Skip Ribbon Commands
Skip to main content

AN GIANG PHÁT TRIỂN

Chào mừng quý vị đến với Cổng thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh An Giang!
AN GIANG PHÁT TRIỂN
Thứ 4, Ngày 05/10/2022, 09:00
Lược sử hình thành vùng đất An Giang
Cỡ chữ: Font size: Giảm (A-) Mặc định (A) Tăng (A+)
05/10/2022 | Phan Nguyên

(TUAG)- An Giang tọa lạc ở vị trí địa lý tương đối đặc biệt, ở địa đầu biên giới Tây Nam của Tổ quốc, nơi đầu nguồn sông Mê Kông chảy vào lãnh thổ Việt Nam. Tỉnh An Giang chính thức được ghi vào hệ thống hành chính năm 1832. Trải qua 190 năm hình thành và phát triển (1832 - 2022), với nhiều thăng trầm, An Giang là địa phương có bề dày lịch sử, văn hóa, giàu truyền thống yêu nước và cách mạng.

AG-190-longxuyen-ho-NgDu.jpg

Hồ Nguyễn Du ngày nay.

Người Việt di cư vào vùng đất Nam Bộ từ đầu thế kỷ XVII sau khi Chúa Nguyễn Hoàng vào phương Nam và lập phủ Phú Yên năm 1611. Nông dân và ngư dân vùng Thanh Nghệ, Thuận Quảng vào Mô Xoài (Bà Rịa) làm ăn. Sau cuộc hôn nhân của công nữ Ngọc Vạn và vua Chey Chetta II của Vương quốc Chân Lạp, vào năm 1620, làn sóng di dân hợp pháp diễn ra mạnh mẽ hơn. Những di dân Việt đã có mặt trên nhiều vùng đất thuộc miền Đông Nam Bộ như Biên Hòa, Đồng Nai, Sài Gòn…

Năm 1679, Tổng binh Long Môn Dương Ngạn Địch và Tổng binh Cao Lôi Liêm Trần Thượng Xuyên (dư đảng của Trịnh Thành Công lãnh đạo phong trào "phản Thanh phục Minh" ở Đài Loan thất bại) đem binh lính và quyến thuộc hơn 3.000 người và 50 chiến thuyền ghé vào Đà Nẵng xin hàng. Chúa Nguyễn Phúc Tần cho Trần Thượng Xuyên vào Bàn Lân xứ Đồng Nai (nay là Biên Hòa), Dương Ngạn Địch vào Mỹ Tho, vùng đất Nam Bộ có thêm cộng đồng người Hoa.

Năm 1692, vua nước Chiêm là Bà Tranh đem quân đắp lũy, cướp giết nhân dân phủ Diên Ninh (dinh Bình Khang). Chúa Nguyễn Phúc Chu sai Cai cơ Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống binh đi đánh dẹp. Năm 1693, Nguyễn Hữu Cảnh bắt được vua Chiêm. Chúa Nguyễn bèn sáp nhập nước Chiêm vào xứ Đàng Trong (Đại Việt) và đặt làm một trấn, tên là Thuận Thành.

Sau khi thôn tính hết nước Chiêm, Chúa Nguyễn quan tâm đến vùng đất Nam Bộ, lúc đó thuộc Vương quốc Chân Lạp. Năm 1698, Chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược đất Đồng Nai, lập huyện Phước Long với dinh Trấn Biên và huyện Tân Bình với dinh Phiên Trấn, đặt phủ Gia Định. Trên vùng đất đai nghìn dặm từ Mô Xoài - Bà Rịa (tiếp giáp với phủ Bình Thuận) tới bờ sông Tiền chỉ có hơn bốn vạn hộ dân người Việt và một ít dân tộc thiểu số bản địa (Stiêng, Chơro, cả người Khmer). Dân cư ở vùng đất giữa sông Tiền và sông Hậu còn ít hơn. Phần lớn là người Khmer, một ít là cư dân vùng Ngũ Quảng, theo đường biển vào (theo các cửa Ba Lai, cửa Đại… của sông Tiền), sống bằng nghề trồng lúa và chài lưới.


