Thực hiện chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí
Minh: “Trong một tháng phải có hoạt động. Trận đầu nhất định phải thắng
lợi”, 17 giờ ngày 25-12-1944 (ngay sau ngày thành lập), Đội đã mưu trí,
tạo bạo, bất ngờ đột nhập đồn Phai Khắt (đóng tại tổng Kim Mã, châu
Nguyên Bình (nay thuộc xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) và 7
giờ sáng ngày 26-12-1944, lại đột nhập tấn công đồn Nà Ngần (đóng tại
xã Cẩm Lý, châu Nguyên Bình, nay thuộc xã Hoa Thám, huyện Nguyên Bình,
tỉnh Cao Bằng) với hai chiến thắng mở đầu cho truyền thống đánh chắc
thắng, đánh thắng trận đầu của quân đội ta.
Tháng 3-1945, Thường vụ Trung ương Đảng
họp mở rộng và ra Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta”. Tháng 4-1945, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng
Bắc Kỳ, quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang cả nước là Việt Nam
truyền thống giải phóng quân, Cứu Quốc quân và các tổ chức vũ trang
khác… thành Việt Nam Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp làm tư
lệnh. Tháng 3/1945, Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng và ra Chỉ thị
“Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4/1945, Trung ương
Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định thống nhất
các lực lượng vũ trang cả nước (Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân,
Cứu quốc quân và các tổ chức vũ trang khác…) thành Việt Nam Giải phóng
quân; đẩy mạnh tuyên truyền xung phong có vũ trang phá kho thóc của Nhật
để cứu đói cho nhân dân; xây dựng các đội tự vệ vũ trang, du kích cứu
quốc; phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn
cứ cách mạng. Từ tháng 4/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước, phong trào
vũ trang khởi nghĩa, khởi nghĩa từng phần đã giành thắng lợi ở nhiều
nơi. Ngày 15/5/1945, sau buổi lễ thống nhất tại Định Biên Thượng, Định
Hóa, Thái Nguyên, đồng chí Võ Nguyên Giáp trở thành Tư lệnh các lực
lượng vũ trang thống nhất, mang tên Việt Nam giải phóng quân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ
trang cùng các tầng lớp nhân dân tiến hành tổng khởi nghĩa Cách mạng
Tháng Tám chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945 và đã giành thắng
lợi. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ở Quảng
trường Ba Đình lịch sử tuyên bố với thế giới, với quốc dân đồng bào Nhà
nước công nông đầu tiên trên ở Đông Nam châu Á đã ra đời. Đồng thời Việt
Nam Giải phóng quân đổi thành Vệ quốc quân. Năm 1946 Vệ quốc quân đổi
tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam. Năm 1950, đổi tên thành Quân đội
nhân dân Việt Nam. Ngày 22/12/1944, ngày thành lập Đội Tuyên truyền Giải
phóng quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nh Việt Nam được lấy làm ngày
thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công,
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng trước nhiều khó khăn chồng chất,
cùng một thời điểm phải đối phó với ba giặc: Giặc đói, giặc dốt, giặc
ngoại xâm. Ở Nam Bộ, ngày 23-9-1945, thực dân Pháp được quân Anh, quân
Nhật giúp sức đã trắng trợn gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh
xâm lược nước ta lần thứ hai. Tại Bắc Bộ và Trung Bộ, từ cuối tháng 8
đến đầu tháng 10-1945, gần 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch đã chiếm đóng
hầu hết các thành phố từ vĩ tuyến 16 mở ra. Trong bối cảnh đó, Vệ quốc
quân vừa xây dựng vừa chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, các lực lượng vũ
trang đã cùng với lực lượng tự vệ chống giặc ngoài, thù trong, góp phần
bảo vệ chính quyền nhân dân trong những năm đầu của chính quyền cách
mạng. Ngày 19-12-1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Với tinh thần “Cảm
tử cho Tổ quốc quyết sinh”, Vệ quốc quân đã anh dũng chiến đấu ở Thủ đô
Hà Nội, làm phá sản chiến lược “Đánh nhanh, thắng nhanh”, đánh bại âm
mưu “bình định” và “phản công” của địch, cùng toàn dân giành thắng lợi
cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân (1953 - 1954) với 5 đòn tiến công
chiến lược, quân và dân ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng
nhiều vùng đất đai rộng lớn.
