(TUAG)-
Chủ tịch Tôn Đức Thắng - Bác Tôn, người cộng sản kiên trung, người bạn
thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một chiến sỹ thuộc lớp đầu của
phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc. Cuộc đời, sự
nghiệp vẻ vang của Bác dù thấm đẫm gian nan, thử thách, nhưng Bác luôn
nêu cao tinh thần cách mạng, giữ trọn niềm tin tất thắng vào sự nghiệp
giải phóng giai cấp. Ngoài tính khiêm tốn, giản dị, nhân hậu, thủy
chung, Người còn là một tấm gương mẫu mực về đạo đức, sống cần, kiệm,
liêm, chính, suốt đời phục vụ cách mạng, phụng sự nhân dân.
Căn nhà sàn thời niên thiếu Bác Tôn ở.
Suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Tôn đã thể hiện
và xứng đáng là người con ưu tú của Tổ quốc, người yêu nước
vĩ đại, người cộng sản mẫu mực, biểu tượng của đại đoàn kết
dân tộc, người lãnh đạo kiệt xuất của Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, người chiến sĩ cộng sản quốc tế chân
chính, một nhân cách lớn. Chính Bác là người công nhân đầu tiên
được tặng thưởng Huân chương Sao vàng - Huân chương cao quý nhất
của Nhà nước ta, là người Việt Nam đầu tiên được Ủy ban giải
thưởng hòa bình quốc tế Lênin của Liên Xô tặng giải thưởng
Lênin Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc và
nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại,
Đoàn chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô đã tặng Bác Tôn Huân
chương Lênin - Huân chương cao quý nhất của nhà nước Liên Xô.
Dù
nay Bác Tôn đã đi xa về với "thế giới người hiền", nhưng hình ảnh của
Bác vẫn khắc sâu trong tâm trí đồng bào, đồng chí cả nước và nhân dân An
Giang, giọng nói ấm áp, mộc mạc, chan chứa ân tình; phong cách công
nhân khiêm tốn giản dị và ước nguyện về một quê hương An Giang giàu đẹp
đã và đang được các lớp con cháu không ngừng phấn đấu thực hiện. Kỷ niệm
133 năm ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng (20/8/1888 – 20/8/2021), chúng
ta cùng nhau tưởng nhớ công ơn của Bác Tôn, qua đó học tập và làm theo
những phẩm chất đã tạo nên chất Người Tôn Đức Thắng.
Thứ nhất, chúng ta thấy rất rõ ở Bác một tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo. Tư
duy này được hình thành từ thời niên thiếu, xuất thân trong một
gia đình trung nông, cộng với tư chất thông minh nên có điều
kiện học tập để trở thành thầy Thông, thầy Ký ở xã hội đương thời...
Nhưng Bác không chọn con đường này. Sinh ra, lớn lên trong giai
đoạn thực dân Pháp đã xâm lược nước ta, khắp từ Nam chí Bắc,
các chí sĩ yêu nước và Nhân dân nổi lên chống thực dân Pháp,
các cuộc khởi nghĩa này đã tác động sâu sắc đến tư tưởng,
tình cảm của Bác Tôn. Mặc dù rất kính trọng những lãnh tụ
của các cuộc khởi nghĩa (như Trương Công Định, Nguyễn Trung
Trực, Thiên Hộ Dương, Phan Tam, Phan Ngũ, Lê Công Thành, Nguyễn
Hữu Huân...). Song, Bác Tôn không đi theo con đường của họ, mà tự
chọn con đường riêng của mình, đó là đến Sài Gòn học nghề.
Có thể nói đây là sự lựa chọn đầy khó khăn, tạo ra bước ngoặt
trong cuộc đời của Bác, tìm hướng đi mới để cứu dân, cứu
nước. Cũng từ đây Bác Tôn mang hành trang yêu nước đến với phong
trào công nhân, đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, trở thành người
cộng sản.
Các đồng chí lãnh đạo tỉnh viếng, dâng hương lên Đền thờ Chủ tịch Tôn Đức Thắng.
Trong
cuộc đời hoạt động, Bác Tôn trải qua nhiều cương vị, giữ nhiều
nhiệm vụ quan trọng trong Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc...