Đầu thế kỷ XVIII, sau khi Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên, xin thần phục Chúa Nguyễn và được phong làm Tổng binh trấn Hà Tiên, một bộ phận lưu dân Việt đã tìm đến sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất mới cùng với người Hoa (theo chân Mạc Cửu), người Khmer (từ Lục Chân Lạp theo sông Mê Kông xuống). Năm 1757, Chúa Nguyễn đưa Nặc Tôn lên ngôi vua ở Vương quốc Chân Lạp, Nặc Tôn cắt đất Tầm Phong Long cho Chúa Nguyễn (thông qua Mạc Thiên Tứ) để đền ơn cứu giúp trong lúc hoạn nạn và giành lại ngôi vua. Chúa Nguyễn cử Nguyễn Cư Trinh và Trương Phúc Du tiếp nhận và cho lệ vào dinh Long Hồ, rồi đặt 3 đạo: đạo Châu Đốc, đạo Tân Châu[1] và đạo Đông Khẩu[2] để bảo vệ vùng biên giới. Năm 1779, Chúa Nguyễn Ánh bắt đầu quan tâm phân chia địa giới ba dinh Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ. Chế độ thuế khóa đã được đặt ra nhưng rất nhẹ so với các nơi khác. Năm 1780, Chúa Nguyễn Ánh cải tên dinh Long Hồ thành dinh Vĩnh Trấn sau đó lại đổi thành dinh Trấn Vĩnh. Sau khi thống nhất đất nước, năm 1808, vua Gia Long lập Gia Định thành trên vùng đất Nam Bộ và chia thành ngũ trấn: Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Trấn Vĩnh Thanh có 1 phủ Định Viễn và 4 huyện:

+ Huyện Vĩnh Bình có 2 tổng: tổng Vĩnh Trường (52 thôn ấp), tổng Bình Chính (48 thôn).

+ Huyện Vĩnh An có 2 tổng: tổng Vĩnh Trinh (29 thôn), tổng An Trung (52 thôn phường).

+ Huyện Vĩnh Định chưa chia tổng (có 37 thôn xóm).

+ Huyện Tân An có 2 tổng: tổng Tân Minh (72 thôn), tổng An Bảo (63 thôn trại).

Trấn Vĩnh Thanh khi ấy rất lớn, bao gồm 2 tỉnh Vĩnh Long và An Giang, đi lại còn rất khó khăn, lại có vùng biên giới quan trọng, tiếp giáp Vương quốc Chân Lạp, một vương quốc đang lệ thuộc Việt Nam và đang bị tranh chấp rất gay gắt của Xiêm La. Do đó, vua Gia Long và sau đó là vua Minh Mạng đã quan tâm đào các con kinh như: Kinh Thoại Hà, kinh Vĩnh Tế… để thuận tiện trong việc giao thông, phòng thủ biên giới.

Như vậy, tỉnh An Giang là vùng đất cuối cùng được sáp nhập vào bản đồ Đại Việt (xứ Đàng Trong) vào năm Đinh sửu (1757). Trước đó vùng đất này tên gọi là Tầm Phong Long thuộc Thủy Chân Lạp của Vương quốc Chân Lạp. Theo tập quán sinh sống và cư trú của người Khmer, họ không ở, gần như bỏ hoang. Theo Chu Đạt Quan mô tả trong sách "Chân Lạp phong thổ ký" (vào thế kỷ XIII), ông đến vùng đất Nam Bộ ngày nay chỉ thấy "toàn là cây mây cao vút, cổ thụ, cát vàng, lau sậy trắng" và "xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy rẩy, hàng trăm, hàng ngàn trâu rừng tụ họp từng bầy". Ba bốn thế kỷ sau, cảnh quan miền đất này cũng không thay đổi, vẫn hoang vu, rậm rạp, sình lầy, vắng bóng con người, là nơi trú ngụ của côn trùng, thú dữ, rắn rết, cá sấu... Đến nửa sau thế kỷ XVIII, Lê Quí Đôn ghi nhận trong sách Phủ Biên tạp lục: "Ở phủ Gia Định, đất Đồng Nai từ các cửa biển Cần Giờ, Lôi Lạp, Cửa Đại, Cửa Tiểu trở vào toàn là rừng rậm hàng ngàn dặm". Miền hoang địa gần như vô chủ ấy thực sự được đánh thức khi lưu dân người Việt đặt chân đến cư trú và khai mở.

