Sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, tạo động lực mới đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững _Tác giả: Vũ Trung Duy
NHIỀU ĐIỂM MỚI VÀ DẤU ẤN NỔI BẬT
1.
Dự thảo Văn kiện chuẩn bị trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng có nhiều điểm mới. Mới không phải do ý tưởng chủ quan của Tiểu
ban và Tổ biên tập Văn kiện, mà mới do nhu cầu khách quan cấp thiết của
thực tiễn đất nước, thế giới với nhiều thời cơ, thách thức đan xen, đặt
ra nhiều vấn đề mới về lý luận, thực tiễn, đòi hỏi chúng ta phải vươn
lên mạnh mẽ hơn, đổi mới đồng bộ, toàn diện hơn, ở trình độ cao hơn. Mới
do khả năng thực tế của đất nước sau 35 năm đổi mới với những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử và những bài học kinh nghiệm quí báu đúc kết
từ quá trình lao động, sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta;
do đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, tích cực hội nhập quốc tế thành công
cho phép chúng ta tiến cùng thời đại, nắm bắt, dự báo, tiếp cận được
những xu thế phát triển và những giá trị phổ quát của nhân loại - những
nhân tố đó tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam có thể phát triển nhanh,
bền vững hơn ở tầm mức mới. Như vậy, những điểm mới của dự thảo Văn kiện
Đại hội XIII phản ánh sự tương thích giữa nhu cầu phát triển khách quan
của đất nước trong bối cảnh mới và năng lực tiếp tục đổi mới của Đảng
và nhân dân ta.
Những điểm mới
trong dự thảo Văn kiện không phải chỉ mới về câu chữ mà mới từ cách tiếp
cận, tầm bao quát, từ những tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu phấn đấu và
những định hướng phát triển đất nước trên cơ sở tổng kết nghiêm túc thực
tiễn đổi mới đầy sáng tạo của nhân dân ta qua 30 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, năm 1991,
trọng tâm là 10 năm thực hiện Cương lĩnh bổ sung, sửa đổi năm 2011 và
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, 05 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng; từ sự phân tích, dự báo xu thế phát
triển của thế giới; nghiên cứu, tiếp thu các thành quả phát triển lý
luận.
2. Từ khi đất nước tiến hành
công cuộc đổi mới đến nay, mỗi kỳ Đại hội Đảng đều có một số điểm nhấn
tạo ấn tượng sâu đậm trong nhận thức của cán bộ, đảng viên, nhân dân,
tạo sự thống nhất, đồng thuận, tin tưởng trong Đảng, trong xã hội. Điểm
nhấn của Đại hội VI là Đại hội đổi mới; Đại hội VII là Đại hội đề ra
Cương lĩnh phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội; Đại hội VIII là Đại hội đề ra chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; Đại hội IX là Đại hội xác định kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ
quá độ; Đại hội X là Đại hội tổng kết 20 năm đổi mới, xác định mục tiêu
đưa đất nước sớm ra khỏi tình trạng nước kém phát triển; Đại hội XI là
Đại hội ban hành Cương lĩnh bổ sung, phát triển và quyết định đổi mới mô
hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, hội nhập quốc tế; Đại hội XII
là Đại hội chủ trương xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị,
tư tưởng, tổ chức, đạo đức, xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả, nâng cao chất lượng, hiệu quả,sức cạnh tranh
của nền kinh tế... Vậy điểm nhấn của Đại hội XIII là gì?
Dự thảo
Văn kiện trình Đại hội XIII có một số điểm nhấn, trong đó có hai thành
tố mới được đề cập và nhấn mạnh nhiều lần, từ chủ đề Đại hội, quan điểm
chỉ đạo, mục tiêu tổng quát, định hướng phát triển, nhiệm vụ trọng tâm,
đột phá chiến lược. Đó là khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc với mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa và đổi mới sáng tạo. Đây có thể xem là điểm
nhấn trong dự thảo Văn kiện và của Đại hội XIII, phản ánh nhận thức mới
của Đảng về sức mạnh nội sinh và phương thức phát triển đất nước trong
bối cảnh mới.