Trước muôn vàn khó khăn, gian khổ, ở những thời điểm vô cùng ác
liệt của phong trào cách mạng và những nguy nan cận kề, nhưng với sự
linh hoạt, sáng tạo, nhiệm vụ nào Bác cũng xuất sắc vượt qua. Đề
cập đến nguyên nhân thắng lợi ngày 30/4/1975, Bác Tôn viết: "Đó
là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo,
độc lập, tự chủ..." và chính Bác Tôn là một trong những lãnh
đạo điển hình cho tư duy này.
Học
tập tư tưởng, đạo đức Bác Tôn, các cấp ủy đảng, đội ngũ cán bộ,
đảng viên và người dân phải chấp hành nghiêm các chủ trương, nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tránh
giáo điều, rập khuôn, máy móc, vận dụng linh hoạt, sáng tạo
phù hợp với tình hình thực tiễn, chủ động trong công tác, vươn
lên làm chủ hoàn cảnh như sinh thời Bác Hồ từng trãi nghiệm "Dĩ bất
biến, Ứng vạn biến"
Thứ hai, học Bác Tôn là học tầm cao trí tuệ.
Với tư chất thông minh. Ngay từ khi làm thợ học việc, Bác Tôn đã
nhận thức rõ bản chất bóc lột dã man, đầy rẫy bất công của
chế độ thực dân, phong kiến từ đó Bác đã vận động các tầng lớp
học sinh, lính thủy bỏ học, phản đối chế độ lao động quá sức, đói
khổ, chống bắt lính, đánh đập, cúp phạt, yêu cầu tăng lương,
giảm giờ làm việc... Điều này, không phải ai cũng nhận thức đầy đủ
và kêu gọi mọi người hưởng ứng. Quyết định rời quê hương lên Sài
Gòn đến với giai cấp công nhân đang hình thành, thể hiện rõ tiến bộ
về nhận thức, Bác đã thấy được vai trò của công nhân - một lực
lượng tiên tiến có khả năng lãnh đạo giải phóng dân tộc. Hành
động kéo cờ phản chiến trên chiến hạm France, ủng hộ Cách
mạng Tháng Mười Nga đã thể hiện tầm nhìn sâu rộng, Bác đã nhận
thức được chủ nghĩa đế quốc, thực dân là lực lượng phản tiến
bộ, nhận thức được xu thế phát triển của thời đại.
Với
nhiều hoạt động tích cực trong phong trào công nhân và từ tìm tòi
nghiên cứu, Bác Tôn đã trở thành lớp người đầu tiên của Việt
Nam đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Không những thế, Bác còn tích cực
truyền bá lý tưởng cộng sản và tinh thần yêu nước cho nhiều người. Trong
Hồi ký của mình, Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh viết: "Thấy
chúng tôi còn trẻ mà đã giác ngộ cách mạng thì Bác rất
thương. Bác bắt đầu giáo dục cho tôi và hai người bạn hiểu thế
nào là cách mạng, thế nào là chủ nghĩa cộng sản. Bác rất
hiền. Bác không những thương chúng tôi mà còn thương các bạn tù
khác, kể cả tù thường phạm. Khi họ đi làm về, sau bữa ăn, bị
nhốt ở sam thì Bác thường gần gũi họ, giảng giải cho họ
những điều sơ đẳng nhất về chủ nghĩa cộng sản, về lòng yêu
nước và động viên họ phải can đảm lên, cố chịu đựng rồi khi ra
tù sẽ tiếp tục làm cách mạng"[1].
Dù
phải đối diện với hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, nhưng Bác luôn hoàn
thành xuất sắc mọi nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao,
thể thiện tầm cao trí tuệ, linh hoạt, sáng tạo trong mọi thời điểm khó
khăn, thử thách. Trong Điếu văn truy điệu Bác Tôn, có đoạn viết:
"Bất kỳ ở cương vị công tác nào, mặc dù tuổi cao, Đồng chí
luôn luôn phấn đấu quên mình để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng
và Nhà nước giao cho"[2].