Những người đầu tiên vào khai phá vùng đất này phần lớn là dân nghèo vùng Ngũ Quảng, Bình Định - Phú Yên, không chịu nổi ách áp bức của chế độ đương thời. Họ lần lượt tiến vào đây bằng đường biển với phương tiện chủ yếu là thuyền buồm và ghe bầu. Có một ít cư dân người Việt, người Hoa từ Biên Hòa, Gia Định, Mỹ Tho chuyển cư đến vùng đất mới. Đầu tiên, họ cư ngụ ở vùng đất nay là huyện Chợ Mới, xứ Sa Đéc (và tự nhận là dân "hai huyện") rồi đến vùng Châu Đốc, Tân Châu, sau đó mới hình thành các làng xã bờ Tây sông Hậu vào đầu thế kỷ XIX. Lúc đó ở Châu Đốc, Tân Châu dân cư cũng còn rất thưa thớt, cho nên vua Gia Long gọi là "Châu Đốc tân cương". Sau khi hoàn thành đào kinh Thoại Hà và kinh Vĩnh Tế, Nguyễn Văn Thoại mộ dân, lập làng Thoại Sơn ở bờ kinh Thoại Hà, cạnh Núi Sập năm 1822; lập 5 làng cặp bờ kinh Vĩnh Tế (Vĩnh Nguơn, Vĩnh Tế, Vĩnh Lạc, Vĩnh Gia, Vĩnh Điều), hình thành phủ Tĩnh Biên vào giữa thế kỷ XIX. Ở Đông Xuyên (nay là thành phố Long Xuyên), năm 1789, Chúa Nguyễn Ánh cho lập thủ Đông Xuyên một thời gian rồi bỏ, việc thành lập 2 thôn Bình Đức và Mỹ Phước cũng xảy ra vào đầu thế kỷ XIX, đồng thời với các thôn lập ở bờ Tây sông Hậu. Khi thành lập tỉnh An Giang, sách Đại Nam nhất thống chí ghi nhận số dân đinh tỉnh An Giang có 25.645 người.

Người Khmer có mặt ở An Giang sớm hơn người Việt. Thế kỷ XIII, Vương quốc Chân Lạp suy yếu luôn chịu sự tấn công, uy hiếp của vương triều Ayuthaya (Xiêm), đến nổi họ phải rời bỏ kinh đô Xiêm Riệp. Thế kỷ XIV, có những dòng di dân theo sông Mê Kông từ Lục Chân Lạp đến Thủy Chân Lạp. Đó là những cuộc di dân của sư sãi, quan chức, dân thường tránh loạn lạc, chiến tranh, nhất là khi vương triều Angkor tan vỡ trước sự xâm lược của vương triều Xiêm. Tỉnh An Giang hiện nay có vùng núi, không sình lầy ở các huyện Tri Tôn, Tịnh Biên, Thoại Sơn, phù hợp với tập quán cư trú và sinh sống của người Khmer nên có nhiều người Khmer dừng lại sinh sống, tạo nên cộng đồng người Khmer ở An Giang ngày nay.