KHÁT
VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC LÀ NGUỒN LỰC NỘI SINH, LÀ
NĂNG LƯỢNG TIỀM TÀNG TẠO THÀNH SỨC MẠNH VĨ ĐẠI CỦA DÂN TỘC TRONG THỜI
KỲ MỚI
3. Khát vọng, theo
cách hiểu phổ quát, là một trạng thái tinh thần, phản ánh sự ước ao,
mong muốn thiết tha của con người về những điều lớn lao, tốt đẹp với sự
thôi thúc mạnh mẽ[2] .
Keth D. Harrel -
thuyết trình gia nổi tiếng nước Mỹ, trong nhiều tác phẩm nổi tiếng[3]
đã trình bày sâu sắc,sinh động ý nghĩa của khát vọng như là một dạng
thức tích cực của thái độ con người đối với cuộc sống. Từ triết lý “thái
độ là tất cả”, Keth D. Harrel đã phân tích ý nghĩa lớn lao của khát
vọng. Theo ông, khát vọng chính là nguồn động lực có sức mạnh vô biên
trong mỗi con người, được thể hiện qua những hoạt động không ngơi nghỉ
để con người không bao giờ từ bỏ ước mơ, không bao giờ khuất phục trước
hoàn cảnh.
Khát vọng phát triển của
một dân tộc là sự cộng hưởng những khát vọng vươn lên của cộng đồng, của
con người cùng quốc gia - dân tộc, tạo thành nguồn năng lượng nội sinh
to lớn, sống động và sức mạnh vô song. Đó chính là động lực trung tâm
của một quốc gia - dân tộc trên con đường đi tới tương lai [4]. Đối với
Việt Nam, một dân tộc có truyền thống đoàn kết, văn hiến, anh hùng, khát
vọng phát triển đất nước thật sự là một sức mạnh nội sinh phi thường,
cội nguồn tạo nên những kỳ tích trong suốt tiến trình hàng nghìn năm
dựng nước, giữ nước.
4. Thời trung
đại, Việt Nam đánh thắng tất cả các cuộc chiến tranh xâm lược của phong
kiến phương Bắc, giữ vững nền độc lập dân tộc, sáng tạo nên nền văn minh
Đại Việt rực rỡ không phải chủ yếu bằng tiềm năng quân sự, bằng sức
mạnh vật chất, mà trước hết và chủ yếu bằng sức mạnh quật khởi vĩ đại
bắt nguồn từ khát vọng về chủ quyền quốc gia: sông núi nước Nam vua Nam
ở, về một quốc gia Đại Việt vốn xây nền văn hiến đã lâu; núi sông, bờ
cõi đã chia, phong tục Bắc, Nam cũng khác và khát vọng về một đất nước
phú cường non sông nghìn thuở vững âu vàng.
Trong
thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhân dân Việt
Nam đã đập tan gông xiềng áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến, xây
dựng và bảo vệ Nhà nước cách mạng; đánh thắng các thế lực xâm lược hùng
mạnh, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước,
đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những chiến công oanh liệt đó được
tạo nên bằng sức mạnh vô địch của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh
hùng cách mạng khởi nguồn từ khát vọng mãnh liệt được Chủ tịch Hồ Chí
Minh khái quát thành chân lý: Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”[5] ; không có gì quí hơn độc
lập, tự do[6] ; nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có
thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi [7].
Sau
khi đất nước thống nhất, tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi cả nước, với khát vọng chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, nhân
dân đồng lòng tin theo Đảng tiến hành sự nghiệp đổi mới. Khát vọng ấm
no, hạnh phúc đã chuyển hóa thành sức mạnh to lớn đưa đất nước vượt qua
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng những năm 80, đầu những năm
90 của thế kỷ XX; vượt qua cuộc chấn động chính trị toàn cầu khi mô
hình chủ nghĩa xã hội ở Liên bang Xô viết và Đông Âu sụp đổ và những thử
thách khắc nghiệt do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính
khu vực những năm 1997-1998 và cuộc khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh
tế toàn cầu những năm 2008- 2009, đưa đất nước ra khỏi tình trạng nước
nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung
bình; vượt lên, kiềm chế thành công đại dịch COVID - 19, hạn chế đến
mức thấp nhất những tổn thất do dịch bệnh gây ra, ổn định kinh tế - xã
hội, bảo đảm đời sống nhân dân, khôi phục, duy trì tăng trưởng. Khát
vọng vươn lên của dân tộc được phản ánh cụ thể và vô cùng sinh động qua
khát vọng chiến thắng của Đội bóng U23 Việt Nam trong năm 2018, 2019
trên đấu trường khu vực và châu lục. Một đội ngũ cầu thủ được đào tạo
bài bản; được tổ chức chặt chẽ, hợp lý; được dẫn dắt bởi một đấu pháp
khoa học và, đặc biệt với khát vọng Việt Nam chiến thắng, Việt Nam vô
địch đã tạo nên kỳ tích trên sân cỏ của Đội U23, thổi bùng lên khát vọng
vươn lên mãnh liệt của cả dân tộc. Đây chính là thước đo và cũng là
minh chứng cho sức mạnh kỳ diệu của khát vọng vươn lên của toàn dân tộc.