Học
tập đạo đức của Bác Tôn, chúng ta phải thường xuyên rèn luyện, tu
dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt, đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi
mới và hội nhập sâu rộng với thế giới, với nhiều vấn đề rất
mới, chưa có tiền lệ, phải vừa làm, vừa học, vừa rút kinh nghiệm.
Thường xuyên nghiên cứu, học tập trao dồi lý luận, nắm vững lý luận để
bảo vệ sự trong sáng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, chống lại các quan điểm
xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận vai trò của Chủ nghĩa Mác – Lênin, góp phần
thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân
dân ta đã lựa chọn.
Thứ ba, yêu nước, thương dân, một lòng một dạ hy sinh vì nước, vì dân là phẩm chất cao đẹp của Bác Tôn.
Sinh
ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, được truyền thụ
chủ nghĩa yêu nước, tận mắt chứng kiến cảnh áp bức, bất công,
tàn nhẫn của chế độ thực dân, phong kiến. Trong Bác Tôn đã hình
thành tư tưởng yêu nước, thương dân và càng được hung đúc khi Bác là
thủ lĩnh của các phong trào yêu nước, phong trào công nhân ở Sài
Gòn, ở nước Pháp,…
Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang ghi cảm tưởng tại Đền thờ Chủ tịch Tôn Đức Thắng
Trong
bài viết đăng trên báo "Người thủy thủ Xô Viết", Bác Tôn viết:
"Từ ngày đó tôi bắt đầu cuộc sống của tôi trên biển cả, với
lòng yêu quê hương tha thiết và với nguyện vọng học tập để sau
này về đấu tranh mạnh mẽ hơn" và "Tôi tin rằng bất kỳ người
Việt Nam yêu nước nào, nhất là công nhân, được tham gia vào
những giờ phút lịch sử đó tại Biển Đen, không thể hành động
khác tôi, bởi vì yêu Tổ quốc và căm thù đế quốc, cũng có
nghĩa là yêu Cách mạng Tháng Mười và căm thù những kẻ chống
lại Cách mạng Tháng Mười". Bác Tôn khẳng định: "Ánh sáng rực
rỡ và ảnh hưởng mạnh mẽ của Cách mạng Tháng Mười đối với
nhân dân các nước đã đem lại cho tôi một niềm tin và đã chỉ ra
con đường giải phóng đất nước tôi"[3].
Từ
người thợ, người thủ lĩnh phong trào công nhân đến khi trở thành Chủ
tịch nước, Bác Tôn luôn nhân ái, nghĩa tình, yêu thương mọi người.
Bác căn dặn "Phải cho dân yêu, dân tin, dân trọng. Vì có được
dân yêu, dân tin, dân trọng thì công cuộc gì cũng thành công".
Học
tập tinh thần yêu quê hương, yêu đất nước, trọng dân, thương dân của
Bác, chúng ta phải luôn tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
của Nhân dân, thực sự trọng dân, gần gũi với nhân dân; làm cho đất
nước giàu mạnh, mỗi người dân được ấm no, hạnh phúc. Kiên quyết
đấu tranh, chống bệnh quan liêu, vi phạm dân chủ; quyết tâm đấu
tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng.
Thứ
tư, Bác Tôn là một tấm gương tiêu biểu của sự kiên cường, bất khuất,
tuyệt đối trung thành, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư,
khiêm tốn, giản dị.
Bác Tôn
ít viết, ít nói về đạo đức cách mạng. Nhưng hành động tiên
phong, mẫu mực của Bác đã thể hiện đầy đủ tinh thần đạo đức cách
mạng, được toàn Đảng, toàn dân và bạn bè thế giới thừa nhận.