Người Chiêm (Chăm) đến An Giang hơi muộn hơn người Việt. Năm 1757, Nguyễn Cư Trinh đã quan tâm xây đồn bảo ở đạo Châu Đốc và chiêu mộ người Côn Man (người Chiêm Islam di cư sang Chân Lạp) về trấn giữ biên thùy. Đây là nhóm người Chăm đầu tiên ở Châu Đốc và họ là hạt nhân thu hút những người anh em của họ ở Chân Lạp theo về trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XIX. Triều Nguyễn thu nhận những người Chăm (có cả người Malaysia) bố trí ở 7 làng (Châu Giang, Katambong, Phũm Soài, Lama, Kacôi, Ka Coki, Sabâu) gần Châu Đốc với khoảng 5.000 người. Đến giữa thế kỷ XIX, người Chăm (có người Malaysia) còn vài đợt di cư về Châu Đốc do bất bình về sự phân biệt đối xử, bị khủng bố của vương triều Chân Lạp, tạo ra cộng đồng người Chăm (Chiêm) ở An Giang.

Người Hoa đến An Giang cùng thời gian với người Chăm. Người Hoa ở An Giang đến từ Mỹ Tho, Hà Tiên sau khi đất Tầm Phong Long được vua Nặc Tôn của Chân Lạp dâng nộp cho chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát. Cuối thế kỷ XVIII, vùng Châu Đốc còn hoang vu, chưa có tổ chức xã thôn, dân chúng thưa thớt, chỉ có một vài sóc của người Khmer, một ít xóm Chăm. Đến năm 1808, vua Gia Long lập trấn Vĩnh Thanh, tháng 02/1816, lập đồn Châu Đốc và cho trấn thủ Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường trông coi việc xây dựng đồn. Khoảng một năm sau, tháng 02/1817, đồn Châu Đốc được xây dựng xong. Đây là nơi quan trọng để bảo vệ Hà Tiên và hỗ trợ phòng thủ Nam Vang (của Chân Lạp). Bôn ba ở Nam Bộ nhiều năm, vua Gia Long đã từng nhận xét: "Châu Đốc, Hà Tiên bờ cõi không kém Bắc thành". Lúc đó cư dân ở Châu Đốc cũng còn rất ít. Sau khi đắp đồn Châu Đốc xong, Gia Long bổ nhậm Diệp Hội, một người Hoa có tài, mẫn cán, làm Cai phủ Châu Đốc, khiến chiêu tập người Việt, người Hoa vào đó cho đông. Tháng 11/1821, vua Minh Mạng sai giải những tù phạm bị sung quân và bị lưu (trên 130 người) ở Bắc Thành đi Gia Định. Chuẩn cho đến thành Gia Định thì được bỏ xiềng khóa rồi phát đi Châu Đốc cho theo Nguyễn Văn Thoại sai phái tạp dịch, hàng tháng cấp cho tiền gạo để nuôi. Sau khi đào xong kinh Vĩnh Tế, đến năm 1830, tổng trấn Gia Định thành báo: "Đồn Châu Đốc lập được 41 xã thôn phường, có 800 dân đinh, địa lợi chưa khẩn hết".

Tỉnh An Giang là địa bàn cuối cùng sáp nhập vào bản đồ Đại Việt, khi Nguyễn Cư Trinh tiếp nhận, cho lệ vào dinh Long Hồ, ranh giới hành chính lúc đó không rõ ràng. Thời kỳ đầu cũng chưa hình thành các xã, ấp, thôn. Cho đến khi vua Gia Long thống nhất đất nước mới có thôn ấp được lập nhưng còn rất thưa thớt./.

P.N

_______

[1] Ở Cù lao Giêng, huyện Chợ Mới ngày nay.

[2] Ở Sa Đéc.

 

Lượt người xem:  Views:   6553
Manage PermissionsManage Permissions
|
Version HistoryVersion History

Tiêu đề

Hình ảnh

Hình ảnh mô tả

Tóm tắt

Nội dung

Link thay thế nội dung

Ngày xuất bản

Tin nổi bật

Tác giả

Phân loại

Loại bài viết

Số Trang

Số Ảnh

Số tiền

Tin liên quan

Audio

Email

Trạng thái

Lịch sử

Số lượt người đọc

Approval Status

Attachments

Content Type: Tin Tức Mở Rộng
Version:
Created at by
Last modified at by