ĐT U23 Việt Nam nhận được sự chào đón nồng nhiệt trên các tuyến đường
5.
Bước vào thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, trong Văn kiện trình Đại hội
XIII, Đảng chủ trương khơi dậy ở một tầm cao mới khát vọng phát triển
đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
Khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc không phải là một huyễn
tưởng xuất phát từ ngẫu hứng chủ quan, duy ý chí, mà là một khát vọng
bắt nguồn từ niềm tin vững chắc vào cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín
của đất nước sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới; vào bản lĩnh và
những kinh nghiệm dày dạn mà Đảng, nhân dân ta đã kiểm nghiệm, đúc kết
trong thực tiễn lao động,sáng tạo suốt mấy chục năm qua. Đó cũng không
phải là khát vọng giản đơn, xuôi chiều, mà là khát vọng được bồi đắp
trên cơ sở phân tích, dự báo, lường đoán kỹ lưỡng những thời cơ, thuận
lợi có thể nắm bắt, phát huy; đồng thời tỉnh táo cân nhắc, tính toán
những khó khăn, thách thức bên ngoài, những yếu kém, trở ngại bên trong
cần phải kiên quyết khắc phục, thích ứng, vượt qua với phương châm dĩ
bất biến ứng vạn biến, nhạy bén chớp thời cơ, chủ động ứng phó với nguy
cơ, chuyển hóa nguy cơ thành vận hội phát triển.
Khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc không chỉ là mơ ước mà là
khát vọng mang sức sống hiện thực, được hình thành, bồi đắp trên một cơ
tầng khoa học về lộ trình hướng đích với những bước đi được dự liệu rõ
ràng. Kế thừa, hoàn thiện những mục tiêu đã được xác định từ những Đại
hội Đảng trước đây; căn cứ vào điều kiện, khả năng thực tế của đất nước
và xu thế phát triển của thế giới, Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIII
xác định các mục tiêu cụ thể: phấn đấu đến năm 2025, nước ta là nước
đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu
nhập trung bình thấp; đến năm 2030, là nước đang phát triển, cơ bản có
công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành
nước phát triển, thu nhập cao.
Khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc gắn liền với quá trình xây
dựng và phát huy hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và giá trị
chuẩn mực, cùng sức mạnh con người Việt Nam trong thời kỳ mới [8] gắn
liền với phát huy đồng bộ hệ động lực phát triển: dân chủ xã hội chủ
nghĩa; đại đoàn kết toàn dân tộc; sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính
trị; nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài; khoa học, công nghệ và đổi
mới sáng tạo... [9] .
ĐỔI MỚI SÁNG TẠO - ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY MẠNH MẼ CÔNG CUỘC TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN, ĐỒNG BỘ
6.
Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo. Đổi mới là một quá trình tạo
ra những biến đổi có tính cách mạng. Đổi mới và sáng tạo là hai mặt có
quan hệ mật thiết với nhau trong một quá trình phát triển. Trong đổi mới
có sáng tạo; sáng tạo gắn liền với đổi mới. Công cuộc đổi mới do Đảng
khởi xướng, lãnh đạo từ năm 1986 đến nay là một công trình sáng tạo vĩ
đại của toàn Đảng, toàn dân ta. Đó là một quá trình sáng tạo liên tục
nhằm xóa bỏ cái cũ, xây dựng cái mới từ gốc đến ngọn, tạo ra cả lực
lượng sản xuất mới lẫn quan hệ sản xuất mới, cả cơ sở kinh tế lẫn thượng
tầng kiến trúc mới, cả đời sống vật chất mới lẫn đời sống tinh thần mới
[10] .