Bác
Tôn tham gia phong trào yêu nước, phong trào công nhân không chút
nao núng khi còn rất trẻ. Mặc dù bị tù đày khổ sai, luôn đối diện
với đòn roi, đói khát và cả cái chết, Bác vẫn giữ vững khí
tiết, kiên cường, không bị khuất phục. Vừa thoát khỏi nhà tù
thực dân, Bác nhanh chóng tham gia chống thực dân Pháp. Suốt 35
năm giữ những cương vị quan trọng trong Đảng, Quốc hội, Chính
phủ, Mặt trận tổ quốc..., Bác Tôn luôn tận tâm, nỗ lực hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ, luôn trung thành với mục tiêu, con đường
cách mạng mà Bác Hồ và Đảng ta đã lựa chọn, đó là độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Yêu
lao động, liêm khiết, một lòng một dạ phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân
dân, "Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ" là những đức tính vô cùng
quý báo Bác Tôn. Trên cương vị Chủ tịch nước, Bác luôn sắp xếp công
việc khoa học, tôn trọng kỷ luật để mang lại hiệu quả cao nhất.
Những đồng chí từng bị giam cầm và làm việc với Bác Tôn đều có
chung một nhận xét: Phong cách của Bác không hề biến đổi, vẫn
là những đức tính của người công nhân, phong cách công nhân giản
dị, chân thành, trong sáng, gần gũi, hòa đồng với mọi người.
Bác Tôn thích ăn những món ăn dân dã quê nhà, mặc như người
bình thường khác, không thích lối sống sang trọng, xa hoa. Khiêm
tốn, giản dị đã trở thành nếp sống, phong cách sống, thể
hiện trong tất cả các mối quan hệ, trong mọi hoạt động, giao
tiếp và ứng xử hằng ngày của Bác.
Các đồng chí lãnh đạo tỉnh dâng hương tại nhà sàn thời niên thiếu của Bác Tôn
Tại
lễ mừng thọ Bác Tôn tròn 70 tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
"Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng:
suốt đời cần, kiệm, liêm chính; suốt đời hết lòng hết sức
phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân"[4].
Trong
Điếu văn truy điệu Bác Tôn có đoạn viết: "Cuộc đời hoạt động
cách mạng của đồng chí là một tấm gương sáng về lòng trung
thành, tận tụy, về tinh thần anh dũng, bất khuất về đức tính
khiêm tốn, giản dị. Toàn thể đồng chí và đồng bào chúng ta
rất tự hào về sự nghiệp và đạo đức cách mạng của Đồng chí.
Chúng ta quyết mãi mãi noi gương cao cả của Đồng chí để khắc
phục mọi khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng"[5].
Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Tôn, chúng ta phải tích
cực hăng say lao động, sản xuất, công tác; phải luôn suy nghĩ cách
làm hay, sáng tạo để nâng cao năng suất, chất lượng lao động. Chống
bệnh chây lười, làm việc qua loa, đại khái. Chống thói háo danh,
tham chức, tham quyền, cơ hội, thực dụng, tư lợi, chủ nghĩa cá
nhân. Phải tận tâm, tận lực phục vụ Đảng, vì cuộc sống ấm no và
hạnh phúc của Nhân dân.
Thứ năm,
Bác Tôn là người thực hành tiêu biểu chính sách đại đoàn kết
dân tộc của Đảng, của Bác Hồ, là chiến sĩ cộng sản quốc tế.
Bác
Tôn là biểu tượng của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc ta. Với 27 năm giữ
những nhiệm vụ: Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, Chủ
tịch Mặt trận Liên Việt, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Chủ tịch danh dự Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 10 năm trên cương
vị Chủ tịch nước, Người đã để lại cho Đảng và nhân dân ta những kinh
nghiệm quý báu, những bài học sâu sắc về đại đoàn kết dân tộc. Đảng
ta khẳng định: "Đồng chí là người tiêu biểu nhất cho chính
sách đại đoàn kết của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh"[6].
Theo
Bác Tôn, muốn đoàn kết thực sự, chắc chắn thì các giai tầng,
các lực lượng phải hướng tới mục tiêu chung, đó là: "Đoàn
kết, nhất trí giành độc lập cho Tổ quốc, dân chủ cho Nhân dân
và hòa bình cho thế giới". Người chỉ rõ muốn đại đoàn kết
toàn dân tộc, thì trước nhất trong Đảng phải thực sự là khối
đoàn kết thống nhất, làm hạt nhân lãnh đạo khối đoàn kết dân
tộc. Trong lời phát biểu tại Hội nghị cán bộ dân vận Trung
ương ngày 15/02/1949, Bác nói: "Có đoàn kết nội bộ thì việc
thi hành phương châm chính sách mới thống nhất nhịp nhàng. Kinh
nghiệm cho ta biết sở dĩ có những thành tích vẻ vang nhất là
nhờ có sự đoàn kết nội bộ chặt chẽ" và "Đảng ta cần liên hệ
tốt với quần chúng, cần phải đoàn kết chung quanh Đảng, các
giai cấp, các tầng lớp nhân dân cách mạng hiểu rõ chỉ có tin
tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng và đoàn kết chung quanh Đảng,
mới giành được thắng lợi"[7].
