Trong suốt
chặng đường lịch sử vẻ vang đó, Đảng luôn được Nhân dân tin yêu, đùm bọc, giúp
đỡ, thừa nhận là Đảng của chính mình và trìu mến gọi Đảng Cộng sản Việt Nam bằng
hai chữ “Đảng ta”. Đây là niềm vinh dự, tự hào của Đảng mà không phải bất kỳ đảng
chính trị nào trên thế giới cũng có được.
Ngay khi Đảng ta mới ra đời, với Cương lĩnh chính trị đầu
tiên đã mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc
lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên đã xác định được
những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những
nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất
các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
Với tôn chỉ, mục đích rõ ràng, bằng sự kiên trung của các
chiến sĩ cộng sản, Đảng ta nhanh chóng giành được vị thế lãnh đạo và được sự ủng
hộ rộng rãi của quần chúng Nhân dân lao động. Chính nhờ có sự ủng hộ rộng rãi
của Nhân dân, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã lãnh đạo cao trào năm 1930-1931 mà
đỉnh cao là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh; cao trào dân chủ 1936-1939 và cao
trào giải phóng dân tộc 1939-1945, làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại,
thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước dân chủ cộng hòa đầu tiên ở
Đông Nam Á, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cho dân tộc
Việt Nam. Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của
Đảng ngày 06/01/1946, Nhân dân ta đã tiến hành Tổng tuyển cử để tự lựa chọn bầu
ra những đại biểu chân chính của mình vào Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội đã
bầu lãnh tụ Hồ Chí Minh giữ chức Chủ tịch Chính phủ và trao quyền cho Người lập
Chính phủ chính thức - Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Đến kỳ họp thứ hai
(tháng 11/1946), Quốc hội đã thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa. Như vậy, Đảng ta đã giành được chính quyền trong quá trình lãnh đạo cách
mạng và được trao quyền lãnh đạo đất nước thông qua luật pháp, thông qua bầu cử
của Nhân dân; quyền lãnh đạo của Đảng là do Nhân dân và cả dân tộc Việt Nam tin
tưởng giao phó chứ Đảng không đòi hỏi bắt buộc phải có sứ mệnh lịch sử đó. Vì
tin yêu Đảng, Nhân dân ta đã một lòng, một dạ đi theo Đảng, quyết tâm ủng hộ
Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc đi đến thắng lợi cuối cùng.
Sau khi lãnh đạo giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
đất nước năm 1975, trước muôn vàn khó khăn sau chiến tranh, Nhân dân ta tiếp
tục tin tưởng, giao cho Đảng trọng trách lãnh đạo dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi cả nước. Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1980 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu
chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác -
Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ
yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng tồn tại và phấn đấu
vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Các tổ chức của Đảng
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”. Đây là sự lựa chọn tự giác, tự nguyện của
Nhân dân và dân tộc ta.
Đến những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới có những
biến cố to lớn, đặc biệt sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu
là tổn thất rất lớn, gây bất lợi cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Đứng trước tình thế vô vàn khó khăn, thử thách, Nhân dân ta vẫn tin tưởng giao
cho Đảng trọng trách kiên trì con đường cách mạng đã lựa chọn, lãnh đạo toàn
dân tộc xây dựng nước Việt Nam độc lập và đi lên chủ nghĩa xã hội. Điều 4 Hiến
pháp năm 1992 một lần nữa khẳng định ý chí và nguyện vọng của Nhân dân ta về
quyền lãnh đạo của Đảng.
Hiện nay, trước những thời cơ, vận hội đan xen với những
nguy cơ, thách thức lớn, Nhân dân ta vẫn một lòng, một dạ đi theo Đảng. Điều 4
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định ý chí, nguyện vọng của toàn thể Nhân dân
Việt Nam: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả
dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam là sứ mệnh lịch sử thiêng liêng được Nhân dân và dân tộc giao
cho. Và niềm tin tuyệt đối của Nhân dân đối với Đảng tiếp tục được củng cố trên
cơ sở những thành tựu to lớn trong hơn 30 năm đổi mới toàn diện đất nước do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo.
Những thắng lợi vĩ đại trong 90 năm qua kể từ ngày có Đảng
lãnh đạo là minh chứng sinh động nhất về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo
của Đảng và sức mạnh to lớn của Nhân dân ta. Đảng đã không ngừng tự đổi mới,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trước bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến
phức tạp. Đảng ta đã dành không ít thời gian và công sức cho công tác xây dựng
Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, được đặt ra trong nhiều nghị
quyết, chỉ thị của Đảng.
Từ thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 90
năm qua, Đảng đã tích luỹ và đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm lớn. Trong đó, Đảng ta đã khẳng định: Sự nghiệp cách mạng là
của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên
những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích
và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật
thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời Nhân dân sẽ dẫn đến những tổn
thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và
của Đảng.
Giữ vững lòng tin của Nhân dân với Đảng là mục
tiêu phấn đấu, là trách nhiệm của mỗi tổ chức Đảng, mỗi đảng viên. Đó là cơ sở
để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi thử thách, xây dựng thành
công nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
Lâm Giàu