Sự nghiệp đổi mới kết tinh
thành quả sáng tạo của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên các lĩnh vực
của đời sống đất nước, trên mọi địa bàn với những cấp độ, trình độ khác
nhau, từ thấp đến cao, từ bộ phận đến tổng thể, từ chưa hoàn chỉnh đến
hoàn chỉnh phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển kinh tế - xã hội
trong từng giai đoạn. Đổi mới bắt đầu từ sự tổng kết thực tiễn, đúc rút
những kinh nghiệm thành công và chưa thành công, trên cơ sở đó tìm
tòi,sáng tạo cách nghĩ, cách làm mới. Đại hội VI của Đảng khởi xướng
công cuộc đổi mới chính là bắt đầu từ những bài học vô cùng sâu sắc được
đúc kết từ thực tiễn những năm trước đổi mới và sự tổng kết những mô
hình mới, những cách làm sáng tạo của nhân dân. Bước vào giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sáng tạo được nâng lên tầm
mức mới, dựa trên sự cải tiến, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào
lãnh đạo, quản lý, sản xuất kinh doanh, tạo ra sự phát triển trên các
lĩnh vực, các khu vực, các địa bàn... Trình độ sáng tạo trong giai đoạn
này có bước tiến mới. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất
nước 35 năm qua gắn liền với quá trình đổi mới, sáng tạo bền bỉ của
toàn Đảng, toàn dân. Tuy nhiên, do trình độ khoa học, công nghệ, trình
độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước còn thấp nên cấp độ, hiệu
quả sáng tạo ở nước ta còn hạn chế, chưa đủ sức tạo ra những bước phát
triển đột phá.
7. Hiện nay, thế giới
đang bước vào một thời kỳ phát triển mới. Cuộc cách mạng công nghiệp
mới, được gọi là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đang diễn ra với
qui mô lớn, tốc độ rất nhanh chưa từng có tiền lệ, với những đột phá về
công nghệ, nhất là trên các lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, công nghệ người
máy, Internet kết nối vạn vật, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa
học vật liệu... Những đột phá công nghệ tương tác, thúc đẩy nhau đang
tạo ra một thế giới số hóa, tự động hóa, mọi hoạt động ngày càng hiệu
quả hơn, thông minh hơn. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh
mẽ đến tất cả các quốc gia, tạo ra cả thời cơ và thách thức với nhiều
đột biến trong quản lý, quốc phòng, an ninh, sản xuất kinh doanh, môi
trường,sinh hoạt và đời sống xã hội, con người [11] . Các nước đều chú
trọng xây dựng, thực thi chiến lược tận dụng thành tựu và ứng phó với
những thách thức của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - yếu tố quyết
định sự phát triển bứt phá hay chậm trễ, tụt hậu của một quốc gia. Đổi
mới sáng tạo là tư duy mới trong chiến lược phát triển của hầu hết các
quốc gia và trở thành ngôn ngữ chung có ý nghĩa toàn cầu, thể hiện một
cấp độ mới, trình độ mới của sáng tạo, đổi mới, phát triển - đổi mới
mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn trên nền tảng sáng tạo và ứng dụng các thành
tựu khoa học, công nghệ để tạo ra chất lượng mới, những giá trị mới
trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung, trong sản phẩm hàng hóa nói
riêng. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, nâng cao chỉ số
đổi mới sáng tạo là công việc đang thu hút sự nỗ lực của các nước, các
cộng đồng lao động sáng tạo trên toàn thế giới.
8.
Với tư duy nhạy bén, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo,
chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công
nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nắm bắt, nâng cao năng lực tiếp cận
và chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đặc biệt,
ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52 “Về một số chủ
trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư”. Nghị quyết nêu 4 quan điểm chỉ đạo, trong đó nhấn mạnh: “Chủ động,
tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là yêu cầu tất
yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng,
vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội...,
coi đó là giải pháp đột phá với bước đi và lộ trình phù hợp là cơ hội để
Việt Nam bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội”; “Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư yêu cầu phải đổi mới tư duy về quản lý kinh tế, quản
lý xã hội, xây dựng, hoàn thiện thể chế cho phù hợp. Cần có cách tiếp
cận mở, sáng tạo, cho thí điểm những vấn đề thực tiễn mới đặt ra, tạo
mọi thuận lợi cho đổi mới sáng tạo”[12] .