Đoàn kết dân tộc phải dựa trên nền tảng khối liên minh
công-nông "Cần phải luôn luôn tăng cường liên minh công-nông, dựa
vào lực lượng công-nông để tranh thủ các tầng lớp nhân dân
khác, nếu không như thế thì việc tranh thủ các tầng lớp trên
sẽ gặp khó khăn; hoặc có tranh thủ được, Mặt trận cũng không
có cơ sở vững chắc"[8].
Đoàn
kết dân tộc còn phải huy động sức mạnh của nhân dân ta ở nước ngoài
và sự ủng hộ của người dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Trong
lời Hiệu triệu của Ban Thường trực Quốc hội nhân dịp kỷ niệm
Ngày toàn quốc kháng chiến, Bác nói: "Các kiều bào hải
ngoại lần này cũng phải tích cực hoạt động tìm đủ cách tuyên
truyền cuộc chiến tranh chính nghĩa của ta, gây thiện cảm với
Nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới và đánh tan những
luận điệu của bọn phản động quốc tế mong lừa bịp dư luận
hoàn cầu để đè nén, bóc lột các dân tộc nhược tiểu. Ở tiền
tuyến, ở hậu phương, ở trong nước, ở ngoài nước, già trẻ,
gái, trai không kể tôn giáo gì, đều phải thi đua bằng mọi cách
để giết giặc cứu nước, để giải phóng cho dân tộc và góp phần
vào sự nghiệp xây dựng hòa bình chung của thế giới".
Ở
Bác Tôn, tinh thần yêu Tổ quốc, yêu Nhân dân gắn liền với tình
cảm quốc tế trong sáng, thủy chung. Xuất phát từ tình yêu
thương con người, yêu thương những người bị áp bức bóc lột, yêu
dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập, chủ quyền của các
nước khác. Bác coi sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do
của các nước cũng như của dân tộc mình. Bác Tôn là một trong
những người Việt Nam đầu tiên ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga,
Cách mạng Trung quốc. Với những cống hiến vô cùng to lớn đối
với cách mạng thế giới, Bác Tôn vinh dự là người Việt Nam đầu tiên
được trao tặng giải thưởng Hòa bình quốc tế Lênin.
Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Bác Tôn, chúng ta quyết tâm xây
dựng khối đoàn kết toàn dân. Huy động sức mạnh tổng hợp của mọi
tầng lớp nhân dân để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Phát
huy tinh thần đoàn kết, thống nhất trong các cấp ủy đảng, xây
dựng các tổ chức cơ sở đảng "Trong sạch – vững mạnh", làm hạt nhân
để xây dựng khối đoàn kết toàn dân, kết hợp với sức mạnh của thời
đại, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta
trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa được xác
định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Lễ kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại xã Mỹ Hòa Hưng, TP Long Xuyên, tỉnh An Giang.
An Giang học tập và làm theo tấm gương Chủ tịch Tôn Đức Thắng
An
Giang tự hào là quê hương của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, khắc ghi công lao
của Người, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân An Giang đã tích cực học
tập, sáng tạo, có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang
của Đảng và của dân tộc. Trong 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới
ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc qua các nhiệm kỳ, Đảng bộ và
nhân dân An Giang đã vận dụng và cụ thể hoá phù hợp với đặc điểm tình
hình địa phương.
