều kiện kết nạp đảng đối với các đối tượng: Cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan, đơn vị nhà nước, nhất là ngành giáo dục, y tế; học sinh, sinh viên trong các trường Phổ thông trung học, trung cấp, dạy nghề, cao đẳng, đại học trên địa bàn tỉnh; lao động trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp và lao động tự do. Mặt khác, tiếp tục thực hiện phát triển đảng trong các đối tượng là người đồng bào dân tộc, người theo tôn giáo, đoàn viên, thanh niên.

Đối với các cơ quan, đơn vị hành chính, đơn vị sự nghiệp còn nguồn kết nạp phải quan tâm bố trí, tạo điều kiện cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động được đi học các lớp cảm tình Đảng, lớp đảng viên mới và bồi dường, tạo điều kiện cho quần chúng phấn đấu kết nạp vào Đảng, không để có tư tưởng giữ nguồn kết nạp cho những năm sau hoặc lấy lý do vì công việc, không bố trí được cán bộ tham gia các lớp cảm tình Đảng nên chỉ phấn đấu thực hiện đủ chỉ tiêu kết nạp đảng viên được giao.

Đối với đảng ủy các xã, phường, thị trấn tập trung chỉ đạo cấp ủy ở khu dân cư rà soát nắm chắc nguồn để phân công nhiệm vụ, bồi dưỡng kết nạp vào Đảng. Quan tâm đến các chức danh là cán bộ tổ dân phố chưa là đảng viên có đủ điều kiện, tiêu chuẩn đề bồi dưỡng kết nạp vào Đảng.

Bốn là, đối với việc phát triển đảng trong các doanh nghiệp: Ban Thường vụ Đảng ủy Khối Cơ quan và Doanh nghiệp, Ban thường vụ cấp ủy cấp huyện thực hiện phân công các đồng chí trong ban thường vụ phụ trách các doanh nghiệp trên địa bàn thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, nắm bắt ý kiến, những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh; qua đó, tham mưu các cấp kịp thời hỗ trợ, giải quyết tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động. Trên cơ sở đó, vận động, thuyết phục phát triển đảng viên là công nhân, người lao động và tiến đến việc thành lập tồ chức đảng trong các doanh nghiệp.

Năm là, căn cứ tình hình thực tiễn của từng đối tượng kết nạp Đảng để linh hoạt trong việc bố trí các lớp đối tượng Đảng, lớp đảng viên mới cho phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho quân chúng ưu tú và đảng viên dự bị được tham gia học tập đầy đủ (có thể bố trí ngày nghỉ, ngoài giờ hoặc không nhất thiết phải giảng dạy tất cả những nội dung trong bài mà có thể đề học viên tự nghiên cứu, tham khảo) tránh tình trạng quần chúng muốn phấn đấu vào Đảng nhưng không có điều kiện tham gia học lớp cảm tình Đảng hoặc đảng viên trong thời gian dự bị không được tham gia lớp đảng viên mới trước khi xét chuyển đảng chính thức. Chỉ đạo các cấp ủy rà soát danh sách đảng viên dự bị, kịp thời xem xét, đề nghị chuyển đảng chính thức cho đảng viên dự bị khi có đủ điều kiện theo đúng quy định.

Nguyễn Như Anh

TUV, Phó Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy

Lượt người xem:  Views:   3128
Manage PermissionsManage Permissions
|
Version HistoryVersion History

Tiêu đề

Hình ảnh

Hình ảnh mô tả

Tóm tắt

Nội dung

Link thay thế nội dung

Ngày xuất bản

Tin nổi bật (cick)

Tác giả

Loại bài viết

Số Trang

Số Ảnh

Số tiền

Tin liên quan

Trạng thái

Lịch sử

Số lượt người đọc

Tin nổi bật

Phân loại

Approval Status

Attachments

Content Type: Tin Tức Mở Rộng
Version:
Created at by
Last modified at by