Tư
duy nhạy bén và tinh thần của Nghị quyết số 52 “Về một số chủ trương,
chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” được
khẳng định, nâng tầm trong Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIII và đổi
mới sáng tạo có thể xem là một điểm nhấn của Đại hội.
9.
Cần hiểu đúng về đổi mới sáng tạo để thống nhất nhận thức, hành động
trong toàn Đảng, toàn xã hội. Đổi mới sáng tạo với triết lý không có gì
là không thể là thuộc tính quan trọng của Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư, phản ánh tư duy và phương thức phát triển mới mang tính phổ biến của
toàn nhân loại. Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng trực tiếp, sâu
rộng, chúng ta cần tiếp cận, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại,
những giá trị trí tuệ mới, những kinh nghiệm thành công của thế giới để
tiến cùng thời đại. Hơn nữa, đổi mới sáng tạo chính là sự phát triển hợp
qui luật ở tầm vóc, trình độ mới quá trình đổi mới vốn có của Đảng,
nhân dân ta trong hơn ba thập kỷ qua; là động lực tiếp tục đẩy mạnh toàn
diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đáp ứng yêu cầu dựng xây đất nước trong
thời kỳ mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của đổi mới, sáng tạo.
Sinh thời, Người căn dặn: Thế giới ngày ngày đổi mới, xã hội ngày một
phát triển, nhân dân ngày càng tiến bộ, do vậy cán bộ, đảng viên không
thể “giữ cái kẹp giấy cũ không thay đổi”, “tư tưởng, hành động cũng phải
phát triển”[13] .
Đổi mới sáng tạo
phải được tiến hành đồng thời, đồng bộ cả về tư duy và hành động, phải
“đổi mới cách nghĩ, cách làm, đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế,
đổi mới phong cách làm việc, đổi mới tổ chức và cán bộ...”[14] .
Công
cuộc đổi mới ở nước ta được bắt đầu từ sự đổi mới tư duy của Đảng,
trước hết là tư duy kinh tế theo nguyên tắc tôn trọng và làm theo qui
luật khách quan. Bối cảnh của thế giới ngày nay đang xuất hiện rất nhiều
vấn đề lý luận, thực tiễn mới mẻ, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ tư duy, nâng tầm trí tuệ, dẫn dắt đất nước tiến kịp và tiến cùng
thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực, ngời sáng truyền
lại bài học lớn về phong cách tư duy đổi mới: nhạy bén nắm bắt diễn biến
lịch sử, chủ động tranh thủ thời cơ, giữ vững nguyên tắc và mạnh dạn
sáng tạo, kịp thời đổi mới, gắn liền lý luận với thực tiễn[15] . Đổi mới
sáng tạo về tư duy cần nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa “kiên
định và đổi mới, vận dụng sáng tạo” theo phương pháp biện chứng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định phải gắn liền với
sáng tạo và sáng tạo phải trên cơ sở kiên định, phù hợp với thực tiễn,
với yêu cầu đổi mới, hội nhập, phát triển đất nước. Kiên định một cách
máy móc thì dễ dẫn đến giáo điều, cứng nhắc, bảo thủ, trì trệ, nhưng nếu
không kiên định, mà đổi mới sáng tạo một cách vô nguyên tắc cũng rất dễ
rơi vào chủ nghĩa xét lại, chệch hướng, “đổi màu”[16] .