Trong điều kiện xuất
phát điểm rất thấp sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, An
Giang phải đương đầu với cuộc chiến tranh biên giới tây nam, bảo vệ vững
chắc biên cương của Tổ quốc, thường xuyên đối phó với thiên tai, ngập
lụt, sạt lở với nhiều thiệt hại nặng nề về tính mạng, tài sản của Nhân
dân. Nhưng với ý chí vươn lên mạnh mẽ, không lùi bước, các thế hệ lãnh
đạo, cán bộ, đảng viên và Nhân dân An Giang đã đoàn kết một lòng, tập
trung khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh đưa quê hương Bác Tôn vượt lên
nghèo khó. Từ một tỉnh thuần nông với giá trị sản xuất thấp, An Giang đã
trở thành một trong các tỉnh đi đầu trong công cuộc đổi mới, với
nhiều đột phá, giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất[9],
tạo ra bước ngoặt quan trọng trong phát triển, đặc biệt là trong nông
nghiệp. Từ ngưỡng thiếu lương thực, với sản lượng lúa chỉ khoảng 850
ngàn tấn/năm vào năm 1986, An Giang là tỉnh đầu tiên có sản lượng lương
thực đạt 3 triệu tấn/năm vào năm 2007, góp phần đảm bảo an ninh lương
thực và xuất khẩu cho quốc gia.
Ghi
nhận những thành tựu đáng tự hào trong kháng chiến và trong thời kỳ đổi
mới, Đảng bộ, quân và dân An Giang vinh dự được Đảng, Nhà nước phong
tặng Huân chương Sao vàng và danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân.
Mỹ Hòa Hưng vinh dự đón nhận Quyết định của UBND tỉnh công nhận đạt chuẩn xã nông thôn mới năm 2015.
Những
năm gần đây (2015 - 2020), mặc dù chịu tác động không nhỏ của tình
hình chính trị, kinh tế thế giới và trong nước, cùng với ảnh hưởng tiêu
cực của biến đổi khí hậu, thiên tai, sạt lở, dịch bệnh… nhưng toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân An Giang đã phát huy truyền thống đoàn kết, năng
động, sáng tạo, nắm bắt tốt thời cơ, vượt qua thách thức, nỗ lực phấn
đấu đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Trong đó đã thực hiện đạt và
vượt các chỉ tiêu chủ yếu nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần
thứ X đề ra[10].
Kinh tế tăng trưởng qua từng năm, cơ cấu chuyển dịch theo hướng tích
cực. Tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 5,25% (giai đoạn 2010 - 2015 đạt 5,07%)[11]. Các chỉ số cải cách hành chính, quản trị và hành chính công, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh đều tăng[12].
Chương trình xây dựng nông thôn mới hoàn thành sớm 01 năm so chỉ tiêu
Nghị quyết (có 61 xã và 03 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn). Đời sống người
dân không ngừng cải thiện, GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt trên
46,8 triệu đồng, tương đương 1.910 USD (tăng 16 triệu đồng so năm 2015).
Bí thư Tỉnh ủy Lê Hồng Quang phát biểu tại buổi làm việc với lãnh đạo
các sở, ngành tỉnh và các huyện, thị xã, thành phố biên giới về công tác
phòng, chống dịch bệnh COVID-19
Bên
cạnh đó, An Giang luôn quan tâm thực hiện đồng bộ các chính sách phúc
lợi, an sinh xã hội, trước hết là giáo dục, y tế, việc làm, giảm nghèo
và nhà ở. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều đến năm 2020 giảm còn 1,93% (giảm bình
quân 1,5%/năm). Giáo dục - đào tạo phát triển về quy mô, chất lượng[13];
mạng lưới trường, lớp được đầu tư rộng khắp; Công tác bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe Nhân dân được chú trọng; cơ sở vật chất phục vụ khám, chữa bệnh
được tăng cường; nguồn nhân lực y tế phát triển về số lượng và chất
lượng; nâng cao năng lực y tế dự phòng, ngăn chặn nhiều loại dịch bệnh
nguy hiểm, nhất là phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Các chỉ tiêu về sức
khỏe cộng đồng được cải thiện[14].