Năm nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 30
năm Ngày hội quốc phòng toàn dân. Đây là dịp để khắc ghi những truyền
thống hào hùng của quân đội ta qua 75 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng
thành. Đồng thời, phát huy những truyền thống quý báu của quân đội ta để
góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong
giai đoạn cách mạng mới.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(1954-1975), Quân đội nhân dân Việt Nam tiến lên chính quy, từng bước
hiện đại, xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giữ gìn, phát
triển lực lượng vũ trang cách mạng ở Việt Nam, từng bước đánh bại các
chiến lược của đế quốc Mỹ và giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
Tổ quốc. Để đáp ứng nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, mà
Trung ương Đảng xác định đó là “trụ cột bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa
bình”, quân đội ta nhanh chóng xây dựng theo kế hoạch quân sự 5 năm lần
thứ nhất (1955-1960) với phương châm: Tích cực xây dựng quân đội nhân
dân hùng mạnh, tiến dần từng bước lên chính quy, hiện đại. Ở miền Nam,
tháng 6/1954, Mỹ dựng chính quyền Ngô Đình Diệm và ráo riết khủng bố tàn
bạo. Tháng 1/1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa II) mở rộng đã xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng miền Nam
và vạch rõ con đường cơ bản của cách mạng miền Nam là sử dụng bạo lực
cách mạng. Ngày 17/1/1960, nhân dân các huyện Mỏ Cày, Minh Tân, Thạnh
Phúc tỉnh Bến Tre nhất loạt nổi dậy, phá thế kìm kẹp, tạo nên phong trào
“Đồng Khởi” lan rộng ra nhiều tỉnh Nam Bộ, khu 5. Ngày 20/12/1960, Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Ngày 15/2/1961, Quân
ủy Trung ương quyết định thành lập Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, bộ
phận trực tiếp của Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện nhiệm vụ chiến
đấu ở miền Nam. Chúng ta lần lượt giữ gìn và phát triển lực lượng vũ
trang cách mạng ở miền Nam, đánh bại: “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc
Mỹ (1961-1965), “Chiến tranh cục bộ” và chiến tranh phá hoại miền Bắc
lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965-1968), chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh” và cuộc tập kích bằng không quân, hải quân lần thứ hai vào miền
Bắc của đế quốc Mỹ (1969-1972).Với tinh thần dũng cảm, bằng cách đánh
mưu trí, linh hoạt, quân và dân miền Bắc đã đánh thắng cuộc tập kích
chiến lược lần thứ hai bằng B52 của Mỹ, lập nên kỳ tích “Điện Biên Phủ
trên không” trên bầu trời Hà Nội.
Thắng lợi to lớn của quân và dân hai
miền Nam - Bắc, đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về “chấm dứt
chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” ngày 27-1-1973. Sau khi Hiệp
định được ký kết, với bản chất ngoan cố, đế quốc Mỹ chưa chịu từ bỏ âm
mưu duy trì chế độ thực dân mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Trong quá
trình rút quân, đế quốc Mỹ vẫn để lại nhiều sĩ quan mặc áo dân sự và
giao lại cho quân đội Sài Gòn toàn bộ cơ sở vật chất, vũ khí, phương
tiện chiến tranh. Dựa vào viện trợ của quan thầy Mỹ, chính quyền Nguyễn
Văn Thiệu ra sức củng cố ngụy quân, ngụy quyền, liên tiếp mở các cuộc
hành quân “tràn ngập lãnh thổ”, lấn chiếm vùng giải phóng của ta. Nắm
chắc được âm mưu của địch, Hội nghị Bộ chính trị tháng 10-1974 và đầu
năm 1975 đã kịp thời đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta và địch
trong tình hình mới, chỉ rõ sự xuất hiện thời cơ lịch sử và nêu quyết
tâm chiến lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, đánh bại cuộc chiến tranh
thực dân mới của đế quốc Mỹ bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa
Xuân năm 1975, kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Cờ Tổ quốc
tung bay trước tòa nhà chính của Dinh Độc lập lúc 11 giờ 30 phút ngày
30-4-1975. Chiến dịch Hồ Chí Minh đã toàn thắng, miền Nam hoàn toàn giải
phóng, thu non sông về một mối. Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch
hiệp đồng quân, binh chủng quy mô lớn nhất, giành thắng lợi to lớn nhất,
đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam, là
đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Trong giai đoạn cách mạng mới của đất nước, nhiệm vụ của quân đội được
Trung ương Đảng nêu rõ: “Ra sức bảo vệ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta… bảo vệ độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới và hải đảo
của nước Việt Nam thống nhất. Tích cực tham gia sản xuất, góp phần xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”. Để thực hiện nhiệm
vụ của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc
phòng đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc
phòng trong 5 năm (1976-1981). Quân đội nhân dân Việt Nam đã góp phần
quan trọng vào việc khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống nhân
dân, cùng toàn dân đánh thắng hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở
biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế ở
Campuchia, cùng quân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn pốt -
Iêng xary; hồi sinh, tái thiết đất nước Campuchia.
Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung
ương Đảng, từ năm 1979, quân đội ta đã triển khai cuộc vận động “Phát
huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu”. Quân đội ta đã có
những đóng góp xứng đáng vào những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử của hơn 30 năm đổi mới đất nước. Quân đội ta đã nắm chắc và dự báo
đúng tình hình liên quan đến quốc phòng - an ninh; chủ động tham mưu, đề
xuất với Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách;
tham mưu giúp Ban chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết về “Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, tham mưu giúp Bộ chính trị ban
hành “Chiến lược quốc phòng”. Đã tham mưu với Đảng, Nhà nước đề ra đối
sách phù hợp, xử lý linh hoạt, đúng đắn các tình huống phức tạp, các vấn
đề nhạy cảm về quốc phòng - an ninh, trong quan hệ đối nội và đối
ngoại, không để đất nước bị động bất ngờ về chiến lược, đồng thời không
để cho các thế lực thù địch lợi dụng, chống phá; giữ vững độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và quan hệ tốt với các nước láng
giềng, bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường thuận lợi
để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trải qua 75 năm chiến đấu, xây dựng và
trưởng thành cùng với những chiến công mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc
như những biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của một
quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phục vụ, quân đội
ta đã xây đắp nên những truyền thống cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”. Hiện
nay, trên thế giới và khu vực bên cạnh xu thế hòa bình, hợp tác, hội
nhập và phát triển thì có những diễn biến phức tạp, mau lẹ, khó lường.
Do vậy, bên cạnh thuận lợi, thời cơ thì cũng đan xen nhiều khó khăn,
thách thức đối với sự nghiệp đổi mới và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh bốn
nguy cơ mà Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII đã nêu ra đang được ngăn
chặn, đẩy lùi từng bước thì bây giờ lại xuất hiện bốn vấn đề bức xúc của
xã hội ảnh hưởng hằng ngày, hằng giờ đến tư tưởng, đến sức sức khỏe và
tính mạng của các tầng lớp nhân dân. Đó là: An toàn môi trường, an toàn
thực phẩm, an toàn giao thông và an toàn mạng. Các thế lực thù địch,
phản động đang đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ. Chúng sử dụng mạng xã hội, internet tung
ra các tài liệu xấu, độc nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh để đánh vào nền tảng tư tưởng của Đảng, bôi nhọ các đồng chí
lãnh đạo, hòng gây nghi ngờ chia sẻ trong nội bộ, chia rẽ Đảng với nhân
dân, chia rẽ Đảng với quân đội và phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, “phi
chính trị hóa” các lực lượng vũ trang. Mục đích của chúng là hướng lái
đất nước đi chệch con đường xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, cần
phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đối với
nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới. Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. Xây dựng đội ngũ cán bộ quân
đội có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, có đạo đức, lối sống
tốt, có năng lực trí tuệ và hoạt động thực tiễn, có quan hệ chặt chẽ,
máu thịt với nhân dân.
Kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập Quân đội
nhân dân Việt Nam và 30 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân cũng là dịp để
chúng ta ôn lại lịch sử vẻ vang của dân tộc và những chiến công oanh
liệt của quân và dân ta; khơi dậy niềm tự hào dân tộc, phát huy chủ
nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam vào giai đoạn cách mạng mới./.