Trong
hoạt động thực tiễn, đổi mới sáng tạo phải được triển khai toàn diện
trên các lĩnh vực với nhiều giải pháp đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm,
với lộ trình, bước đi được tính toán kỹ lưỡng, khoa học, phù hợp với
điều kiện thực tế đất nước, tránh nôn nóng, duy ý chí dẫn đến phiêu lưu,
mạo hiểm hoặc bàng quan, do dự, ngại khó ngại khổ, chậm trễ, bỏ lỡ thời
cơ phát triển. Cần chú trọng xây dựng môi trường thể chế thuận lợi; tập
trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; đẩy mạnh nghiên cứu,
chuyển giao, ứng dụng khoa học, công nghệ; thúc đẩy phát triển hạ tầng
thông tin, viễn thông..., tạo những tiền đề thiết yếu để thực hiện đổi
mới sáng tạo có kết quả. Ưu tiên thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong phát
triển công nghệ số, thực hiện chuyển đổi số trên các lĩnh vực kinh tế,
xã hội, quản trị... từng bước hình thành kinh tế số, xã hội số, chính
phủ số, tạo ra những giá trị mới và sức mạnh tổng hợp mới của đất nước.
Thước đo tính hợp lý của đổi mới sáng tạo là hiệu quả phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân theo chân lý Hồ Chí Minh: “Chân lý là cái gì có lợi cho
Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân
dân tức là không phải chân lý” [17] .
Đổi
mới sáng tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, trong đó đội ngũ cán
bộ, đảng viên, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, những người
đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp, phải đi tiên phong, nêu gương sáng
dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì sự nghiệp chung; đội ngũ trí thức,
doanh nhân đóng vai trò nòng cốt trong lao động, sáng tạo; động viên,
phát huy vai trò chủ thể và sức sáng tạo vĩ đại của nhân dân; hình thành
hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam.
Với
khát vọng xây dựng đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc được thúc đẩy
bằng động lực đổi mới sáng tạo, nhất định đất nước ta sẽ “bước tới đài
vinh quang để sánh vai cùng các cường quốc năm châu” trong thế kỷ XXI
như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại [18] và mong ước cháy
bỏng của toàn dân tộc ta .
GS.TS. PHÙNG HỮU PHÚ
Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương
_____________________________________
Chú thích:
[1]
Nguyễn Phú Trọng: Chuẩn bị thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước
bước vào gia đoạn phát triển mới, Tạp chí Cộng sản, số 949 (9-2020).
[2] Wiktionary; Hồ Ngọc Đức: Dự án Từ điển Tiếng Việt miễn phí.
[3]
Keth D. Harrel: Cám ơn cuộc sống, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh,
2015; Thay đổi thái độ - Đổi cuộc đời 2,3, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh, 2016.
[4] Vũ Minh
Khương: Việt Nam 2045: tầm nhìn, khát vọng và sứ mệnh lịch sử, Tạp chí
Khoa học, công nghệ Việt Nam điện tử, ngày 17/01/2020; Khát vọng đổi mới
để phát triển, baodauthau.vn, ngày 12/2/2018.
[5] Hồ Chí Minh Toàn tập, t.4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 534.
[6] Hồ Chí Minh Toàn tập, t.15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 131.
[7] Hồ Chí Minh Toàn tập, t.4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 280.
[8]
Nguyễn Phú Trọng: Chuẩn bị thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước
bước vào giai đoạn phát triển mới, Tạp chí Cộng sản, số 949 (9-2020).
[9]
Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo các Văn kiện trình đại hội XIII của
Đảng (tài liệu sử dụng tại Đại hội Đảng bộ cấp huyện, cấp tỉnh và tương
đương ), Tháng 4-2020.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.7 (1976), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.504-505.
[11]
Nguyễn Thông: Cách mạng công nghiệp 4.0 - Một số đặc trưng, tác động và
hàm ý chính sách cho Việt Nam, Bộ Ngoại giao Việt Nam, Trang ngoại giao
kinh tế trực tuyến, ngày 13/12/2016.
[12]
Nghị quyết số 52-NQ/ TW, ngày 27/9/2019, của Bộ Chính trị “Về mộtsố chủ
trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư”, tài liệu lưu tại Văn phòng Trung ương Đảng.
[13] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 8, tr.55; t.10, tr. 377.
[14] Trường Chinh: Đổi mới chính là đòi hỏi bức thiết của đất nước, của thời đại, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.66.
[15] Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh - tinh hoa và khí phách dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.219.
[16]
Nguyễn Phú Trọng: Chuẩn bị thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước
bước vào gia đoạn phát triển mới, Tạp chí Cộng sản, số 949 (9-2020).
[17] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.10, tr. 378.
[18] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr. 35.