Huy động mọi nguồn lực xã hội để thực hiện các chính sách hỗ trợ cho
người dân vùng khó khăn, các đối tượng bị ảnh hưởng bởi thiên tai, sạt
lở, hộ chính sách, hộ hộ nghèo… góp phần tạo nên nét văn hóa "an sinh xã
hội vì cộng đồng" mang đậm dấu ấn riêng của An Giang. Đặc biệt trong
bối cảnh dịch bệnh Covid-19 đã và đang bùng phát mạnh, làm tổn thất to
lớn đến tính mạng, sức khỏe của nhân dân và kinh tế cả nước, Nhân dân An
Giang đã phát huy tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, chia sẻ,
giúp đỡ nhau chống chọi với dịch bệnh. Nhiều nghĩa cử cao đẹp đã xuất
hiện như: "bếp ăn không đồng", "cửa hàng không đồng", "chuyến xe không
đồng" và nhiều tập thể, cá nhân đã tự nguyện đóng góp tài chính, phương
tiện cho công tác phòng chống dịch bệnh, thể hiện tinh thần đoàn kết
nhân ái của người dân An Giang và của dân tộc ta.
Bí thư Tỉnh ủy An Giang khảo sát tuyến cột mốc biên giới.
Quốc
phòng, an ninh được giữ vững. Khu vực phòng thủ được xây dựng vững
chắc, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội, nhất là vùng biên giới, vùng
dân tộc. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được được
thực hiện thường xuyên, hiệu quả. Phương thức lãnh đạo của Đảng bộ có
nhiều đổi mới, phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Tổ chức bộ máy được nâng
chất, tinh gọn, hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả[15]…
Trong
giai đoạn hiện nay (2021 - 2025), với phương châm "Dân chủ - Đoàn
kết - Khát vọng - Phát triển", An Giang tiếp tục phát huy truyền thống
cách mạng hào hùng, "sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, khát vọng phát
triển, xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, dân
chủ, đổi mới, sáng tạo; giữ vững quốc phòng, an ninh; khai thác tốt lợi
thế và tiềm năng, tập trung thực hiện các khâu đột phá[16],
tạo động lực mới để đến năm 2025 kinh tế An Giang thuộc nhóm đầu khu
vực đồng bằng sông Cửu Long và đạt mức trung bình cả nước.
Toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân An Giang nguyện sống, chiến đấu, công tác,
học tập theo gương Chủ tịch Tôn Đức Thắng, cùng đoàn kết một lòng, góp
phần xây dựng quê hương An Giang ngày càng giàu đẹp như sinh thời Bác
từng kỳ vọng./.
*TS. Lê Hồng Quang,
Ủy viên BCHTW Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang
____________________
[1] Tôn Đức Thắng người cộng sản mẫu mực, biểu tượng của đại đoàn kết, NXB CTQG, H.2003, tr27.
[2] Sđd, tr27.
[3] Sđd, tr27.
[4] Sđd, tr18.
[5] Sđd, tr16.
[6] Sđd, tr16.
[7] ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM:Văn kiện Đảng toàn tập, NXBCTQG, H,2001, t12, tr258.
[8] ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM: Văn kiện Đảng toàn tập, NXBCTQG, H,2001, t12, tr277.
[9]
Nghị quyết Đại hội IV Đảng bộ tỉnh (10/1986) chủ trương về nông nghiệp,
nông dân và nông thôn, xem ba mặt trên là những vấn đề không thể tách
rời - gọi là "Tư tưởng tam nông"; Chủ trương: củng cố tập đoàn sản
xuất, đưa ruộng đất, máy móc nông nghiệp về hộ nông dân, lấy hộ nông dân
làm đơn vị sản xuất cơ bản; giao đất hoang hóa cho gia đình và tập thể,
xóa khái niệm xâm canh tạo điều kiện khai thác các vùng hoang hóa, miễn
thuế; khôi phục quyền sử dụng đất với quyền sử dụng các tư liệu sản
xuất khác, cho phép sang nhượng và kế thừa quyền sử dụng đất; cho nông
dân vay vốn bằng cả hai loại hình thế chấp và tín chấp; Chương trình
khai thác tứ giác Long Xuyên (năm 1988) nhằm chuyển lúa mùa nổi sang lúa
tăng vụ và lúa cao sản để tăng nhanh sản lượng lương thực; Chương trình
khuyến nông (năm 1989) giúp người nông dân có trình độ khoa học kỹ
thuật, làm chủ có hiệu quả trên mảnh đất của mình; Chương trình phát
triển nông thôn (năm 1992)…
[10]
Có 05/15 chỉ tiêu đạt trên 80% chỉ tiêu Nghị quyết: (1) GRDP bình quân
đầu người đến năm 2020 đạt 96,3% so chỉ tiêu Nghị quyết, (2) Thu ngân
sách đạt 98%, (3) Tổng vốn đầu tư xã hội 05 năm đạt 86%, (4) Trường học
đạt chuẩn quốc gia đạt 81,3%, (5) Số đảng viên được kết nạp mới đạt
81,2%.
[11] Khu vực nông, lâm thủy sản tăng 2,3%, khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 8,23%, khu vực dịch vụ tăng 6,85%.
[12]
Chỉ số cải cách hành chính (PAR-Index): năm 2016 hạng 36 cả nước, năm
2017, năm 2018 hạng 8, năm 2019 hạng 11. Chỉ số quản trị và hành chính
công (PAPI): năm 2016 hạng 34, năm 2017 hạng 18, năm 2018 hạng 25, năm
2019 hạng 21. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI): năm 2016 hạng
38, năm 2017 hạng 32, năm 2018 hạng 28, năm 2019 hạng 21.
[13]
Tỉ lệ đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia đứng top 10 cả nước và
đứng đầu đồng bằng sông Cửu Long 04 năm liền 2017 - 2020.
[14]
Tuổi thọ trung bình tăng từ 73,6 tuổi năm 2015 lên 74,4 tuổi năm 2019.
Đến năm 2020, số bác sĩ/vạn dân ước đạt 09 bác sĩ (năm 2015 đạt 6,13).
Số giường bệnh/vạn dân đạt 26 giường (năm 2015 đạt 18,14 giường). Mức
giảm tỉ lệ sinh hằng năm đạt 0,05%, tỉ số giới tính khi sinh (số bé
trai/100 bé gái) duy trì ở mức dưới 109%, tỉ lệ phụ nữ sinh tại cơ sở y
tế đạt gần 100%.
15 Mô
hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp đã
thực hiện ở 132/156 xã, phường, thị trấn và 04/11 đơn vị cấp huyện (Long
Xuyên, Châu Đốc, Châu Phú, Tri Tôn). Duy trì 888/888 khóm, ấp thực hiện
mô hình bí thư chi bộ đồng thời là trưởng khóm, ấp.
Ở cấp tỉnh: đã thực hiện mô hình Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy đồng thời là Giám đốc Sở Nội vụ.
Ở cấp huyện đã thực hiện các mô hình sau:
- Trưởng ban tuyên giáo đồng thời là giám đốc trung tâm bồi dưỡng chính trị: thực hiện ở 11/11 huyện, thị, thành phố.
-
Trưởng ban tổ chức cấp ủy cấp huyện đồng thời là trưởng phòng nội vụ:
thực hiện ở 04/11 huyện, thị, thành phố (Long Xuyên, Châu Phú, Chợ Mới,
Châu Thành).
- Chủ nhiệm ủy ban kiểm tra đồng thời là
chánh thanh tra cấp huyện: thực hiện ở 02/11 huyện, thị, thành phố (Long
Xuyên, Châu Phú).
- Trưởng ban dân vận đồng thời là chủ
tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc: thực hiện ở 09/11 huyện, thị, thành phố
(Long Xuyên, Châu Đốc, An Phú, Châu Phú, Châu Thành, Chợ Mới, Phú Tân,
Tri Tôn, Tịnh Biên).
[16]
(1) Đầu tư kết cấu hạ tầng, đặc biệt là kết cấu hạ tầng giao thông phục
vụ phát triển công nghiệp và du lịch; (2) Nâng cao năng lực, trách
nhiệm của đội ngũ cán bộ; cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống
chính trị; (3) Cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư,
kinh doanh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo nhằm phát triển và nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên địa bàn.